1 Ban đầu, Thượng Đế sáng tạo trời đất.
2 Đất chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng rõ rệt. Bóng tối che mặt vực thẳm và Thánh Linh Thượng Đế vận hành trên mặt nước.
3 Thượng Đế phán: "Phải có ánh sáng;" ánh sáng liền xuất hiện.
4 Thượng Đế rất hài lòng và phân biệt ánh sáng với bóng tối.
5 Thượng Đế gọi ánh sáng là "ngày;" bóng tối là "đêm." Đêm ngày qua đi; hết ngày thứ nhất.
6 Thượng Đế phán: "Phải có khoảng không phân cách nước với nước."
7 Vậy Thượng Đế tạo ra khoảng không, phân cách nước dưới khoảng không và nước trên khoảng không.
8 Thượng Đế gọi khoảng không là "trời." Đêm ngày lại qua; hết ngày thứ hai.
9 Thượng Đế phán: "Nước dưới trời phải tụ lại và bãi khô phải xuất hiện;" liền có như thế.
10 Thượng Đế gọi bãi khô là "đất;" nước tụ lại là "biển." Thượng Đế rất hài lòng. 11,12 Thượng Đế phán: "Từ đất phải mọc lên thảo mộc, cỏ kết hạt tùy theo loại, cây kết quả có hạt tùy theo loại;" liền có như thế. Thượng Đế rất hài lòng. 13 Đêm ngày lại qua; hết ngày thứ ba.
14,15 Thượng Đế phán: "Phải có các thể sáng trên trời để soi sáng mặt đất, phân biệt ngày đêm, chỉ định thì tiết, ngày và năm;" liền có như thế. 16 Thượng Đế làm ra hai thể sáng lớn. Thể sáng lớn hơn trị vì ban ngày; thể sáng nhỏ hơn cai quản ban đêm. Ngài cũng tạo nên các tinh tú. 17 Thượng Đế đặt các thể sáng trên trời để soi sáng mặt đất, 18 cai quản ngày đêm, phân biệt ánh sáng và bóng tối. Thượng Đế rất hài lòng. 19 Đêm ngày lại qua; hết ngày thứ tư.
20 Thượng Đế phán: "Nước phải có thật nhiều cá; trên mặt đất phải có chim bay lượn." 21,22 Thượng Đế tạo ra các giống cá lớn dưới biển, các loài cá khác và các loài chim. Thượng Đế rất hài lòng, ban phúc cho chúng và bảo: "Hãy sinh sản, tăng thêm cho đầy dẫy nước dưới biển; các loài chim hãy tăng thêm nhiều trên đất." 23 Đêm ngày lại qua; hết ngày thứ năm.
24 Thượng Đế phán: "Đất phải sinh các loài động vật: gia súc, bò sát và thú rừng tùy theo loại;" liền có như thế. 25 Thượng Đế tạo ra các loài dã thú, các loài gia súc và các loài bò sát. Thượng Đế rất hài lòng.
26 Thượng Đế phán: "Hãy tạo nên loài người theo hình ảnh Chúng Ta, giống như Chúng Ta, để quản trị các loài cá dưới biển, loài chim trên trời, cùng các loài gia súc, dã thú và bò sát trên mặt đất."
27 Vậy Thượng Đế sáng tạo loài người theo hình ảnh Ngài. Dựa theo hình ảnh Thượng Đế, Ngài dựng nên loài người. Ngài sáng tạo người nam và người nữ. 28 Thượng Đế ban phúc cho loài người và bảo: "Hãy sinh sản, tăng thêm cho đầy dẫy địa cầu, và chinh phục đất đai. Hãy cai quản các loài cá dưới biển, loài chim trên trời và loài thú trên mặt đất."
29 Thượng Đế dạy: "Này, Ta cho các con mọi loài cỏ kết hạt trên mặt đất và mọi loài cây kết quả có hạt để dùng làm lương thực. 30 Ta cũng ban cỏ xanh làm lương thực cho các loài thú dưới đất, loài chim trên trời." 31 Thượng Đế nhìn xem mọi loài Ngài đã sáng tạo; tất cả đều tốt đẹp. Đêm ngày lại qua; hết ngày thứ sáu.
1 Như thế, trời đất và vạn vật đều được sáng tạo xong.
2 Đến ngày thứ bảy, công trình hoàn tất, Thượng Đế nghỉ mọi việc.
3 Thượng Đế ban phúc và thánh hóa ngày thứ bảy (Sa-bát), vì là ngày Ngài nghỉ mọi công việc sáng tạo.
4 Đó là sự tích Thượng Đế Hằng Hữu sáng tạo trời đất.
5 Khi Thượng Đế mới sáng tạo trời đất, chưa có bụi cây nào trên mặt đất, cũng chưa có ngọn cỏ nào mọc ngoài đồng, và Thượng Đế Hằng Hữu chưa cho mưa xuống đất, cũng chưa có ai trồng cây ngoài đồng.
6 Tuy nhiên, hơi ẩm từ đất bay lên tưới khắp mặt đất.
7 Thượng Đế Hằng Hữu lấy bụi đất tạo nên người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người có sự sống.
8 Thượng Đế Hằng Hữu lập một khu vườn tại Ê-đen, về phương đông, đưa người đến ở.
9 Trong vườn, Thượng Đế trồng các loại cây đẹp đẽ, sinh quả ngon ngọt. Chính giữa vườn là Cây Sự Sống và Cây Lương Tâm (biết phân biệt thiện ác).
10 Một con sông phát nguyên từ Ê-đen tưới khắp vườn, rồi chia ra bốn nhánh.
11,12 Nhánh thứ nhất, Bi-sông, chảy quanh xứ Ha-vi-la, nơi có vàng ròng, nhũ hương và bích ngọc.
13 Nhánh thứ nhì, Ghi-sông, chảy vòng xứ Cúc.
14 Thi-giang, nhánh thứ ba, chảy sang phía đông xứ A-sy-ri. Nhánh thứ tư là Phát-giang.
15 Thượng Đế Hằng Hữu đưa A-đam vào vườn Ê-đen để trồng trọt và chăm sóc vườn.
16 Thượng Đế ra nghiêm lệnh: "Con được tự do ăn mọi thứ cây trái trong vườn,
17 trừ Cây Lương Tâm, vì trái nó mở mắt con, cho con biết điều thiện điều ác. Một khi con ăn, chắc chắn sẽ chết!"
18 Thượng Đế Hằng Hữu phán: "Người sống cô độc không tốt. Ta sẽ tạo nên một kẻ giúp đỡ thích hợp."
19 Thượng Đế lấy đất tạo nên các loài thú rừng, loài chim trời, đem đến cho A-đam để xem người đặt tên. Tên A-đam đặt cho mỗi sinh vật đều thành tên riêng cho nó.
20 Vậy, A-đam đặt tên cho tất cả loài gia súc, loài chim trời, loài thú rừng; nhưng A-đam chẳng tìm thấy kẻ giúp đỡ thích hợp cho mình.
21 Thượng Đế làm cho A-đam ngủ mê, lấy một xương sườn, rồi lắp thịt thay chỗ xương.
22 Thượng Đế dùng xương sườn đó tạo nên người nữ, đưa đến cho A-đam.
23 A-đam nói: "Người này là một phần xương thịt của tôi. Người được gọi là 'người nữ,' vì từ người nam mà ra."
24 Vì thế, người nam sẽ rời cha mẹ để gắn bó với vợ; hai người trở thành một.
25 A-đam và vợ đều trần truồng, nhưng không hổ thẹn.
1 Trong các loài động vật Thượng Đế tạo nên, rắn xảo quyệt hơn cả. Rắn hỏi dò người nữ: "Có phải Thượng Đế cấm chị không được ăn mọi thứ cây trong vườn không?"
2 "Chúng tôi được ăn các thứ trái cây trong vườn chứ!" người nữ đáp,
3 "Chỉ mỗi một cây trồng giữa vườn, Thượng Đế không cho đụng chạm đến; nếu trái lệnh chúng tôi sẽ chết."
4 Rắn quả quyết: "Chắc chắn không chết đâu!
5 Thượng Đế biết rõ khi nào ăn, mắt anh chị sẽ mở ra, anh chị sẽ giống như Thượng Đế, biết phân biệt thiện ác."
6 Người nữ nhìn trái cây thèm thuồng, thấy vừa ngon, vừa đẹp, lại mở mang trí khôn, liền đưa tay hái ăn, rồi trao cho chồng đứng bên mình. Chồng cũng ăn nữa.
7 Mắt hai người mở ra, biết mình trần truồng, liền kết lá vả che thân.
8 Đến chiều, nghe tiếng Thượng Đế Hằng Hữu đi qua vườn, A-đam và vợ liền ẩn nấp giữa lùm cây trong vườn.
9 Thượng Đế gọi: "A-đam, con ở đâu?"
10 A-đam thưa: "Nghe tiếng Chúa trong vườn, con sợ nên đi trốn, vì con trần truồng."
11 Thượng Đế hỏi: "Ai nói cho con biết con trần truồng? Con đã ăn trái cây Ta cấm phải không?"
12 A-đam thú nhận: "Người nữ Chúa cho sống với con đã đưa con trái cây ấy, và con ăn rồi."
13 Thượng Đế Hằng Hữu hỏi người nữ: "Sao con làm điều đó?"
"Rắn lừa gạt con, nên con ăn," người nữ đáp.
14 Thượng Đế Hằng Hữu quở rắn: "Vì mầy đã làm điều ấy, trong tất cả các loài gia súc và thú rừng, chỉ có mầy bị nguyền rủa. Mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn đời.
15 Ta sẽ đặt hận thù giữa mầy và người nữ, giữa hậu tự mầy và Hậu Tự người nữ. Người sẽ chà đạp đầu mầy; còn mầy sẽ cắn gót chân Người."
16 Thượng Đế bảo người nữ: "Ta sẽ tăng thêm khốn khổ khi con thai nghén; con sẽ đau đớn khi sinh nở; dục vọng con sẽ hướng về chồng, và chồng sẽ quản trị con."
17 Quay sang A-đam, Thượng Đế phán: "Vì con nghe lời vợ, ăn trái cây Ta đã ngăn cấm, nên đất bị nguyền rủa. Trọn đời con phải làm lụng vất vả mới có miếng ăn.
18 Đất sẽ mọc gai góc và gai độc; con sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng.
19 Con phải đổi mồ hôi lấy bát cơm, cho đến ngày con qua đời trở về đất, là cội nguồn của con. Là bụi đất, con phải trở về bụi đất."
20 A-đam gọi vợ là Ê-va, vì là mẹ của cả loài người.
21 Thượng Đế Hằng Hữu lấy da thú làm áo mặc cho A-đam và Ê-va.
22 Thượng Đế Hằng Hữu phán: "Này, loài người đã biết phân biệt thiện ác y như Chúng Ta. Nếu bây giờ nó đưa tay hái ăn trái Cây Sự Sống, nó sẽ sống vĩnh viễn!"
23 Vì thế, Thượng Đế đuổi A-đam khỏi vườn Ê-đen, để khai khẩn đất mà Ngài đã dùng tạo nên con người.
24 Khi đuổi người ra, Thượng Đế đặt các thiên thầnd cầm kiếm chói lòa tại phía đông vườn, để canh gác con đường dẫn đến Cây Sự Sống.
1 A-đam ăn ở với Ê-va, vợ mình. Bà có thai, sinh Ca-in. Bà nói: "Nhờ Thượng Đế, tôi sinh được một người."
2 Bà lại sinh A-bên, em Ca-in. Lớn lên, A-bên đi chăn chiên, còn Ca-in làm ruộng.
3 Đến mùa, Ca-in lấy hoa quả đồng ruộng làm lễ vật dâng lên Chúa Hằng Hữu.
4 A-bên cũng dâng phần thịt mỡ của chiên đầu lòng. Chúa Hằng Hữu nhận lễ vật của A-bên,
5 nhưng từ chối lễ vật của Ca-in. Ca-in giận dữ đến sạm mặt vì thất vọng.
6 Chúa Hằng Hữu hỏi: "Tại sao con giận? Sao mặt con sạm lại?
7 Nếu con làm điều tốt, lẽ nào không được chấp nhận? Nhưng khi làm điều xấu, hãy coi chừng, vì tội lỗi đang rình rập chờ đợi để hủy diệt con, nhưng con phải thắng nó."
8 Ca-in rủ A-bên, em mình ra ngoài đồng. Khi hai anh em ra đó, Ca-in liền xông lại giết em mình.
9 Chúa Hằng Hữu hỏi Ca-in: "A-bên, em con đâu?" "Con không biết! Con đâu phải người trông nom nó!" Ca-in đáp.
10 Thượng Đế phán: "Con đã làm gì? Tiếng kêu khóc của máu em con chan hòa dưới đất, đã thấu tai Ta.
11 Từ nay, con bị đuổi khỏi mảnh đất đã nhuộm máu em con.
12 Dù con trồng trọt, đất cũng không sinh hoa lợi cho con nữa. Con chỉ là người chạy trốn, kẻ lang thang trên mặt đất."
13 Ca-in thưa: "Hình phạt ấy nặng quá sức chịu đựng của con.
14 Ngày nay Chúa đuổi con khỏi đồng ruộng này; con là kẻ chạy trốn, lang thang xa lánh mặt Chúa. Nếu có ai gặp con, họ sẽ giết con."
15 Chúa Hằng Hữu đáp: "Ai giết con sẽ bị phạt bảy lần án phạt của con." Chúa Hằng Hữu đánh dấu trên người Ca-in, để ai gặp ông, sẽ không giết.
16 Ca-in lánh mặt Chúa, đến sống tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen.
17 Ca-in ăn ở với vợ. Bà có thai sinh Hê-nóc. Ca-in xây một thành phố, gọi là Hê-nóc theo tên con.
18 Hê-nóc sinh Y-rát; Y-rát sinh Mê-hu-gia-ên; Mê-hu-gia-ên sinh Mê-tu-sa-ên; Mê-tu-sa-ên sinh Lê-méc.
19 Lê-méc lấy hai vợ: A-đa và Si-la.
20 A-đa sinh Gia-banh. Gia-banh là tổ phụ của dân ở lều, nuôi gia súc.
21 Em Gia-banh là Giu-banh, tổ phụ của những người đàn thụ cầm, thổi sáo.
22 Còn Si-la sinh Tu-banh-ca-in, là người rèn các dụng cụ bằng đồng, bằng sắt. Em gái Tu-banh-ca-in là Na-a-ma.
23 Một hôm, Lê-méc nói với A-đa và Si-la: "Này, vợ Lê-méc, hãy nghe! Ta đã giết một người, vì nó đánh ta bị thương; và một thiếu niên, vì nó làm ta đau đớn.
24 Ai giết Ca-in sẽ bị phạt bảy lần; còn ai giết ta sẽ bị báo thù bảy mươi bảy lần."
25 Sau đó, A-đam và Ê-va còn sinh một con trai nữa, đặt tên là Sết. Ê-va nói: "Thượng Đế cho tôi một con trai khác, thay cho A-bên mà Ca-in đã giết."
26 Sết cũng sinh con trai, đặt tên là Ê-nót. Từ đời Ê-nót, người ta bắt đầu cầu nguyện với Chúa Hằng Hữu.
1 Đây là dòng dõi A-đam. Thượng Đế đã sáng tạo A-đam giống như hình ảnh Ngài.
2 Ngài tạo ra người nam và người nữ. Ngay từ đầu, Ngài ban phúc cho họ, và đặt tên là Người.
3 A-đam được 130 tuổi, sinh một con trai giống hệt như mình, đặt tên là Sết.
4 Sau khi sinh Sết, A-đam còn sống thêm 800 năm, sinh con trai con gái.
5 Vậy A-đam thọ 930 tuổi.
6 Sết được 105 tuổi, sinh Ê-nót.
7 Sau khi sinh Ê-nót, Sết còn sống thêm 807 năm, sinh con trai con gái.
8 Vậy Sết thọ 912 tuổi.
9 Ê-nót được 90 tuổi, sinh Cai-nan.
10 Sau khi sinh Cai-nan, Ê-nót còn sống thêm 815 năm, sinh con trai con gái.
11 Vậy Ê-nót thọ 905 tuổi.
12 Cai-nan được 70 tuổi, sinh Ma-ha-la-lê.
13 Sau khi sinh Ma-ha-la-lê, Cai-nan còn sống thêm 840 năm, sinh con trai con gái.
14 Vậy Cai-nan thọ 910 tuổi.
15 Ma-ha-la-lê được 65 tuổi, sinh Gia-rết.
16 Sau khi sinh Gia-rết, Ma-ha-la-lê còn sống thêm 830 năm, sinh con trai con gái.
17 Ma-ha-la-lê thọ 895 tuổi.
18 Gia-rết được 162 tuổi, sinh Hê-nóc.
19 Sau khi sinh Hê-nóc, Gia-rết còn sống thêm 800 năm, sinh con trai con gái.
20 Vậy Gia-rết thọ 962 tuổi.
21 Hê-nóc được 65 tuổi, sinh Mê-tu-sê-la.
22 Sau khi sinh Mê-tu-sê-la, Hê-nóc sống thêm 300 năm, đồng đi với Thượng Đế, sinh con trai con gái.
23,24 Sống gần Thượng Đế cho đến năm 365 tuổi, Hê-nóc biến mất, vì Thượng Đế đem ông đi.
25 Mê-tu-sê-la được 187 tuổi, sinh Lê-méc.
26 Sau khi sinh Lê-méc, Mê-tu-sê-la còn sống thêm 782 năm, sinh con trai con gái.
27 Vậy, Mê-tu-sê-la thọ 969 tuổi.
28 Lê-méc được 182 tuổi, sinh một con trai,
29 đặt tên là Nô-ê, và nói: "Nó sẽ an ủi chúng ta lúc nhọc nhằn khốn khổ, vì mảnh đất khô khan này đã bị Thượng Đế nguyền rủa."
30 Sau khi sinh Nô-ê, Lê-méc còn sống thêm 595 năm, sinh con trai con gái.
31 Vậy Lê-méc thọ 777 tuổi.
32 Nô-ê được 500 tuổi, có ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết.
1 Loài người đông đúc thêm trên mặt đất, và sinh nhiều con gái.
2 Các con trai Thượng Đế thấy con gái loài người xinh đẹp, liền cưới những người họ ưa thích.
3 Chúa Hằng Hữu phán: "Thần Linh của Ta sẽ chẳng ở với loài người mãi mãi, vì người chỉ là xác thịt. Đời người chỉ còn 120 năm mà thôi."
4 Đời đó và đời sau, trên mặt đất có người khổng lồ, do con trai Thượng Đế ăn ở với con gái loài người sinh ra. Đó là những người anh hùng danh tiếng thời xưa.
5 Chúa Hằng Hữu thấy loài người gian ác quá, tất cả ý tưởng trong lòng đều xấu xa luôn luôn.
6 Thượng Đế ân hận, đau xót vì đã tạo nên loài người.
7 Chúa Hằng Hữu phán: "Ta sẽ xóa sạch khỏi mặt đất loài người Ta đã sáng tạo, từ loài người cho đến loài thú, loài bò sát, loài chim trời. Ta hối tiếc đã tạo ra chúng nó."
8 Nhưng Nô-ê được ân phúc của Thượng Đế.
9 Đây là câu chuyện Nô-ê: Nô-ê là người công chính, sống trọn vẹn giữa những người thời đó; ông đồng đi với Thượng Đế.
10 Ông có ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết.
11 Thượng Đế thấy khắp đất đều đồi trụy đầy tội ác.
12 Thượng Đế nhìn xuống địa cầu, thấy cả nhân loại đều xấu xa, thối nát đến tận xương tủy.
13 Thượng Đế bảo Nô-ê: "Ta quyết định hủy diệt loài người, vì chúng nó gây tội ác đầy dẫy mặt đất. Phải, Ta sẽ xóa sạch loài người khỏi mặt địa cầu.
14 Con hãy đóng một chiếc tàu bằng gỗ bách, ngăn làm nhiều phòng, trát nhựa cả trong lẫn ngoài.
15 Chiều dài chiếc tàu là 300 thước, chiều rộng 50 thước và chiều cao 30 thước.
16 Con trổ cửa sổ chung quanh tàu, cách mái 50 phân, và đặt cửa ra vào bên hông tàu. Cũng đóng sàn ngăn tàu làm ba tầng: tầng dưới, tầng giữa và tầng trên.
17 Này, Ta sẽ đổ nước lụt ngập mặt đất để hủy diệt mọi sinh vật dưới vòm trời này. Tất cả sẽ chết!
18 Nhưng Ta hứa sẽ bảo vệ con, cùng với vợ, con trai và con dâu của con an toàn trong tàu.
19,20 Con cũng đem vào tàu tất cả các loài sinh vật để chúng tồn tại với con, loài chim trời, loài gia súc, loài bò sát, mỗi thứ một cặp, đực và cái.
21 Con cũng trữ lương thực trong tàu cho con và cho loài vật."
22 Nô-ê làm theo mọi điều Thượng Đế đã phán dạy.
1 Chúa Hằng Hữu bảo Nô-ê: "Con và cả gia quyến hãy vào tàu, vì trong đời này, Ta thấy con là người công chính duy nhất trước mặt Ta.
2 Con cũng đem theo các thú vật tinh sạch, mỗi loài bảy cặp, đực và cái; các thú vật không tinh sạch, mỗi loài một cặp, đực và cái;
3 các loài chim trời, mỗi loài bảy cặp, trống và mái, để giữ dòng giống trên mặt đất.
4 Bảy ngày nữa, Ta sẽ cho mưa trút xuống mặt đất suốt bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật Ta đã sáng tạo."
5 Nô-ê làm theo mọi điều Chúa Hằng Hữu chỉ dạy.
6 Nô-ê được sáu trăm tuổi khi nước lụt dâng lên.
7 Ông vào tàu tránh nước lụt cùng vợ, con trai và con dâu.
8,9 Các thú vật tinh sạch và không tinh sạch, các loài chim và bò sát, từng cặp từng cặp, đực và cái, trống và mái, đều theo Nô-ê vào tàu, như lời Thượng Đế chỉ dạy.
10 Bảy ngày sau, nước lụt dâng lên phủ mặt đất.
11 Vào năm Nô-ê sáu trăm tuổi, ngày mười bảy tháng hai, mưa từ trời trút xuống như thác lũ, các mạch nước dưới đất đều vỡ tung.
12 Mưa liên tiếp bốn mươi ngày bốn mươi đêm.
13 Ngày ấy, Nô-ê vào tàu với vợ, ba con trai - Sem, Cham, Gia-phết - và ba con dâu.
14 Ngoài ra, các loài thú rừng, loài gia súc, loài bò sát và loài chim trời
15,16 đều theo Nô-ê vào tàu, từng đôi từng cặp, đực và cái, trống và mái, như lời Thượng Đế đã phán dạy Nô-ê. Rồi Chúa Hằng Hữu đóng cửa tàu.
17 Suốt bốn mươi ngày, nước lụt ầm ầm lan tràn bao phủ khắp nơi, và nâng chiếc tàu khỏi mặt đất.
18 Nước dâng lên cao; chiếc tàu nổi trên mặt nước.
19 Nước tiếp tục dâng cao hơn nữa; mọi đỉnh núi chót vót dưới trời đều bị ngập.
20 Nước vượt lên các ngọn núi hơn mười lăm thước.
21 Tất cả các loài động vật đều chết, nào loài chim trời, loài gia súc, loài thú rừng, loài bò sát và loài người;
22 tức là mọi loài có hơi thở, sống trên đất khô đều chết hết.
23 Mọi sinh vật trên mặt đất đều bị hủy diệt, từ loài người cho đến loài thú, loài bò sát, loài chim trời. Tất cả đều bị quét sạch khỏi mặt đất, chỉ có gia quyến Nô-ê và mọi loài ở với ông trong tàu được sống sót.
24 Nước ngập mặt đất suốt một trăm năm mươi ngày.
1 Thượng Đế không quên Nô-ê và các loài sinh vật ở với ông trong tàu. Ngài khiến cơn gió thổi ngang qua mặt nước, nước lụt liền rút xuống.
2 Các mạch nước dưới đất và các nguồn nước trên trời ngưng lại; cơn mưa liền dứt.
3 Sau một trăm năm mươi ngày ngập lụt, nước hạ xuống, và đều đặn rút khỏi mặt đất.
4 Ngày mười bảy tháng bảy, chiếc tàu dừng trên núi A-ra-rát.
5 Nước cứ hạ dần. Cho đến ngày mồng một tháng mười, các đỉnh núi mới ló dạng.
6 Sau bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ trên tàu,
7 thả một con quạ ra ngoài, nó bay lui bay tới cho đến khi nước rút khô trên đất.
8 Nô-ê cũng thả một con chim bồ câu, để xem nước rút khỏi mặt đất chưa.
9 Nhưng bồ câu không tìm được chỗ đáp xuống, liền bay trở về với Nô-ê trên tàu, vì mực nước còn cao. Nô-ê đưa tay đỡ lấy bồ câu, đưa vào tàu.
10 Đợi bảy ngày nữa, Nô-ê lại thả bồ câu ra khỏi tàu.
11 Đến chiều, bồ câu bay về, trong mỏ ngậm một lá ô-liu vừa mới ngắt. Nô-ê biết nước đã rút khỏi mặt đất.
12 Bảy ngày sau, Nô-ê lại thả bồ câu ra, nhưng lần này bồ câu không trở lại.
13 Ngày mồng một tháng giêng, năm Nô-ê 601 tuổi, ông mở cửa tàu nhìn ra, này, nước đã rút cạn.
14 Tám tuần lễ sau, đất đã khô.
15 Thượng Đế bảo Nô-ê:
16 "Con và gia quyến hãy ra khỏi tàu.
17 Cũng thả các sinh vật đã ở với con, nào loài chim, loài thú, loài bò sát, để chúng sinh sôi nẩy nở, tăng thêm nhiều trên mặt đất." 18-19 Nô-ê cùng vợ, các con và các dâu đều ra khỏi tàu. Tất cả các loài thú, loài chim và loài bò sát sống trên mặt đất cũng ra khỏi tàu với Nô-ê.
20 Nô-ê dựng bàn thờ dâng sinh tế (loài thú và chim tinh sạch) cho Chúa Hằng Hữu. 21 Chúa Hằng Hữu hài lòng, tự nhủ: "Ta chẳng bao giờ nguyền rủa đất nữa, cũng chẳng tiêu diệt mọi loài sinh vật như Ta đã làm, vì ngay lúc tuổi trẻ, loài người đã có khuynh hướng xấu trong lòng. 22 Còn trời đất thì vẫn còn mùa gieo và mùa gặt, lạnh và nóng, mùa hè và mùa đông, đêm và ngày."
1 Thượng Đế ban phúc cho Nô-ê và các con. Ngài phán: "Hãy sinh sản thêm nhiều cho đầy mặt đất.
2,3 Các loài thú dưới đất, loài chim trên trời, loài cá dưới biển đều khiếp sợ các con, phục quyền các con. Ta cho các con mọi loài đó làm lương thực, cũng như Ta đã cho cây trái.
4 Nhưng không được ăn thịt còn huyết sống.
5,6 Cũng không được giết người. Con thú nào làm đổ huyết các con, Ta sẽ đòi nó trả lại huyết ấy. Ta cũng đòi huyết nơi kẻ giết anh em mình. Kẻ giết người phải bị xử tử, vì Thượng Đế đã tạo nên loài người theo hình ảnh Ngài.
7 Các con hãy sinh con thật đông, tăng thêm thật nhiều cho đầy mặt đất."
8 Thượng Đế bảo Nô-ê và các con:
9-11 "Này, Ta hứa với các con, dòng dõi các con, và với tất cả loài động vật ra khỏi tàu - loài chim trời, loài gia súc, loài thú rừng - từ nay mọi sinh vật sẽ chẳng bao giờ bị nước lụt giết hại nữa; cũng chẳng có nước lụt tàn phá đất nữa.
12,13 "Đây là dấu hiệu của lời hứa: Ta sẽ đặt mống trên mây, biểu hiệu lời hứa bất diệt của Ta với con và muôn loài trên đất. 14 Khi nào Ta giăng mây trên trời và cầu vồng xuất hiện trên mây, 15 Ta sẽ nhớ lại lời hứa với con và muôn loài: Sẽ chẳng có nước lụt hủy diệt mọi sinh vật nữa. 16,17 Ta sẽ thấy cầu vồng trên mây và nhớ lại lời hứa vĩnh viễn của Ta với con và mọi sinh vật trên đất."
18 Các con trai Nô-ê đã ra khỏi tàu là Sem, Cham và Gia-phết. (Cham là cha của Ca-na-an.) 19 Do ba con trai Nô-ê mà sinh ra mọi dân tộc trên mặt đất.
20,21 Nô-ê làm nghề nông, trồng nho, ép rượu. Ông uống say, trần truồng nằm trong trại. 22 Cham, cha Ca-na-an, thấy thế, liền ra ngoài thuật cho Sem và Gia-phết. 23 Hai anh em lấy áo choàng vắt vai, đi giật lùi vào trại, mặc cho cha, hướng mắt ra bên ngoài, nên không nhìn thấy cha trần truồng. 24 Khi Nô-ê tỉnh rượu, hay được việc Cham đã làm cho mình, 25 liền nói: "Ca-na-an bị nguyền rủa. Nó sẽ làm nô lệ hèn hạ nhất của anh em nó."
26 Ông nói tiếp: "Tôn vinh Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Sem,
Nguyện Ca-na-an làm nô lệ cho nó.
27 "Nguyện Thượng Đế mở rộng bờ cõi của Gia-phết,
Cho nó sống trong trại của Sem,
và Ca-na-an làm nô lệ cho nó."
28 Sau nước lụt, Nô-ê sống thêm 350 năm, 29 và qua đời năm 950 tuổi.
1 Sau nước lụt, ba con trai Nô-ê - Sem, Cham, Gia-phết - lần lượt sinh con. Đây là dòng dõi của họ:
2 Con trai Gia-phết là Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-ban, Mê-siết và Ti-ra.
3 Con trai Gô-me là A-kê-na, Ri-phát và Tô-ga-ma.
4 Con trai Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim và Đô-đa-nim.
5 Dòng dõi họ là những dân tộc chia theo dòng họ sống dọc miền duyên hải ở nhiều xứ; mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng biệt.
6 Con trai Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an.
7 Con trai Cúc là Xê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ma, Sáp-tê-ca. Con trai của Ra-ma là Sê-ba và Đê-đan.
8 Cúc là tổ phụ Nim-rốt. Nim-rốt khởi xưng anh hùng trên mặt đất,
9 săn bắn dũng cảm trước mặt Chúa Hằng Hữu. Phương ngôn có câu: "Anh hùng như Nim-rốt, săn bắn dũng cảm trước mặt Chúa Hằng Hữu."
10 Vương quốc của ông thoạt tiên bao gồm Ba-bên, Ê-rết, A-cát và Ca-ne trong xứ Si-nê-a.
11 Rồi lãnh thổ bành trướng sang xứ A-sy-ri. Ông xây thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bô-la, Ca-la
12 và Rê-sen (giữa Ni-ni-ve và Ca-la, thủ đô của vương quốc).
13 Mích-ra-im là tổ phụ các dân Lu-đim, A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp-tu-him,
14 Bát-ru-sim, Cách-lu-him (từ dân này sinh ra dân Phi-li-tin) và Cáp-tô-rim.
15 Ca-na-an sinh Si-đôn, là con đầu lòng, và Hết.
16 Ông là tổ phụ dân Giê-bu, A-mô, Ghi-reng,
17 Hê-vi, A-réc, Si-ni,
18 A-va, Xê-ma, Ha-ma. Sau đó, dòng dõi Ca-na-an đi tản mác
19 từ Si-đôn cho đến Ghê-ra tận Ga-xa, và cho đến Sô-đôm, Gô-mo, Át-ma và Sê-bô-im tận Lê-sa.
20 Đó là con cháu Cham, phân chia theo dòng họ, ngôn ngữ, lãnh thổ và dân tộc.
21 Sem, anh cả của Gia-phết, là tổ phụ Hê-be.
22 Con trai Sem là Ê-lam, A-su-rơ, A-bác-sát, Lút và A-ram.
23 Con trai A-ram là U-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mách.
24 A-bác-sát sinh Sê-lách; Sê-lách sinh Hê-be.
25 Hê-be sinh hai con trai. Một người tên Bê-léc (nghĩa là "chia," vì trong đời ấy, đất bị phân chia). Em Bê-léc là Giốc-tan.
26 Giốc-tan sinh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-ra,
27 Ha-đô-ram, U-xa, Điệt-la,
28 Ô-ban, A-bi-ma-ên, Sê-ba,
29 Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp. Đó là các con trai Giốc-tan.
30 Họ định cư từ miền Mê-sa cho đến ngọn đồi Sê-pha ở phía đông.
31 Đó là con cháu Sem, phân chia theo dòng họ, ngôn ngữ, lãnh thổ và dân tộc.
32 Trên đây là dòng dõi ba con trai Nô-ê qua nhiều thế hệ, chia ra nhiều dân tộc. Cũng nhờ họ mà có các dân tộc phân tán trên mặt đất sau cơn nước lụt.
1 Lúc ấy, cả nhân loại đều nói một thứ tiếng.
2 Khi đến phương đông, họ tìm thấy đồng bằng trong xứ Si-nê-a, liền định cư tại đó.
3,4 Họ bảo nhau: "Chúng ta hãy làm gạch nung trong lửa, xây một thành phố vĩ đại, có cái tháp cao tận trời xanh, danh tiếng chúng ta sẽ tồn tại muôn đời. Như thế, chúng ta sẽ sống đoàn tụ khỏi bị tản lạc khắp mặt đất." Vậy, họ đúc từng tảng gạch lớn, dùng nhựa làm hồ và khởi công xây cất.
5 Chúa Hằng Hữu xuống xem thành phố và ngọn tháp loài người đang xây.
6 Ngài phán: "Này, nếu chỉ là một dân tộc, nói cùng một thứ tiếng, mà họ đã bắt đầu công việc này, thì chẳng có gì ngăn cản được những việc họ định làm.
7 Chúng Ta hãy xuống làm xáo trộn ngôn ngữ, để họ không hiểu lời nói của nhau."
8 Chúa Hằng Hữu làm họ tản lạc khắp mặt đất, không tiếp tục xây thành phố được.
9 Vì thế, thành phố đó gọi là Ba-bên (nghĩa là xáo trộn), vì Chúa Hằng Hữu đã làm xáo trộn tiếng nói cả thế giới, và phân tán loài người khắp mặt đất.
10 Đây là dòng dõi Sem: Hai năm sau nước lụt, Sem được 100 tuổi, sinh A-bác-sát.
11 Sau khi sinh A-bác-sát, Sem còn sống thêm 500 năm, sinh con trai con gái.
12 A-bác-sát được 35 tuổi, sinh Sê-lách.
13 Sau khi sinh Sê-lách, A-bác-sát còn sống thêm 403 năm, sinh con trai con gái.
14 Sê-lách được 30 tuổi, sinh Hê-be.
15 Sau khi sinh Hê-be, Sê-lách còn sống thêm 403 năm, sinh con trai con gái.
16 Hê-be được 34 tuổi, sinh Bê-léc.
17 Sau khi sinh Bê-léc, Hê-be còn sống thêm 430 năm, sinh con trai con gái.
18 Bê-léc được 30 tuổi, sinh Rê-hu.
19 Sau khi sinh Rê-hu, Bê-léc còn sống thêm 209 năm, sinh con trai con gái.
20 Rê-hu được 32 tuổi, sinh Sê-rúc.
21 Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-hu còn sống thêm 207 năm, sinh con trai con gái.
22 Sê-rúc được 30 tuổi, sinh Na-cơ.
23 Sau khi sinh Na-cơ, Sê-rúc còn sống thêm 200 năm, sinh con trai con gái.
24 Na-cơ được 29 tuổi, sinh Tha-rê.
25 Sau khi sinh Tha-rê, Na-cơ còn sống thêm 119 năm, sinh con trai con gái.
26 Tha-rê được 70 tuổi, sinh Áp-ram, Na-cơ và Ha-ran.
27 Đây là dòng dõi Tha-rê: Tha-rê sinh Áp-ram, Na-cơ và Ha-ran. Ha-ran sinh Lót.
28 Ha-ran mất sớm tại quê hương (xứ U-rơ của người Canh-đê), khi Tha-rê hãy còn sống.
29 Áp-ram và Na-cơ cưới vợ. Vợ Áp-ram là Sa-rai; vợ Na-cơ là Minh-ca, con gái Ha-ran. Em Minh-ca là ích-ca.
30 Sa-rai son sẻ, không có con.
31 Tha-rê đem Áp-ram (con mình), Lót (con Ha-ran, cháu nội mình) và Sa-rai (dâu mình) ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, để đến xứ Ca-na-an.
32 Nhưng khi đến xứ Ha-ran, thì họ định cư.
33 Tha-rê thọ 205 tuổi, và qua đời tại Ha-ran.
1 Chúa Hằng Hữu bảo Áp-ram: "Hãy lìa quê cha đất tổ, bỏ họ hàng thân thuộc, đi đến xứ Ta sẽ chỉ định.
2 Ta sẽ cho con trở thành tổ phụ một dân tộc lớn. Ta sẽ ban phúc, làm rạng danh con, và con sẽ đem hạnh phúc cho nhiều người.
3 Ta sẽ giáng phúc trên người nào cầu phúc cho con; nguyền rủa người nào nguyền rủa con. Tất cả các dân tộc trên mặt đất sẽ do con mà được hạnh phúc."
4 Vậy, Áp-ram ra đi, như lời Chúa Hằng Hữu đã dạy. Lót cùng đi với ông. Khi rời khỏi Ha-ran, Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi.
5 Áp-ram đem Sa-rai vợ mình, Lót cháu mình, cùng tất cả cơ nghiệp - tôi tớ, súc vật - đã gây dựng tại Ha-ran, để đi đến xứ Ca-na-an. Và họ đều đến Ca-na-an.
6 Áp-ram vào sâu trong xứ Ca-na-an, đến gần Si-chem, dựng trại bên cây sồi tại Mô-rê.
7 Chúa Hằng Hữu hiện ra bảo Áp-ram: "Ta sẽ cho dòng dõi con xứ này." Áp-ram dựng bàn thờ kỷ niệm Chúa Hằng Hữu.
8 Sau đó, Áp-ram xuống vùng đồi núi giữa Bê-tên và A-hi (Bê-tên ở phía đông, A-hi ở phía tây). Tại đó ông dựng trại, lập bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu và cầu nguyện với Ngài.
9 Ông tiếp tục đi dần về hướng nam cho đến Nê-ghép.
10 Lúc ấy, vì có nạn đói lớn xảy đến trong xứ, nên Áp-ram lánh sang Ai Cập.
11 Khi sắp vào lãnh thổ Ai Cập, Áp-ram bảo Sa-rai: "Tôi biết bà rất đẹp.
12 Nếu người Ai Cập nhìn thấy bà, lại biết bà là vợ tôi, họ sẽ giết tôi để cướp bà.
13 Hãy nói bà là em gái tôi. Nhờ bà, họ sẽ hậu đãi và tha mạng cho tôi."
14 Quả nhiên, đến Ai Cập, mọi người đều trầm trồ về nhan sắc Sa-rai.
15 Triều thần Ai Cập thấy bà liền ca tụng với vua, và bà bị đưa vào hậu cung.
16 Nhờ bà, vua hậu đãi Áp-ram, cho ông nhiều chiên, bò, lừa, lạc đà và tôi tớ nam nữ.
17 Nhưng cũng vì Sa-rai, Chúa Hằng Hữu giáng tai họa khủng khiếp trên vua và cả hoàng cung Ai Cập.
18 Vua cho đòi Áp-ram vào trách: "Sao ngươi nỡ hại ta như thế? Sao không nói là vợ ngươi?
19 Sao lại nói là em gái, để ta lấy làm vợ? Bây giờ, vợ ngươi đây, hãy nhận nàng lại và đi đi!"
20 Vua ra lệnh cho quân sĩ hộ tống Áp-ram, vợ, tôi tớ và tài sản của ông ra khỏi Ai Cập.
1 Áp-ram và vợ rời Ai Cập đến Nê-ghép, đem theo tất cả tôi tớ, tài sản. Lót cùng đi với ông.
2 Áp-ram rất giàu; súc vật và vàng bạc nhiều lắm.
3 Ông tiếp tục lên hướng bắc, đến gần Bê-tên, chỗ đóng trại khi trước, giữa Bê-tên và A-hi,
4 là nơi ông đã lập bàn thờ và cầu nguyện với Chúa Hằng Hữu.
5 Lót cũng có nhiều chiên, bò và tôi tớ.
6 Đất đai miền này không đủ chỗ cho súc vật của Áp-ram và Lót, vì chiên bò quá nhiều, họ không thể sống chung.
7 Lại có chuyện tranh chấp giữa bọn chăn chiên của Áp-ram và Lót. Lúc ấy, người Ca-na-an và người Phê-rết sống trong xứ.
8 Áp-ram bảo Lót: "Nên tránh chuyện xung khắc giữa bác với cháu, giữa bọn chăn chiên của bác và của cháu, vì chúng ta là ruột thịt.
9 Cháu hãy lựa chọn phần đất cháu ưa thích, rồi chúng ta chia tay. Nếu cháu sang phía đông, bác sẽ ở phía tây; còn nếu cháu chọn phía tây, bác sẽ qua phía đông."
10 Lót chăm chú nhìn vùng đồng bằng Giô-đan phì nhiêu, nước tưới khắp nơi (lúc ấy Chúa Hằng Hữu chưa hủy diệt Sô-đôm và Gô-mo). Phần đất này giống như vườn Ê-đen, cũng giống miền Xoa nước Ai Cập.
11 Lót liền chọn đồng bằng Giô-đan, đem bầy súc vật và tôi tớ mình sang phía đông. Thế là bác cháu chia tay.
12 Áp-ram ở lại xứ Ca-na-an; còn Lót sống trong các thành phố vùng đồng bằng, dựng trại gần Sô-đôm.
13 Dân Sô-đôm độc ác kinh khiếp, và tội lỗi quá độ trước mặt Chúa Hằng Hữu.
14 Sau khi Lót từ biệt, Chúa Hằng Hữu phán với Áp-ram: "Hãy phóng tầm mắt nhìn khắp bốn phương:
15 tất cả dải đất con thấy đây, Ta sẽ cho con và dòng dõi con vĩnh viễn.
16 Ta sẽ làm cho dòng dõi con nhiều như cát bụi, không thể đếm được.
17 Con hãy đi dọc ngang quan sát khắp nơi, vì Ta sẽ cho con dải đất này."
18 Áp-ram liền dời trại đến chùm cây sồi của Mam-rê, tại Hếp-rôn, và lập bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu.
1 Vua Sô-đôm và Vua Gô-mo Tranh Chiến Cùng Vua Kết-rô-lao-me và Các Vua Đồng Minh
Lúc ấy chiến tranh xảy ra trong xứ. Am-ra-phên vua Si-nê-a, A-ri-óc vua Ê-la-sa, Kết-rô-lao-me vua Ê-lam, và Ti-đanh vua Gô-im
2 đem quân tiến công Bê-ra vua Sô-đôm, Biệt-sa vua Gô-mo, Si-náp vua Át-ma, Sê-mê-be vua Xê-bô-im, và vua Bê-la (tức là Xoa).
3 Năm vua này đóng quân tại thung lũng Si-đim (tức là Biển Mặn).
4 Trong mười hai năm, họ tùng phục Kết-rô-lao-me, nhưng sang năm thứ mười ba thì nổi loạn.
5 Một năm sau, Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh đem quân chinh phạt dân Rê-pha-im tại Ách-tê-rốt Cạt-na-im, dân Xu-xim tại Ham, dân Ê-mim tại đồng bằng Ki-ri-a-ta-im,
6 dân Hô-rít tại núi Sê-i-rơ cho đến Ên-Ba-ran gần sa mạc.
7 Các vua quay lại Ên-mích-phát (tức là Ca-đe), xâm lược lãnh thổ dân A-ma-léc, và dân A-mo tại Ha-xa-xôn Tha-ma.
8 Vua Sô-đôm, vua Gô-mo, vua Át-ma, vua Xê-bô-im và vua Bê-la (tức là Xoa) đem quân dàn trận trong thung lũng Si-đim,
9 để chống lại Kết-rô-lao-me vua Ê-lam, Ti-đanh vua Gô-im, Am-ra-phên vua Si-nê-a và A-ri-óc vua Ê-la-sa (năm vua chống bốn).
10 Thung lũng Si-đim có nhiều hố nhựa. Quân của vua Sô-đôm và vua Gô-mo thua chạy, một phần rơi xuống hố, phần còn lại trốn lên núi.
11 Quân thắng trận cướp và đem đi tất cả tài sản, lương thực trong thành Sô-đôm và Gô-mo.
12 Họ cũng bắt Lót - cháu Áp-ram - ở Sô-đôm, và cướp đoạt tài sản.
13 Một người chạy thoát, đến báo tin cho Áp-ram người Hi-bá, ngụ tại chòm cây sồi của Mam-rê -người A-mo, anh của ếch-côn và A-ne). Ba anh em đều kết ước với Áp-ram.
14 Khi Áp-ram hay tin Lót bị bắt, liền tập họp ba trăm mười tám tôi tớ đã sinh trưởng và huấn luyện trong nhà, đuổi theo đoàn quân xâm lăng cho đến Đan.
15 Đang đêm, ông chia quân tiến công, đánh đuổi quân địch cho đến Hô-ba, về phía bắc Đa-mách.
16 Ông đem về tất cả tài sản đã mất, cũng đem Lót cháu mình, và tài sản ông về, cùng đàn bà và dân chúng.
17 Sau khi chiến thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram quay về. Vua Sô-đôm ra đón người trong trũng Các Vua.a
18 Mên-chi-xê-đéc, là vua Sa-lem và là thầy tế lễ của Thượng Đế Chí Cao, đem bánh và rượu ra đón Áp-ram.
19 Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho Áp-ram rằng:
"Cầu Thượng Đế Chí Cao
ban phước lành cho Áp-ram,
Ngài là Đấng sáng tạo đất trời.
20 Thượng Đế Chí Cao đáng được ca ngợi,
Vì Ngài đã giao nạp quân thù vào tay ngươi!"
Áp-ram dâng cho thầy tế lễ một phần mười tài sản và chiến lợi phẩm.
21 Vua Sô-đôm yêu cầu Áp-ram: "Ông chỉ cần giao trả người lại cho chúng tôi, còn tài vật xin ông cứ giữ lại."
22 Nhưng Áp-ram đáp: "Tôi đã thề trước Chúa là Thượng Đế Tối Cao - Đấng đã sáng tạo trời đất -
23 rằng tôi không lấy vật gì của vua cả, dù một sợi chỉ hay giây giày cũng không, để vua đừng nói: 'Nhờ ta mà nó giàu!'
24 Tôi không lấy gì cả, ngoại trừ số thực phẩm mà đám gia nhân đã ăn, và phần chiến lợi phẩm chia cho các chiến sĩ đã theo tôi chiến đấu. Hãy để cho A-ne, ếch-côn và Mam-rê lãnh phần của họ đi!"
1 Sau đó, Chúa Hằng Hữu bảo Áp-ram trong giấc mộng: "Áp-ram ơi, con đừng sợ. Ta sẽ bảo vệ con và cho con giải thưởng lớn."
2 Áp-ram thổ lộ: "Thưa Chúa Hằng Hữu, Chúa sẽ cho con điều chi? Vì không con nối dõi, con phải để Ê-li-ê-se ở Đa-mách làm người kế nghiệp!" Áp-ram tiếp: "Chúa chẳng cho con hậu tự, nên một tên nô lệ sinh trong nhà con sẽ nối nghiệp con!"
4 Chúa đáp: "Người ấy không thể nào kế nghiệp con. Con sẽ sinh con trai, nó sẽ thừa hưởng gia tài."
5 Ban đêm, Chúa đem Áp-ram ra sân ngắm khung trời đầy sao, và bảo: "Con nhìn lên bầu trời và thử đếm sao đi! Dòng dõi con sẽ đông như sao trên trời, không ai đếm được!"
6 Áp-ram tin lời Chúa, nên Chúa kể ông là người công chính.
7 Chúa kết luận: "Ta là Đấng Hằng Hữu, đã đem con ra khỏi thành phố U-rơ xứ Canh-đê, để cho con xứ này làm sản nghiệp."
8 Áp-ram dè dặt: "Thưa Chúa Hằng Hữu, làm sao con biết chắc rằng Chúa sẽ cho con xứ này?"
9 Chúa Hằng Hữu bảo: "Con hãy đem đến đây một con bê cái, một con dê cái, một con cừu đực - tất cả đều ba tuổi - một con chim gáy và một bồ câu non."
10 Áp-ram đem dâng các con này lên cho Chúa, xẻ các thú vật làm đôi, sắp hai phần đối nhau; nhưng để nguyên các con chim.
11 Các loài chim săn mồi sà xuống các sinh tế, nhưng Áp-ram đuổi chúng đi.
12 Mặt trời vừa lặn, Áp-ram lâm vào một giấc ngủ thật say. Bóng tối dày đặc ghê rợn phủ xuống bao bọc ông.
13 Chúa bảo Áp-ram: "Con phải biết chắc chắn, dòng dõi con sẽ kiều ngụ nơi đất khách quê người, phải phục dịch dân bản xứ, và bị áp bức suốt bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ đoán phạt nước mà dòng dõi con phục dịch.
14 Cuối cùng dòng dõi con sẽ thoát ách nô lệ, và đem đi rất nhiều của cải.
15 Còn con sẽ được về với tổ phụ cách bình an, và được chôn cất sau một cuộc đời trường thọ.
16 Đến đời thứ tư, dòng dõi con sẽ quay lại đất nước này, vì hiện nay, tội ác dân A-mo chưa lên đến cực độ."
17 Khi mặt trời lặn hẳn và trời đã tối, bỗng có một lò lửa bốc khói và một ngọn lửa cháy phừng giữa các sinh tế bị phân đôi.
18 Ngày hôm ấy, Chúa Hằng Hữu kết ước với Áp-ram rằng: "Ta đã cho dòng dõi con đất nước này, từ sông A-rít ở Ai Cập đến sông cái Phát-giang,
19 đất của các dân Kên, Kê-nít, Cát-môn,
20 Hết, Phê-rết, Rê-pha-im,
21 A-mo, Ca-na-an, Ghi-reng và Giê-bu."
1 Sa-rai, vợ Áp-ram, vẫn chưa có con. Bà có nuôi một nữ tì Ai Cập tên là A-ga.
2 Bà bảo chồng lấy nữ tì làm hầu: "Vì Chúa không cho tôi sinh sản, nên ông cứ ăn ở với nó, sau này con cái nó sẽ thuộc về tôi." Áp-ram nghe theo lời vợ.
3 Thế là sau mười năm kiều ngụ tại xứ Ca-na-an, Sa-rai đưa A-ga, nữ tì Ai Cập, làm hầu cho Áp-ram.
4 Áp-ram ăn ở với A-ga và nàng có thai. Biết mình đã có mang, A-ga kiêu căng và hỗn xược với bà chủ.
5 Sa-rai tức bực trách cứ Áp-ram: "Lỗi này căn do là tại ông cả! Tôi để cho ông ăn nằm với con nữ tì. Thế mà khi có thai, nó lại lên mặt coi tôi chẳng ra gì. Cầu Chúa phân xử giữa đôi ta."
6 Nhưng Áp-ram đáp: "Bà nuôi nữ tì thì bà có quyền trên nó, bà muốn làm gì thì làm." Bị Sa-rai đối xử khắc nghiệt, A-ga bỏ nhà chủ trốn đi.
7 Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu gặp A-ga bên dòng suối nước giữa sa mạc, trên đường đi Su-rơ, liền hỏi:
8 "Này chị A-ga, nữ tì của Sa-rai, chị từ đâu đến đây và chị định đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi đi trốn bà chủ Sa-rai!"
9,10 Thiên sứ bảo: "Chị hãy về nhà phục dịch bà chủ, vì Ta sẽ làm cho dòng dõi chị gia tăng đông đảo đến nỗi không ai đếm được.
11 Chị đang có thai và sẽ sinh con trai; chị hãy đặt tên nó là Ích-ma-ên (có nghĩa là 'Chúa Nghe'), vì Chúa đã đoái thương cảnh khốn khổ của chị.
12 Con trai chị sẽ là một chiến sĩ tung hoành như lừa rừng. Nó sẽ chiến đấu chống mọi người, và ai cũng chống lại nó. Nhưng nó cũng sẽ ở gần bà con dòng họ."
13 A-ga gọi Đấng phán dạy nàng là "Thượng Đế Thấy Rõ," vì nàng tự nhủ: "Tôi đã thấy Chúa là Đấng đoái xem tôi!"
14 Nàng đặt tên suối nước là "Suối của Đấng Hằng Sống đã đoái xem tôi." Dòng suối ấy chảy giữa Ca-đe và Bê-rết.
15,16 Nàng sinh một con trai. Áp-ram đặt tên con là Ích-ma-ên. Năm ấy, Áp-ram đã tám mươi sáu tuổi.
1 Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, Chúa lại xuất hiện và phán dạy: "Ta là Thượng Đế Toàn Năng, con hãy sống một cuộc đời hoàn toàn trước mặt Ta. 2-4 Ta sẽ lập giao ước với con, làm cho con thành một dân tộc lớn. Thật ra, dòng dõi con không phải chỉ là một dân tộc, nhưng gồm nhiều dân tộc khác nhau!" Nghe tiếng Chúa, Áp-ram sấp mặt xuống đất.
5 Chúa bảo tiếp: "Ta sẽ đổi tên con. Người ta không gọi con là Áp-ram (cha tôn quý) nữa, nhưng gọi là Áp-ra-ham (cha của các dân tộc) - vì Ta cho con làm tổ phụ nhiều dân tộc. 6 Ta cho con sinh sôi nẩy nở thành nhiều dân tộc; hậu tự con gồm nhiều vua chúa. 7,8 Ta lập giao ước này với con và hậu tự con từ đời này sang đời khác. Giao ước này còn mãi đời đời: Ta làm Chân Thần của con và của hậu tự con. Ta sẽ cho con và hậu tự con đất nước Ca-na-an mãi mãi. Ta sẽ làm Chân Thần của họ đời đời."
9,10 "Phần con và hậu tự con phải thi hành một điều khoản: theo giao ước, con và tất cả người nam trong dòng dõi con phải chịu lễ cắt bì. 11 Da quy đầu phải bị cắt đi để chứng tỏ rằng con và hậu tự con vâng giữ giao ước này. 12 Mỗi người nam phải chịu cắt bì sau khi sinh được tám ngày; con dòng cháu giống hay con nô lệ sinh trong nhà cũng phải cắt bì. Điều khoản này phải nghiêm chỉnh thi hành mãi mãi cho tất cả các hậu tự con. 13 Tất cả phải chịu cắt bì. Giao ước Ta sẽ được mãi mãi ghi vào thân thể các con. 14 Ai từ khước điều khoản đó sẽ bị khai trừ ra khỏi dân tộc, vì đã vi phạm giao ước Ta."
15 Chúa dạy thêm: "Vợ của con cũng được đổi tên, không còn gọi là Sa-rai nữa, nhưng là Sa-ra (công chúa). 16 Ta sẽ ban phúc lành cho nàng, và cho nàng sinh con trai kế nghiệp. Phải, Ta sẽ ban phúc lành dồi dào cho Sa-ra, cho nàng làm tổ mẫu nhiều dân tộc; và hậu tự nàng gồm nhiều vua chúa."
17 Áp-ra-ham cúi mặt sát đất và cười thầm, tự nhủ: "Trăm tuổi như con mà sinh con được sao? Sa-ra đã chín mươi còn sinh nở gì nữa?"
18 Rồi Áp-ra-ham tiếp: "Ước gì Chúa cho Ích-ma-ên được sống!" 19 Chúa đáp: "Nhưng Ta bảo: Sa-ra, vợ con sẽ sinh con trai. Con sẽ đặt tên nó là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước với nó và hậu tự nó đời đời. 20 Còn Ích-ma-ên, Ta đã nghe lời con, ban phúc lành cho nó, và cho nó sinh sôi nẩy nở đông đúc thành một dân tộc lớn. Nó sẽ làm tổ phụ mười hai vua chúa. 21 Nhưng Ta sẽ lập giao ước với Y-sác, mà Sa-ra sẽ sinh ra cho con vào độ này sang năm."
22 Đến đây, Chúa chấm dứt nói chuyện với Áp-ra-ham, và ngự lên trời. 23 Ngay hôm ấy, Áp-ra-ham làm lễ cắt bì cho Ích-ma-ên con trai mình, và tất cả những người nam sinh trong nhà hay nô lệ ông đã mua về, đúng theo lời Chúa dạy. 24,25 Lúc ấy, Áp-ra-ham đã được chín mươi chín tuổi; còn Ích-ma-ên mới lên mười ba. 26 Áp-ra-ham và con là Ích-ma-ên chịu cắt bì cùng trong một ngày, 27 luôn với tất cả những người nam sinh trong nhà và nô lệ ông đã mua về.
1 Chúa lại xuất hiện gặp Áp-ra-ham tại cánh đồng Mam-rê. Trời nắng chang chang, Áp-ra-ham ngồi tại cửa trại dưới tàng cây sồi.
2 Vừa ngước nhìn lên, ông thấy ba người đang tiến đến trước mặt, liền chạy ra nghênh đón và cúi mọp xuống đất.
3 Áp-ra-ham thưa: "Thưa Chúa, nếu tôi được Chúa đoái thương, xin đừng bỏ qua đầy tớ Chúa.
4 Xin cho tôi xách nước rửa chân Chúa, và kính mời Chúa nghỉ mát dưới bóng cây.
5 Tôi xin đem bánh Chúa dùng trước khi lên đường. Vì thế, Chúa mới hạ cố đến thăm nhà đầy tớ Chúa." Ba vị ấy đáp: "Ông cứ dọn ăn đi."
6 Áp-ra-ham vội vã vào trại bảo Sa-ra: "Mau lên, lấy ba đấu bột lọc nhồi cho nhuyễn rồi làm bánh nhỏ."
7 Áp-ra-ham chạy đến chuồng gia súc, chọn một con bê béo bảo đầy tớ nấu dọn gấp.
8 Áp-ra-ham đem sữa và bơ cùng thịt con bê đã nấu xong, dọn ra trước mặt ba người ấy, rồi đứng cạnh hầu bàn dưới tàng cây. Ba vị đều ăn.
9 Chúa hỏi: "Áp-ra-ham! Sa-ra vợ con ở đâu?"
Áp-ra-ham thưa: "Dạ ở trong trại."
10 Một vị bảo: "Độ một năm nữa, Ta sẽ trở lại đây thăm con; khi đó, Sa-ra vợ con sẽ có một trai." Sa-ra đứng sau lưng vị ấy tại cửa trại, nên nghe rõ lời hứa này.
11 Tuổi trời chất nặng trên vai, Áp-ra-ham và Sa-ra đều già yếu. Sa-ra không còn hy vọng sinh con được nữa.
12 Nghe Chúa hứa, Sa-ra cười thầm tự bảo: "Già cả như tôi, đâu còn được niềm vui làm mẹ nữa! Tuổi chồng tôi cũng đã quá cao!"
13 Chúa Hằng Hữu hỏi Áp-ra-ham: "Tại sao Sa-ra cười và tự hỏi: Già cả như tôi có thật còn sinh sản được sao?
14 Có điều nào Chúa Tự Hữu Hằng Hữu làm không được? Đúng kỳ ấn định, trong một năm nữa, Ta sẽ trở lại thăm con, lúc ấy Sa-ra sẽ có một con trai."
15 Sa-ra sợ hãi, chối: "Con có dám cười đâu!" Chúa đáp: "Thật con mới cười đó!"
16 Ba vị đứng dậy lên đường qua Sô-đôm. Áp-ra-ham theo tiễn chân một quãng đường.
17 Chúa Hằng Hữu hỏi: "Ta có nên giấu Áp-ra-ham chương trình Ta sắp thực hiện không?
18 Vì Áp-ra-ham sẽ thành một dân tộc lớn và cường thịnh, và sẽ làm nguồn phúc hạnh cho các dân tộc trên thế giới.
19 Ta đã chọn Áp-ra-ham để người dạy dỗ con cháu và gia nhân vâng giữ đạo Ta, làm điều công chính cương trực, nhờ đó, Ta có thể thực thi các lời Ta đã hứa với Áp-ra-ham."
20 Chúa Hằng Hữu bảo Áp-ra-ham: "Tiếng ai oán về Sô-đôm và Gô-mo đã thấu trời xanh; tội ác họ thật nặng nề.
21 Ta sẽ xuống đó xem có đúng như vậy không. Nếu không, Ta cũng nên biết rõ."
22,23 Hai thiên sứ đi ngay qua Sô-đôm, nhưng Chúa Hằng Hữu còn nán lại với Áp-ra-ham. Áp-ra-ham đến gần Chúa, kính cẩn hỏi: "Chúa tiêu diệt người thiện chung với kẻ ác sao?
24 Nếu Chúa tìm gặp năm mươi người thiện trong thành phố, Chúa có tiêu diệt nhân dân không? Hay Chúa sẽ dung thứ họ vì thương năm mươi người thiện ấy?
25 Chúa không bao giờ làm việc ấy! Không bao giờ Chúa diệt người thiện chung với kẻ ác! Không bao giờ Chúa cho người thiện ác đều như nhau cả! Vị Thẩm Phán Tối Cao của cả thế giới luôn luôn xử đoán công minh."
26 Chúa Hằng Hữu đáp: "Nếu Ta tìm gặp năm mươi người thiện trong thành phố, Ta sẽ dung thứ cả thành phố vì họ."
27 Áp-ra-ham tiếp lời: "Thưa Chúa, con mạo muội thưa với Chúa, dù con chỉ là tro bụi.
28 Nhỡ thiếu mất năm người thiện trong số năm mươi, Chúa có tiêu diệt thành phố không?" Chúa đáp: "Nếu Ta tìm gặp bốn mươi lăm người thiện, Ta sẽ dung thứ cả thành phố."
29 Áp-ra-ham đánh bạo: "Thưa Chúa, nếu chỉ có bốn mươi người thiện thì sao?" Chúa đáp: "Ta sẽ dung thứ cả thành phố vì bốn mươi người ấy."
30 Áp-ra-ham năn nỉ: "Xin Chúa đừng giận, con xin thưa: Nếu chỉ có ba mươi người thiện thì sao?" Chúa đáp: "Ta sẽ dung thứ cả thành phố vì ba mươi người ấy."
31 Áp-ra-ham khẩn khoản: "Vì con đã đánh bạo nài xin Chúa, nên con xin hỏi: Nhỡ chỉ có hai mươi người thiện thì sao?" Chúa đáp: "Ta sẽ dung thứ thành phố vì hai mươi người ấy."
32 Cố nài nỉ một lần chót, Áp-ra-ham thưa: "Xin Chúa đừng giận, con chỉ xin thưa một lời nữa: Nhỡ chỉ có mười người thiện thì sao? " Chúa đáp: "Ta cũng dung thứ cả thành phố vì mười người ấy."
33 Nói chuyện với Áp-ra-ham xong, Chúa Hằng Hữu ra đi. Áp-ra-ham quay về trại.
1 Tối hôm ấy, hai thiên sứ đến cổng thành phố Sô-đôm, gặp Lót đang ngồi tại đó. Thấy khách đến, Lót đứng dậy nghênh đón vô cùng cung kính.
2 Lót mời: "Thưa hai ngài, kính mời hai ngài đến nhà tôi nghỉ tạm đêm nay. Sáng mai, hai ngài có thể dậy sớm lên đường." Hai vị khách đáp: "Cám ơn ông, tối nay chúng tôi ở ngoài phố cũng được."
3 Vì Lót sốt sắng mời mọc nên rốt cuộc hai vị khách về nhà Lót. Lót hân hoan dọn tiệc lớn khoản đãi, có cả bánh không men mới nướng.
4 Ăn xong, khi khách vừa chuẩn bị đi nghỉ, dân chúng Sô-đôm đã lũ lượt kéo nhau đến vây quanh nhà, đủ mặt từ ông già đến thanh thiếu niên, thuộc khắp các phố phường.
5 Chúng gọi Lót ra cật vấn: "Hai người khách vào nhà anh khi tối ở đâu? Đem họ ra cho chúng ta làm tình!"
6 Lót ra khỏi nhà, đóng sập cửa sau lưng,
7 rồi van nài dân Sô-đôm: "Anh em ơi, đừng làm điều ác đó!
8 Tôi xin đề nghị: Tôi có hai con gái còn trinh trắng. Tôi sẽ dẫn chúng ra cho anh em muốn làm gì mặc ý. Nhưng xin đừng đụng đến hai ông khách của tôi, vì họ đã đến tá túc dưới mái nhà tôi."
9 Dân Sô-đôm gào thét: "Lui ra! Tên này đến đây kiều ngụ mà nay dám giở giọng quan tòa! Ta phải xử tội mày nặng hơn hai người kia!" Chúng xông lên, ép Lót vào cửa, làm cửa gần bật tung.
10 Nhưng hai khách đưa tay kéo Lót vào nhà, đóng sập cửa lại,
11 rồi làm cho đoàn dân Sô-đôm đang vây quanh bị mù mắt, kiếm cửa vào không được.
12 Hai khách hỏi Lót: "Gia đình ông đủ mặt đây chưa? Hãy đem rể, con trai, con gái và người nhà ra khỏi đây lập tức.
13 Chúng ta sắp tiêu diệt thành phố, vì tiếng kêu ai oán đã thấu tai Chúa nên Ngài sai chúng ta xuống thực thi án phạt."
14 Lót chạy ra báo tin cho hai rể hứa: "Hai con phải trốn đi ngay vì Chúa sắp tiêu diệt thành phố này." Nhưng hai cậu tưởng ông gia bị loạn trí.
15 Trời gần sáng, hai thiên sứ hối thúc Lót: "Nhanh lên, hãy đem vợ và hai con gái ra khỏi đây lập tức, kẻo bị tiêu diệt chung với thành phố này."
16 Thấy Lót chần chờ, hai thiên sứ nắm tay Lót và vợ con ông, kéo ngay ra khỏi thành phố, đưa đến chỗ an toàn, vì Chúa thương xót họ.
17 "Chạy nhanh lên kẻo mất mạng - hai thiên sứ bảo - đừng ngoảnh lại. Hãy trốn ngay lên núi. Đừng ở lại dưới đồng bằng, kẻo bị vạ lây."
18 Nhưng Lót lo ngại: "Hai ngài đã thương tình cứu mạng tôi, nhưng tôi sợ chạy lên núi không kịp.
19 Tai họa ấy xảy ra, tôi làm sao thoát chết?
20 Đàng kia có một thành phố nhỏ, không xa mấy. Xin cho tôi đến ẩn náu trong thành phố tí hon đó. Như thế, tôi mới mong bảo toàn mạng sống."
21 Thiên sứ đáp: "Được, ta nghe lời ông, không tiêu diệt thành phố nhỏ đó đâu.
22 Nhưng phải nhanh lên, vì ta không hành động được cho đến khi ông vào thành phố đó." (Từ ngày ấy, người ta gọi thành phố này là Xoa, nghĩa là "Thành Nhỏ.")
23 Mặt trời vừa mọc, Lót chạy đến nơi, vào thành Xoa.
24 Chúa lập tức cho mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống thiêu đốt Sô-đôm, Gô-mo, luôn cả các thành phố, làng mạc trong đồng bằng đó.
25 Tất cả đều chết cháy: người, cây cối và súc vật.
26 Nhưng bà vợ ông Lót ngoảnh lại nhìn và biến thành tượng muối.
27 Áp-ra-ham dậy sớm, đi đến chỗ ông gặp Chúa hôm trước.
28 Ngước lên nhìn về phía Sô-đôm, Gô-mo và vùng đồng bằng, ông thấy khói đen kịt như khói lò lửa lớn cuồn cuộn tỏa lên trời.
29 Khi Chúa tiêu diệt các thành phố vùng đồng bằng, Ngài vẫn nhớ đến Áp-ra-ham, và cứu Lót thoát khỏi cái chết rùng rợn của dân Sô-đôm.
30 Sợ ở Xoa không yên, Lót dẫn hai con gái lên núi, tạm trú trong một hang đá.
31 Cô chị bảo cô em: "Cha đã già và bây giờ trai tráng đều chết hết, không còn ai lập gia đình với chị em mình nữa.
32 Nay chỉ còn một cách để nối dõi tông đường: ta chuốc rượu mời cha uống cho say, rồi thay nhau ngủ với cha."
33 Đêm ấy, hai cô làm tiệc rượu cho cha uống say mèm, rồi cô chị vào ngủ với cha, nhưng cha say quá, không biết động tĩnh gì.
34 Hôm sau, cô chị lại bảo em: "Này, hôm qua xong phiên của chị, đêm nay đến phiên em. Ta cứ chuốc rượu cho cha uống say, rồi em vào để nối dõi tông đường!"
35 Đêm ấy, hai cô lại làm tiệc rượu cho cha uống say túy lúy, rồi cô em vào ngủ với cha, nhưng cha say quá, cũng không biết động tĩnh gì.
36 Vậy hai cô thụ thai do cha mình.
37 Cô lớn sinh một con trai, đặt tên Mô-áp (tổ phụ của dân Mô-áp ngày nay).
38 Cô em cũng sinh con trai, đặt tên Bên Am-mi (tổ phụ của dân Am-môn ngày nay).
1 Từ đó, Áp-ra-ham tiến xuống phía nam, đến vùng Nê-ghép, cư ngụ giữa Ka-đe và Su-rơ.
2 Một hôm, xuống thành Ghi-ra, ông giới thiệu Sa-ra là em gái. Vua A-bi-mê-léc cho rước Sa-ra vào cung.
3 Nhưng đêm ấy, Chúa báo mộng cho vua: "Ngươi phải chết, vì người đàn bà ngươi đem vào cung đã có chồng."
4 Vì A-bi-mê-léc chưa đụng đến Sa-ra nên tự bào chữa: "Không lẽ Chúa diệt người vô tội? Áp-ra-ham đã nói: 'Nàng là em gái tôi' cơ mà! Nàng cũng xác nhận: 'Áp-ra-ham là anh tôi.' Con thật tình không có ý làm điều quấy!"
6 Chúa đáp: "Phải, Ta biết, nên Ta ngăn ngươi phạm tội và không cho ngươi đụng đến nàng.
7 Hãy giao trả nàng về nhà chồng. Chồng nàng sẽ cầu nguyện cho ngươi thoát chết, vì chồng nàng là nhà tiên tri. Nếu ngươi giữ nàng lại, chắc chắn ngươi và toàn gia sẽ chết."
8 Vua dậy sớm, triệu tập quần thần và thuật cho họ nghe mọi việc, ai nấy đều khiếp sợ.
9,10 Vua điệu Áp-ra-ham đến, quở trách: "Ngươi gieo họa cho chúng ta làm gì? Ta đã làm gì đến nỗi ngươi đối xử với ta như thế, làm cho ta và nước ta đều mắc tội? Ngươi thật là tệ bạc. Ngươi có dụng ý gì mà lừa gạt ta như thế?"
11,12 Áp-ra-ham đáp: "Tôi tưởng nơi này không có người kính sợ Chúa, e có người sẽ giết tôi để cướp vợ tôi. Thật ra, nàng cũng là em tôi, một cha khác mẹ, nhưng tôi cưới nàng làm vợ.
13 Khi Chúa sai tôi đi đây đó xa quê hương, tôi bảo nàng: 'Dù đi đâu, xin bà cũng tự nhận là em gái tôi.' "
14 Vua A-bi-mê-léc ban tặng cho Áp-ra-ham nhiều chiên bò, tôi trai tớ gái, và giao trả Sa-ra. Vua bảo: "Cứ đi khắp nước ta, xem địa điểm nào ngươi thích thì định cư ở đó." Rồi vua quay lại Sa-ra: "Đây, ta trả cho anh ngươi một ngàn lạng bạc để bồi thường danh dự. Thế là danh dự ngươi thật hoàn toàn, không chút hề hấn."
17 Áp-ra-ham cầu xin Chúa chữa lành cho vua, hoàng hậu, và toàn thể phụ nữ trong hoàng tộc để họ có thể sinh sản,
18 vì Chúa đã phạt A-bi-mê-léc, không cho hoàng hậu và các cung nữ có con, sau khi A-bi-mê-léc bắt vợ của Áp-ra-ham.
1 Chúa thăm viếng Sa-ra như lời Ngài đã hứa.
2 Sa-ra thụ thai, sinh cho Áp-ra-ham một con trai trong tuổi già nua, đúng thời gian Chúa đã báo trước.
3,4 Áp-ra-ham đặt tên con là Y-sác, và làm lễ cắt bì cho nó khi mới được tám ngày, như lời Chúa dặn bảo.
5 Lúc Y-sác ra đời, tuổi Áp-ra-ham đã được một trăm.
6 Sa-ra mừng quá, thốt lên: "Chúa cho tôi vui cười, ai nghe tin cũng vui cười với tôi.
7 Ai dám nói có ngày tôi sẽ sinh con? Thế mà tôi sinh được đứa con trai cho ông chồng già yếu."
8 Y-sác lớn lên, đã đến ngày dứt sữa. Áp-ra-ham đặt tiệc ăn mừng.
9 Nhưng Sa-ra chợt thấy Ích-ma-ên - đứa con mà A-ga, người tỳ nữ Ai Cập, đã sinh cho Áp-ra-ham - trêu chọc Y-sác,
10 liền quay lại nằng nặc đòi chồng đuổi nó đi cho khuất mắt: "ÔÂng phải tống cổ mẹ con nó đi! Tôi không cho thằng bé đó hưởng gia tài với con tôi đâu!"
11 Nghe vợ nói, Áp-ra-ham buồn phiền, vì dù sao Ích-ma-ên cũng là núm ruột, dứt đi sao đành.
12 Nhưng Thượng Đế bảo Áp-ra-ham: "Con đừng buồn vì đứa con hay vì nàng hầu A-ga. Cứ làm như Sa-ra nói, vì hậu tự con sẽ do Y-sác mà ra.
13 Nhưng vì Ích-ma-ên cũng là giống nòi con, nên Ta sẽ cho nó thành một quốc gia."
14 Sáng hôm sau, Áp-ra-ham dậy sớm, gói thực phẩm trao cho A-ga, đặt trên vai nàng một bình nước rồi bảo mẹ con lên đường. A-ga dắt con đi lang thang trong sa mạc miền Biệt-sê-ba.
15 Khi bình đã hết nước, A-ga để con dưới một bụi cây nhỏ,
16 đi cách đó độ trăm mét, rồi ngồi xuống khóc nức nở và than: "Ta đâu nỡ đứng nhìn con chết khát!"
17 Chúa nghe tiếng khóc của đứa bé, nên thiên sứ của Thượng Đế từ trời gọi xuống: "A-ga! Có việc gì thế? Đừng sợ, vì Chúa đã nghe tiếng khóc, và biết nơi nó nằm rồi!
18 Hãy đứng dậy, bồng nó, đưa cao lên. Ta sẽ làm cho nó thành một nước lớn."
19 Được Chúa mở mắt, A-ga thấy một dòng nước, liền đến múc đầy bình nước cho con uống.
20 Chúa phù hộ đứa trẻ. Nó lớn lên, sống giữa sa mạc, nổi tiếng về tài bắn cung.
21 Khi ngụ tại sa mạc Pha-ran, Ích-ma-ên được mẹ cưới cho một cô vợ người Ai Cập.
22 Lúc ấy, vua A-bi-mê-léc và tướng Phi-côn, là chỉ huy quân đội Ai Cập, đến hội đàm với Áp-ra-ham. Họ nói: "Thượng Đế ban phúc lành cho ông trong mọi việc.
23 Xin ông nhân Danh Chúa mà thề chẳng bao giờ dối gạt ta, con trai ta hay kẻ kế nghiệp ta, và hứa sẽ giao hảo với ta và nước ta, như ta đã giao hảo với ông."
24 Áp-ra-ham đáp: "Tôi xin thề!"
25 Khi Áp-ra-ham khiếu nại với vua về vụ cái giếng mà đầy tớ vua đã dùng bạo lực chiếm đoạt,
26 vua tỏ vẻ kinh ngạc: "Đây là lần đầu tiên ta nghe vụ ấy. Ta không biết ai là thủ phạm. Sao ngươi không báo cáo?"
27 Áp-ra-ham cung hiến chiên bò cho vua để kết ước.
28 Áp-ra-ham bắt bảy con chiên tơ trong bầy, để riêng ra.
29 A-bi-mê-léc hỏi: "Ông để bảy con chiên đó riêng ra làm chi?"
30 Áp-ra-ham đáp: "Xin vua nhận bảy con chiên này nơi tay tôi, để xác nhận tôi đã đào cái giếng này."
31 Vì thế, người ta gọi chỗ này là Biệt-sê-ba, vì tại đó hai người đã thề với nhau.
32 Áp-ra-ham và A-bi-mê-léc kết ước với nhau tại Biệt-sê-ba. Sau đó, vua A-bi-mê-léc và tướng Phi-côn lên đường về xứ Phi-li-tin.
33 Áp-ra-ham trồng một cây me tại Biệt-sê-ba, và cầu khẩn Danh Chúa Hằng Hữu tại đây.
34 Áp-ra-ham kiều ngụ lâu ngày trong xứ Phi-li-tin.
1 Sau đó, Thượng Đế thử nghiệm Áp-ra-ham. Chúa gọi: "Áp-ra-ham!" Người thưa: "Có con đây."
2 Chúa bảo: "Hãy bắt Y-sác, đứa con một mà con yêu quý, đem đến vùng Mô-ri-a, và dâng nó làm tế lễ thiêu trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho con."
3 Vậy, Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem Y-sác con mình và hai đầy tớ đi theo. Ông chặt đủ củi để dâng tế lễ thiêu, rồi đứng dậy, đi đến địa điểm Thượng Đế đã chỉ dạy.
4 Ngày thứ ba, Áp-ra-ham ngước lên, nhìn thấy địa điểm ấy từ đàng xa,
5 liền bảo hai đầy tớ: "Hai đứa ở đây giữ lừa. Ta và Y-sác lên chỗ kia. Thờ phượng xong chúng ta sẽ trở lại."
6 Áp-ra-ham lấy bó củi để dâng tế lễ thiêu chất trên vai Y-sác con mình, và cầm theo mồi lửa và một con dao. Rồi hai cha con cùng đi.
7 Y-sác nói: "Cha ơi!" Áp-ra-ham đáp: "Có cha đây." Y-sác hỏi: "Củi, lửa có sẵn rồi, nhưng chiên con ở đâu mà dâng tế lễ thiêu?"
8 Áp-ra-ham đáp: "Con ơi, Thượng Đế sẽ cung ứng chiên con làm tế lễ thiêu." Hai cha con tiếp tục đi với nhau.
9 Đến chỗ Thượng Đế đã chỉ định, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ, sắp củi lên, rồi trói Y-sác con mình, và đem đặt lên lớp củi trên bàn thờ.
10 Áp-ra-ham đưa tay cầm dao để giết con.
11 Bỗng thiên sứ của Chúa Hằng Hữu từ trên trời gọi: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!" Ông thưa: "Có con đây."
12 Thiên sứ bảo: "Đừng giết đứa trẻ, cũng đừng làm gì nó cả. Vì bây giờ Ta biết ngươi kính sợ Thượng Đế và không tiếc con ngươi với Ta, dù là con một của ngươi!"
13 Áp-ra-ham ngước mắt nhìn thấy một con chiên đực, sừng đang mắc vào bụi gai rậm phía sau mình. Ông liền bắt nó dâng tế lễ thiêu thay thế con trai mình.
14 Áp-ra-ham gọi địa điểm này là "Chúa Hằng Hữu cung ứng." Vì thế, cho đến ngày nay, có câu: "Trên núi của Chúa Hằng Hữu, điều ấy sẽ được cung ứng!"
15 Từ trời, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu lại gọi Áp-ra-ham lần thứ nhì,
16 mà bảo: "Ta đã lấy chính Ta mà thề - Chúa Hằng Hữu phán - vì con đã làm điều ấy, không tiếc sinh mạng đứa con, dù là con một,
17 nên Ta sẽ ban phúc hạnh cho con, gia tăng dòng dõi con đông như sao trên trời, như cát bãi biển, và hậu tự con sẽ chiếm lấy cổng thành quân địch.
18 Tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nhờ hậu tự con mà được hạnh phúc, vì con đã vâng lời Ta."
19 Vậy, Áp-ra-ham trở lại cùng hai thanh niên, rồi tất cả lên đường quay về Biệt-sê-ba. Áp-ra-ham cư trú tại đó.
20 Sau đó, có người báo cáo cho Áp-ra-ham: "Minh-ca đã sinh con trai cho Na-cơ, em ông!"
21 Con đầu lòng tên U-xơ, các con kế là Bu-xơ, Kê-mu-ên,
22,23 Kế-sết, Ha-xô, Phin-đát, Díp-láp và Bê-tu-ên; được tất cả tám người (Kê-mu-ên sinh A-ram và Bê-tu-ên sinh Rê-bê-ca).
24 Ru-mân, vợ kế của Na-cơ, sinh Tê-ba, Ga-ham, Ta-hách và Ma-a-ca.
1,2 Sa-ra qua đời tại Hếp-rôn, xứ Ca-na-an, hưởng thọ 127 tuổi. Áp-ra-ham để tang và than khóc vợ.
3 Đứng bên thi hài Sa-ra, Áp-ra-ham yêu cầu các người Hết:
4 "Tuy sống giữa các anh, tôi chỉ là một kiều dân, không có đất ruộng. Xin các anh bán cho tôi một miếng đất làm nghĩa trang để an táng vợ tôi."
5,6 Họ đáp: "Vâng, chúng tôi vẫn coi ông là một bậc vương giả của Thượng Đế. Ông muốn chọn nghĩa trang nào tùy ý, chúng tôi không từ khước đâu!"
7 Áp-ra-ham cúi đầu trước mặt họ,
8 yêu cầu: "Các anh đã có nhã ý như thế, xin làm ơn nói giúp Ép-rôn con Xô-a vui lòng bán cho tôi cái hang núi Mạc-bê-la ở cuối khu đất của anh ta.
9 Tôi xin trả đúng thời giá để mua hang ấy làm nghĩa trang cho gia đình."
10 Đang ngồi giữa các người Hết, Ép-rôn trả lời trước mặt dân trong thành phố:
11 "Thưa ông, tôi xin biếu ông cả cái hang lẫn khu đất. Đây, có mọi người làm chứng, tôi xin tặng cả cho ông để ông an táng xác bà."
12 Áp-ra-ham lại cúi đầu trước mặt dân bản xứ,
13 và đáp lời Ép-rôn trong khi dân chúng lắng tai nghe: "Không dám, tôi chỉ xin mua và trả giá sòng phẳng. Xin anh vui lòng nhận tiền, tôi mới dám an táng vợ tôi."
14,15 Ép-rôn đáp: "Miếng đất trị giá bốn trăm lạng bạc, nhưng chỗ bà con quen biết thì có nghĩa gì đâu! Xin ông cứ an táng bà đi."
16 Nghe chủ đất định giá, Áp-ra-ham cân bốn trăm lạng bạc theo cân lượng thị trường trả cho Ép-rôn trước sự chứng kiến của người Hết.
17,18 Bất động sản này -tọa lạc tại Mạc-bê-la, giáp ranh Mam-rê, gồm khu đất và cái hang núi cùng cây cối trong khuôn viên) từ nay thuộc quyền sở hữu của Áp-ra-ham. Hai bên thỏa thuận tạo mãi, có dân Hết chứng kiến tại cổng thành phố.
19,20 Áp-ra-ham an táng vợ trong khu đất và cái hang núi mua từ Ép-rôn thuộc người Hết để làm nghĩa trang cho dòng họ.
1 Tuổi tác cao, Áp-ra-ham được Chúa ban phúc dồi dào.
2 Áp-ra-ham bảo người quản gia, một nô bộc lớn tuổi nhất trong nhà: "Con hãy đặt tay con trên đùi ta.
3 Ta muốn con nhân Danh Chúa Hằng Hữu, là Chủ Tể trời đất, mà thề rằng con sẽ không cưới người Ca-na-an làm vợ cho Y-sác con ta, dù ta kiều ngụ trong xứ họ;
4 rằng con sẽ đi về quê hương ta, cưới cho Y-sác con ta một người vợ trong vòng bà con ta."
5 Quản gia đáp: "Chỉ ngại không có cô nào chịu bỏ quê hương để đi đến xứ này lấy chồng. Con có nên đưa Y-sác về quê vợ không?"
6 Áp-ra-ham quả quyết: "Tuyệt đối không! Con không bao giờ được đem Y-sác trở lại xứ ấy.
7 Chúa Hằng Hữu, Chủ Tể trời đất, đã đem ta ra khỏi nhà cha ta, nơi chôn nhau cắt rốn, đã phán dạy ta và thề với ta: 'Ta sẽ cho dòng giống con đất này.' Chúa sẽ sai thiên sứ Ngài đi trước, dìu dắt con qua đó để cưới vợ cho Y-sác.
8 Nếu cô dâu nhất định không theo con về đây, con sẽ khỏi mắc lời thề này. Dù sao, tuyệt đối không bao giờ được đem con ta về xứ ấy."
9 Quản gia đặt tay lên đùi Áp-ra-ham và thề nguyện như lời chủ dặn.
10 Quản gia chọn mười con lạc đà chuyên chở đủ các loại bảo vật của chủ rồi lên đường. Đến thành phố của Na-cơ, xứ Lưỡng Hà, quản gia cho lạc đà dừng lại, quỳ xuống nghỉ chân bên giếng, đúng vào giờ phụ nữ trong thành ra múc nước.
12 Quản gia cầu nguyện: "Thưa Chúa Hằng Hữu, Thần của Áp-ra-ham chủ con: Xin cho cô ấy gặp con hôm nay, để chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với Áp-ra-ham.
13 Con đang đứng đây, bên giếng các thiếu nữ trong thành sắp ra múc nước.
14 Khi con xin cô nào cho con uống nước, mà cô ấy đáp: "Ông cứ uống đi, tôi sẽ cho bầy lạc đà ông uống nữa," xin Chúa cho cô ấy đúng là người Chúa chỉ định cho Y-sác tôi tớ Chúa. Do đó, con mới biết rõ Chúa đã tỏ lòng nhân từ với chủ con."
15 Quản gia chưa dứt lời cầu nguyện, thì cô Rê-bê-ca vác bình ra đến giếng. Cô là con của Bê-tu-ên, cháu bà Minh-ca. Bà này là vợ Na-cơ, em của Áp-ra-ham. Rê-bê-ca là một thiếu nữ tuyệt đẹp và trinh trắng. Cô xuống giếng, múc đầy bình nước, đặt trên vai, rồi leo lên.
17 Quản gia chạy đến nói: "Xin cô làm ơn cho tôi uống ngụm nước trong bình."
18 Cô dịu dàng đáp: "Thưa vâng, mời ông xơi nước." Vừa nói, cô vội vã đỡ bình nước xuống, bưng mời quản gia uống.
19 Quản gia uống xong, cô sốt sắng: "Để tôi múc thêm nước cho lạc đà ông uống cho đã khát."
20 Cô nhanh nhẩu trút bình vào máng nước, rồi chạy xuống giếng múc thêm nước cho cả đàn lạc đà uống.
21 Quản gia đứng lặng nhìn Rê-bê-ca, suy nghiệm xem đây có phải là cách Chúa dìu dắt mình hay không.
22 Khi đàn lạc đà uống nước xong, quản gia lấy ra một chiếc khoen vàng cân nặng năm chỉ và một đôi vòng vàng mỗi chiếc năm lạng,
23 và hỏi: "Cô là con ai? Nhà cô có chỗ cho tôi nghỉ tạm tối nay không?"
24 Cô đáp: "Tôi là con gái ông Bê-tu-ên, cháu cụ bà Minh-ca. Ông nội tôi là cụ Na-cơ.
25 Nhà tôi có nhiều rơm và thức ăn cho lạc đà, cũng có phòng trọ cho khách nữa."
26 Quản gia cảm kích cúi đầu thờ phượng Chúa, và nói:
27 "Cảm tạ Chúa là Thượng Đế của Áp-ra-ham chủ tôi. Cảm tạ Chúa vì lòng nhân từ, thành tín đối với người, khi Ngài dắt con đến đúng ngay gia đình bà con của Áp-ra-ham."
28 Trong khi đó, Rê-bê-ca chạy về nhà báo tin.
29,30 La-ban, anh nàng, thấy chiếc khoen và đôi vòng vàng trên tay em, và nghe em thuật chuyện, liền chạy ra giếng. Quản gia vẫn còn đứng đó với bầy lạc đà. La-ban niềm nở:
31 "Mời ông đến trọ tại nhà tôi. Tội gì lang thang bên ngoài thành phố, trong khi nhà tôi có sẵn phòng ngủ cho ông và chỗ cho lạc đà."
32 Quản gia theo La-ban về nhà. La-ban đem rơm lót chỗ lạc đà nằm, cho chúng ăn, và lấy nước cho mấy người nài rửa chân.
33 Cơm tối dọn ra rồi, nhưng quản gia còn lần lữa: "Tôi không dám ăn uống trước khi trình bày mục đích chuyến du hành này." La-ban giục: "Ông cứ nói đi."
34 Quản gia đáp: "Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham.
35 Chúa ban phúc dồi dào cho chủ tôi, ngày càng cường thịnh. Chúa cho người bao nhiêu bầy súc vật, bạc vàng vô số, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa rất nhiều.
36 Bà chủ tôi sinh một con trai trong tuổi già nua, và cậu con trai được hưởng trọn gia tài.
37 Chủ tôi có buộc tôi thề không được cưới vợ cho cậu trong số các thiếu nữ Ca-na-an là xứ chủ tôi trú ngụ, nhưng phải về quê cha đất tổ của chủ, và cưới một thiếu nữ trong gia đình chủ tôi về cho cậu.
39 Tôi có thưa lại chủ: 'Sợ không có cô nào chịu theo tôi về làm vợ cho cậu đâu.'
40 Nhưng chủ tôi bảo: 'Chúa Hằng Hữu sẽ sai thiên sứ đi với ngươi và giúp ngươi thành công. Ngươi sẽ cưới cho con ta một người vợ trong gia đình ta, con cháu của cha ta.
41 Một khi ngươi đã đến thăm gia đình ta, nếu vạn nhất họ không chịu gả, thì ngươi khỏi mắc lời thề nguyện này.'
42 "Chiều nay, khi đến giếng, tôi đã cầu nguyện: 'Lạy Chúa Hằng Hữu, là Thượng Đế của Áp-ra-ham chủ con, nếu Chúa cho con thành công trong công tác này, xin Chúa hướng dẫn con:
43 Trong khi con đứng bên giếng và các thiếu nữ ra múc nước, nếu con xin cô nào cho con uống nước trong bình,
44 mà cô ấy đáp: "Mời ông uống nước đi, rồi tôi sẽ múc nước cho các lạc đà ông uống nữa." thì cô ấy đúng là người vợ Chúa chọn cho con trai chủ con.'
45 Tôi chưa dứt lời thầm nguyện, thì kìa, cô Rê-bê-ca đã ra đến giếng, vác bình trên vai xuống giếng múc nước. Tôi yêu cầu: 'Xin cô cho tôi uống nước với.'
46 Cô lập tức hạ bình xuống khỏi vai, đon đả đáp: 'Mời ông uống nước đi, rồi tôi sẽ múc nước cho các lạc đà ông uống nữa.' Cho tôi uống đã khát xong, cô lại múc nước cho các lạc đà tôi uống.
47 Tôi hỏi: 'Cô con ai?' Cô đáp: 'Tôi là con của Bê-tu-ên, cháu hai cụ Na-cơ.' Tôi đã đeo vòng và đôi xuyến cho cô,
48 rồi cúi đầu thờ phượng Chúa Hằng Hữu, ca ngợi Chân Thần của Áp-ra-ham chủ tôi, vì Ngài đã hướng dẫn tôi đi đúng đường, để cưới con gái ông về cho con trai chủ tôi.
49 Vậy, để tỏ lòng ưu ái với chủ tôi, xin quý vị cứ thẳng thắn trả lời được hay không, để tôi biết phải làm gì bây giờ."
50 La-ban và Bê-tu-ên đáp: "Việc này do Chúa Hằng Hữu xếp đặt, chúng tôi đâu dám nói được hay không.
51 Kìa, Rê-bê-ca đứng trước mặt anh đó. Anh hãy rước nó về làm vợ cho con trai chủ anh, như Chúa Hằng Hữu đã phán bảo."
52 Quản gia của Áp-ra-ham nghe vậy, liền quỳ xuống trước mặt Chúa Hằng Hữu,
53 rồi đem nạp các sính lễ cho Rê-bê-ca: các nữ trang toàn bằng vàng, bằng bạc và các bộ y phục quý giá. Quản gia cũng tặng bà Bê-tu-ên và La-ban nhiều bảo vật.
54 Đoạn, họ đặt tiệc ăn mừng. Ê-li-ê-se và đoàn tùy tùng ở lại nhà Bê-tu-ên đêm ấy. Sáng sau, họ dậy sớm. Ê-li-ê-se yêu cầu: "Xin cho phép tôi được quay về nhà chủ tôi."
55 Bà Bê-tu-ên và La-ban (anh của Rê-bê-ca) ngăn cản: "Gì mà vội thế! Cứ để cho nó ở nhà với chúng tôi đã, độ mười ngày nữa hẵng đi."
56 Nhưng quản gia thưa: "Xin hai cụ và ông thông cảm. Nhờ Chúa Hằng Hữu hướng dẫn tôi nên việc đã thành công, xin hai cụ và ông cho phép tôi trở về gặp chủ tôi."
57 Họ đáp: "Để chúng tôi hỏi ý nó xem sao."
58 Họ gọi Rê-bê-ca vào hỏi: "Con muốn đi theo ông này không?" Cô đáp: "Thưa vâng, con muốn đi."
59 Vậy, họ đưa Rê-bê-ca lên đường với bà vú của nàng, đi theo quản gia và đoàn đầy tớ của Áp-ra-ham.
60 La-ban chúc phúc lành cho Rê-bê-ca: "Cầu chúc cho dòng dõi em đông đảo hàng ngàn hàng vạn và chiếm được cổng thành quân địch!"
61 Rê-bê-ca và các nữ tì đứng dậy, cưỡi lạc đà đi theo quản gia. Quản gia cùng Rê-bê-ca và đoàn tùy tùng lên đường.
62 Y-sác đã từ giếng La-chai-roi đến đây; vì ông đang ở miền nam.
63 Một buổi tối, Y-sác ra ngoài đồng suy gẫm, chợt thấy một đoàn lạc đà.
64 Vừa trông thấy Y-sác, Rê-bê-ca vội vã xuống lạc đà,
65 hỏi Ê-li-ê-se: "Có người đang vượt qua cánh đồng đi đón chúng ta, người đó là ai?" Đáp: "Con trai chủ tôi đó!" Rê-bê-ca lập tức lấy tấm voan phủ mặt mình.
66 Quản gia báo cáo đầy đủ mọi việc cho Y-sác.
67 Y-sác đưa Rê-bê-ca vào trại của mẹ mình, và cưới nàng làm vợ. Y-sác yêu Rê-bê-ca tha thiết, và được an ủi phần nào sau những ngày chịu tang mẹ.
1 Áp-ra-ham tục huyền, cưới Kê-tu-ra.
2 Nàng sinh cho người sáu đứa con: Xim-ran, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách.
3 Giốc-chan sinh Sê-ba và Đê-đan; dòng dõi của Đê-đan là họ A-chu-rim, họ Lê-tu-chim và họ Lê-um-mim.
4 Ma-đi-an sinh năm con trai: Ê-pha, Ê-he, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa. Đó là dòng dõi bà Kê-tu-ra.
5 Áp-ra-ham cho Y-sác hưởng trọn gia tài.
6 Ông cũng cho các con thứ mỗi người một số phẩm vật, rồi bảo họ đi qua đông phương, ở cách xa Y-sác.
7,8 Áp-ra-ham qua đời, hưởng thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi.
9,10 Y-sác và Ích-ma-ên, hai con trai người, an táng người trong động Mạc-bê-la, gần Mam-rê, giữa cánh đồng mà Áp-ra-ham đã mua của Ép-rôn con trai Sô-ha, người Hết. Đây cũng là mộ địa của Sa-ra vợ Áp-ra-ham.
11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Thượng Đế ban phúc dồi dào cho Y-sác; lúc ấy Y-sác đã dời xuống La-chai-roi ở miền nam.
12 Đây là dòng dõi của Ích-ma-ên con trai Áp-ra-ham và A-ga (người Ai Cập, nữ tì của Sa-ra).
13 Các con trai của Ích-ma-ên là: Nê-ba-giốt (trưởng nam), Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam,
14 Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa,
15 Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích và Kết-ma.
16 Đó là các con trai của Ích-ma-ên, đặt tên theo địa điểm định cư và đóng trại. Đó là mười hai tộc trưởng của dân tộc họ.
17 Ích-ma-ên hưởng thọ một trăm ba mươi bảy tuổi rồi qua đời, về với tổ phụ.
18 Dòng dõi của Ích-ma-ên định cư ở trước mặt anh em họ, từ Ha-vi-la đến Su-rơ đối ngang Ai Cập, trên đường đi A-sy-ri.
19 Đây là dòng dõi của Y-sác con trai Áp-ra-ham.
20 Khi được bốn mươi tuổi, Y-sác cưới Rê-bê-ca (con gái của Bê-tu-ên, em của La-ban, là dân A-ram ở xứ Pha-đan A-ram).
21 Y-sác cầu thay cho vợ mình đang son sẻ, xin Chúa Hằng Hữu cho nàng sinh con. Chúa nhậm lời nên Rê-bê-ca thụ thai.
22 Dường như các bào thai đánh nhau trong bụng, đến nỗi nàng than rằng: "Tôi chịu không nổi." Rồi nàng cầu hỏi Chúa.
23 Chúa đáp: "Hai con trai trong lòng ngươi sẽ trở thành hai nước chống đối nhau. Nước này mạnh hơn nước kia; đứa lớn sẽ phục dịch đứa nhỏ."
24 Quả nhiên, Rê-bê-ca sinh đôi.
25 Đứa đầu có nhiều lông đỏ hung hung, nên được đặt tên là Ê-sau.
26 Đứa sau nắm gót chân anh nó lúc lọt lòng, nên có tên là Gia-cốp. Năm ấy, Y-sác đã sáu mươi tuổi.
27 Hai đứa trẻ lớn lên. Ê-sau là một thợ săn tài giỏi, thường xông pha đồng nội, rừng xanh; còn Gia-cốp thích sống trầm lặng trong nhà, quanh quẩn bên mẹ.
28 Vì thế, Ê-sau được cha cưng, còn Gia-cốp được mẹ chiều.
29 Một hôm, Ê-sau đi săn về, mệt lả, thấy Gia-cốp đang nấu nồi xúp thơm ngào ngạt. Ê-sau năn nỉ:
30 "Chao ôi, đói quá! Em cho anh ăn món xúp đo đỏ đó với. (Do đó mà Ê-sau có biệt danh là Ê-đôm, nghĩa là "đỏ")
31 Gia-cốp đề nghị: "Được rồi, anh cứ trao quyền trưởng nam cho tôi thì tôi cho ăn xúp!"
32 Ê-sau nói xuôi: "Khi người ta đói gần chết, thì còn giữ quyền trưởng nam làm gì."
33 Gia-cốp nắm ngay cơ hội: "Vậy anh thề đi." Ê-Sau bèn thề bán quyền trưởng nam cho em mình.
34 Gia-cốp liền cho Ê-sau ăn bánh, đậu đỏ và xúp. Ăn xong, Ê-sau đứng dậy ra đi, không đếm xỉa gì đến quyền trưởng nam cả.
1 Trong xứ gặp nạn đói lớn, giống như trận đói thời Áp-ra-ham. Vì thế, Y-sác dời xuống Ghê-ra, một thành phố thuộc lãnh thổ của vua A-bi-mê-léc nước Phi-li-tin.
2 Chúa Hằng Hữu hiện ra bảo Y-sác: "Con đừng xuống Ai Cập.
3 Con nên vâng lời Ta mà ở lại trong xứ này. Nếu con cứ ở lại đây, Ta sẽ ở cùng con và ban phước lành cho con, vì Ta sẽ cho con và dòng dõi con đất nước này. Ta sẽ thực hiện lời thề hứa với cha con là Áp-ra-ham.
4 Ta sẽ cho dòng dõi con gia tăng nhiều như sao trên trời; và Ta sẽ cho dòng dõi con tất cả đất đai này. Nhờ dòng dõi con mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều được phước.
5 Ta sẽ thực hiện điều đó, vì Áp-ra-ham đã vâng giữ điều răn và luật lệ Ta."
6 Vậy Y-sác ở lại Ghê-ra.
7 Người dân hỏi thăm Rê-bê-ca thì Y-sác giới thiệu: "Đây là em gái tôi," vì sợ nếu họ biết nàng là vợ mình, họ sẽ giết mình đi để cướp nàng. Rê-bê-ca là một người đàn bà tuyệt sắc.
8 Sau một thời gian dài, A-bi-mê-léc vua nước Phi-li-tin nhìn qua cửa sổ, chợt thấy Y-sác hôn Rê-bê-ca.
9 A-bi-mê-léc lập tức triệu Y-sác vào cung quở trách: "Nàng quả là vợ ngươi, sao ngươi lại bảo là em gái?" Y-sác đáp: "Vì tôi sợ người ta sẽ giết tôi đi để cướp nàng."
10 A-bi-mê-léc trách: "Sao ngươi tệ thế. Nói thế nhỡ có kẻ nào tưởng nàng chưa có chồng, đem lòng yêu say đắm mà không được đáp ứng, rồi cuồng dại làm liều thì cả dân tộc ta sẽ bị họa lây."
11 Vua bèn ra thông cáo: "Ai làm hại vợ chồng Y-sác sẽ bị xử tử."
12 Y-sác làm ruộng và thu hoạch gấp trăm lần trong một năm trời. Chúa ban phước cho Y-sác,
13 nên người trở nên giàu có; tài sản ngày càng gia tăng nhanh chóng.
14 Y-sác có nhiều đầy tớ và rất nhiều bầy cừu, bầy dê, bầy bò đông đảo. Dân Phi-li-tin ganh tức,
15 nên tìm cách phá hoại, lấy đất lấp hết các giếng của Y-sác mà các đầy tớ cha người đã đào.
16 Chính vua A-bi-mê-léc cũng trở mặt trục xuất Y-sác ra khỏi nước Phi-li-tin: "Nhà ngươi phải rời đất nước ta, vì nhà ngươi giàu mạnh hơn dân ta."
17 Vậy, Y-sác ra đi, và di cư đến thung lũng Ghê-ra.
18 Y-sác đào lại các giếng đã đào từ thời Áp-ra-ham, vì sau khi Áp-ra-ham qua đời, dân Phi-li-tin đã lấp các giếng ấy. Y-sác giữ nguyên tên các giếng này đúng như cha mình đã đặt.
19 Nhưng đến khi các đầy tớ của Y-sác đào được một cái giếng phun nước giữa trũng,
20 thì bọn chăn cừu ở Ghê-ra đến tranh giành: "Giếng này là của bọn tao." Y-sác đặt tên giếng là "Giếng Tranh Giành."
21 Các đầy tớ người đào được một giếng khác, bọn chăn cừu ấy cũng giành nữa, nên Y-sác đặt tên là "Giếng Thù Hận."
22 Y-sác dời qua một nơi khác, và đào được một giếng mới, không bị ai tranh giành, nên Y-sác đặt tên là "Giếng Khoảng Khoát," vì người nói: "Chúa đã cho chúng ta ở nơi rộng rãi, chúng ta sẽ thịnh vượng trong xứ này."
23 Từ đó, Y-sác lên Biệt-sê-ba.
24 Một đêm, Chúa xuất hiện, phán bảo Y-sác: "Ta là Thượng Đế của Áp-ra-ham cha con. Con đừng sợ, vì Ta ở với con và ban phúc lành cho con. Ta sẽ cho dòng dõi con gia tăng đông đảo vì cớ Áp-ra-ham đầy tớ Ta!"
25 Vậy, Y-sác xây một bàn thờ, cầu khẩn Danh Chúa và định cư tại đó. Các đầy tớ của Y-sác lại bắt đầu đào giếng.
26 Một hôm, vua A-bi-mê-léc cùng đi với quân sư A-hu-sát và thống tướng Phi-côn, đến thăm Y-sác.
27 Y-sác trách: "Quý ngài đã ganh ghét tôi, trục xuất tôi, mà bây giờ quí ngài còn đến đây làm chi?"
28 Họ đáp: "Chúng tôi nhìn nhận rằng Chúa Hằng Hữu phù hộ ông, nên chúng tôi bàn định lập thỏa ước với ông.
29 Xin ông cam kết đừng bao giờ làm hại chúng tôi, như chúng tôi cũng đã không làm hại ông, trái lại, còn hậu đãi ông và để ông ra đi bình an. Ông là người được Chúa ban phúc lành."
30 Y-sác đặt một bữa tiệc linh đình đãi các thượng khách.
31 Ngày hôm sau, họ dậy sớm, long trọng thề nguyện lập hiệp ước bất xâm phạm. Rồi Y-sác đưa các thượng khách đi về bình an.
32 Ngay hôm ấy, các đầy tớ báo cáo cho Y-sác đã đào được giếng nước tốt.
33 Y-sác đặt tên giếng là "Giếng Thề Nguyện," và thành phố xây tại đó được gọi là Biệt-sê-ba (nghĩa là Giếng Thề Nguyện) cho đến ngày nay.
34 Ê-sau được bốn mươi tuổi mới lập gia đình, cưới luôn hai vợ, một người tên Giu-đi, con gái của Bê-ê-ri, người kia tên Bách-mát, con gái của Ê-long; cả hai đều là người Hết.
35 Nhưng các nàng dâu này gây lắm nỗi đắng cay cho ông bà Y-sác.
1 Y-sác tuổi cao, mắt đã mù lòa. Ông gọi Ê-sau nói chuyện: "Ê-sau, con!" "Dạ!"
2-4 Y-sác bảo: "Cha đã già cả rồi, không còn được bao nhiêu ngày nữa. Con hãy lấy cung tên vào rừng săn bắn, đem thịt về nấu nướng món ăn mà cha thích nhất, dọn ra đây cho cha ăn, để cha chúc phúc lành cho con trước khi qua đời."
5 Bà Y-sác nghe lỏm được câu chuyện giữa hai cha con. Khi Ê-sau vừa lên rừng săn thịt,
6-7 bà liền gọi con cưng là Gia-cốp, thuật tỉ mỉ lời Y-sác bảo Ê-sau.
8-10 "Con hãy nghe mẹ dặn đây - bà Y-sáca nói - Con hãy ra chuồng dê, bắt cho mẹ hai con dê con, mẹ sẽ nấu một món tuyệt ngon mà cha thích nhất, rồi con đem dọn mời cha. Ăn xong, cha sẽ chúc phúc lành cho con trước khi cha qua đời."
11,12 Gia-cốp đáp: "Thưa mẹ, lừa cha không được đâu. Anh con có nhiều lông, còn da con nhẵn nhụi. Nếu cha sờ vào da con, cha sẽ biết ngay con lừa gạt, chúc phúc đâu chẳng thấy, cha sẽ nguyền rủa cho thì có!"
13 Bà Y-sác trấn an: "Để mẹ chịu nguyền rủa cho. Cứ nghe lời mẹ. Ra bắt dê đi."
14 Gia-cốp nghe lời mẹ, ra chuồng bắt hai dê con để mẹ làm thịt, nấu nướng một món ngon lành, đúng như sở thích cha mình.
15 Bà mẹ lấy áo tốt nhất của Ê-sau để tại nhà, bảo Gia-cốp mặc vào,
16 lại dùng da dê bọc hai cánh tay và cổ của Gia-cốp.
17 Xong đâu đó, bà mới giao cho Gia-cốp đĩa thịt thơm phức và bánh mới nướng.
18 Gia-cốp lễ mễ bưng mâm vào phòng cha đang nằm.
Gia-cốp gọi: "Thưa cha!"
Y-sác hỏi: "Ai đó? Con là Ê-sau hay Gia-cốp?"
19 "Con là Ê-sau, con đầu lòng của cha. Con đã làm như cha dặn bảo. Đây món thịt rừng cha thích. Mời cha ngồi dậy, dùng đi, rồi cha chúc phúc lành cho con."
20 Y-sác thắc mắc: "Sao con đi săn mau quá vậy?"
"Thưa, nhờ Thượng Đế Hằng Hữu của cha giúp con gặp ngay con mồi đó."
21 Y-sác vẫn còn ngờ vực: "Con lại gần đây, để cha sờ xem có phải Ê-sau thật không."
22 Gia-cốp lại gần cho cha sờ tay mình. Y-sác lẩm bẩm: "Giọng nói thì của Gia-cốp, mà tay lại của Ê-sau."
23 Y-sác không còn cách nào phân biệt nữa, vì rõ ràng hai tay đều có nhiều lông, nên chúc phúc lành cho con.
24 Y-sác thử lại lần nữa: "Con có phải thật là Ê-sau không?"
Gia-cốp thưa: "Dĩ nhiên, con là Ê-sau mà."
25 Y-sác bảo: "Vậy con hãy đem đĩa thịt rừng đến đây cho cha ăn, để cha chúc phúc cho con." Gia-cốp bưng đĩa thịt đến mời cha và rót rượu cho cha uống.
26 Ăn xong, Y-sác bảo: "Con lại đây hôn cha đi." Gia-cốp đến hôn cha trên má. Y-sác ngửi mùi thơm của áo Ê-sau, và kết luận rằng đây chính là Ê-sau.
27-29 Y-sác long trọng chúc phúc:
"Mùi hương của con trai ta chẳng khác nào hương hoa đồng nội mà Chúa ban phúc. Cầu xin Thượng Đế ban cho con nhiều mưa móc, cho con được mùa, và cất được nhiều rượu mới. Nguyện nhiều dân tộc sẽ đầu hàng con. Con hãy cai trị các anh em con. Tất cả bà con quyến thuộc đều phục dịch con. Tất cả những người nguyền rủa con sẽ bị nguyền rủa; và tất cả những người chúc phúc con sẽ hưởng phúc lành."
30 Y-sác vừa chúc phúc xong, Gia-cốp mới ra khỏi phòng, thì Ê-sau đi săn trở về.
31 Ê-sau cũng nấu món ăn ngon cha thích nhất rồi dọn lên mời cha.
Ê-sau thưa: "Cha ơi, con đem thịt rừng về đây. Mời cha ngồi dậy, dùng đĩa thịt rồi cha sẽ chúc phúc cho con."
32 Y-sác hỏi: "Con là đứa nào?" Ê-sau đáp: "Con là Ê-sau, con trưởng nam của cha."
33 Y-sác run rẩy dữ dội hỏi: "Thế thì đứa nào mới dọn thịt rừng cho cha ăn đó? Cha đã ăn rồi, và cũng chúc phúc lành cho nó rồi, làm sao đổi lại được?"
34 Ê-sau bật khóc: "Cha ơi, cha cứ chúc phúc cho con với."
35 Y-sác đáp: "Em con đã vào đây gạt cha nên đã cướp được tất cả các lời chúc lành cha dành cho con rồi."
36 Ê-sau cay đắng nói: "Tên nó là Gia Cốp thật chẳng sai. Nó đã lừa con hai lần: cướp quyền trưởng nam của con, bây giờ nó lại đánh cắp phúc lành của con nữa. Cha ơi, cha còn dành cho con ít phúc lành nào không?"
37 Y-sác đáp: "Cha đã lập nó làm chủ con. Cha đã cho nó dùng bà con quyến thuộc làm tôi tớ. Cha đã cho nó được mùa màng dư dật và rượu nho dồi dào; còn chi nữa đâu con."
38 Ê-sau năn nỉ: "Cha không còn để dành cho con một phúc lành nào sao? Cha ơi, xin cha cứ cho con một ít phúc lành." Thấy cha im lặng, Ê-sau khóc tức tưởi.
39,40 Y-sác rầu rĩ nói:
"Con sẽ ở một nơi cằn cỗi, khô hạn, thiếu sương móc từ trời. Con phải dùng lưỡi gươm chiến đấu để sống còn. Con phải phục dịch em con một thời gian, nhưng về sau con sẽ thoát ách nó và được tự do."
41 Từ đó, Ê-sau ghen ghét Gia-cốp, vì Gia-cốp đã lập mưu cướp phúc lành của mình. Ê-sau tự nhủ: "Cha ta gần qua đời rồi; tống táng cha xong, ta sẽ giết Gia-cốp!"
42 Có người biết được ý đồ đó của Ê-sau, liền báo tin cho bà Y-sác. Bà sai gọi Gia-cốp đến, tiết lộ âm mưu của Ê-sau, và bảo: "Bây giờ, con nghe lời mẹ trốn qua nhà La-ban, là cậu con, ở Ha-ran.
44 Con cứ ở đó cho đến khi nào anh con nguôi giận
45 và quên đi việc con đã làm. Lúc đó, mẹ sẽ tin cho con biết mà trở về nhà. Không lẽ mẹ phải mất cả hai đứa con trong một ngày sao?"
46 Bà Y-sác lại vào thủ thỉ với chồng: "Tôi đã chán ngấy mấy đứa con dâu người Hết. Nếu Gia-cốp cưới một cô vợ ngang ngược như thế, thì tôi thà chết còn hơn."
1 Y-sác gọi Gia-cốp vào, chúc phúc lành rồi căn dặn: "Con đừng cưới vợ người Ca-na-an.
2 Trái lại, con hãy lên đường về xứ Pha-đan A-ram, đến nhà Bê-tu-ên ông ngoại con, rồi cưới một cô con gái của cậu La-ban làm vợ.
3 Cầu Thượng Đế Toàn Năng ban phúc cho con, cho con đông con, cho dòng dõi con sinh sôi nẩy nở, và trở thành một nước lớn gồm nhiều dân tộc.
4 Cầu Chúa cho con và dòng dõi con hưởng phúc lành của Áp-ra-ham, cho con làm chủ miền đất con đang kiều ngụ mà Thượng Đế đã ban cho ông nội con."
5 Vậy, Y-sác sai Gia-cốp đi qua xứ Pha-đan A-ram, đến nhà La-ban, là cậu của Gia-cốp và là con trai của Bê-tu-ên người A-ram.
6-8 Ê-sau nhận thấy cha mình khinh bọn con gái bản xứ nên mới bảo Gia-cốp qua xứ Pha-đan A-ram kiếm vợ, và nghiêm cấm Gia-cốp cưới vợ người Ca-na-an. Khi được cha chúc phúc lành, Gia-cốp đã lên đường qua xứ Pha-đan A-ram.
9 Ê-sau đi đến nhà bác mình là Ích-ma-ên, cưới thêm cô vợ thứ ba. Nàng tên là Ma-ha-lát, con Ích-ma-ên, cháu nội Áp-ra-ham, và em của Nê-ba-giốt.
10 Gia-cốp từ giã Biệt-sê-ba đi qua xứ Pha-đan A-ram.
11 Đêm ấy, Gia-cốp dừng chân, chọn một tảng đá gối đầu nằm ngủ.
12 Gia-cốp nằm mộng thấy một chiếc thang bắc liền từ đất lên trời, và các thiên sứ lên xuống trên thang ấy. Chúa đứng trên đầu thang, gọi Gia-cốp: "Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, Chân Thần của Áp-ra-ham và của Y-sác cha con. Đất con đang nằm đây thuộc về con. Ta ban miền đất này cho con và cho dòng dõi con.
14 Dòng dõi con sẽ đông như cát bụi trên mặt đất. Con sẽ mở rộng biên cương cả đông, tây, nam, bắc. Các dân tộc trên thế giới sẽ nhờ con và hậu tự con mà được phúc lành.
15 Này, Ta ở cùng con luôn; con đi đâu Ta sẽ theo gìn giữ đó, và đem con về xứ này, vì Ta không bao giờ bỏ con, cho đến khi Ta hoàn thành lời Ta đã hứa với con."
16 Gia-cốp thức giấc, tự nhủ: "Thật Chúa Hằng Hữu ngự tại đây mà ta không biết."
17 Ông sợ hãi nói: "Nơi này thật đáng kính sợ. Đây chính là Nhà của Thượng Đế, là Cửa dẫn lên trời!"
18 Gia-cốp dậy sớm, lấy tảng đá gối đầu đêm qua dựng lên làm trụ kỷ niệm, đổ dầu ô-liu trên đỉnh,
19 rồi đặt tên địa điểm này là Bê-tên (Nhà Chân Thần), thay tên cũ là Lu-xơ.
20 Gia-cốp khấn nguyện: "Nếu Thượng Đế ở với con, gìn giữ con trên đường con đang đi, cho con đủ ăn đủ mặc,
21 và đưa con trở về nhà cha con bình an vô sự, thì con sẽ chọn Thượng Đế làm Thần của con.
22 Còn tảng đá kỷ niệm này sẽ trở thành nơi thờ phượng Chúa, và con sẽ dâng lại cho Chúa một phần mười mọi vật Chúa ban cho."
1 Gia-cốp tiếp tục đi đường, cuối cùng đến một xứ ở phương đông.
2 Thấy đàng xa có ba bầy cừu đang nằm bên giếng, giữa một cánh đồng là nơi cừu đến uống nước. Tuy nhiên, trên miệng giếng có một tảng đá lớn đậy lại
3 (vì theo lệ thường, phải đợi cho các bầy súc vật họp lại đông đủ, người ta mới lăn tảng đá đi khi chúng uống xong, lại đặt tảng đá lên miệng giếng như cũ).
4 Gia-cốp đến chào các bác chăn cừu, hỏi họ từ đâu đến đây. Họ đáp: "Từ Pha-đan A-ram."
5 Gia-cốp hỏi: "Các bác có biết ông La-ban cháu cụ Na-cơ không?" Họ đáp: "Biết chứ."
6 Gia-cốp tiếp: "Ông ấy mạnh giỏi không?" Đáp: "Ông ta vẫn khỏe mạnh. Kìa, cô Ra-chên con ổng đang dẫn bầy cừu đến kia kìa!"
7 Gia-cốp gợi ý: "Trời hãy còn sớm, chưa đến giờ tập họp các bầy gia súc để đem về. Sao các bác không cho chúng uống nước rồi thả chúng đi ăn trở lại?"
8 Họ đáp: "Theo lệ, phải đợi các bầy súc vật tề tựu đông đủ mới lăn tảng đá đi, cho chúng uống nước, không xé lẻ được."
9 Lúc ấy, Ra-chên đã dẫn bầy cừu của cha đến giếng, vì cô cũng là người chăn.
10 Ý thức rằng Ra-chên là em cô cậu với mình, và bầy cừu này cũng của cậu mình, nên Gia-cốp một mình đến lăn tảng đá trên miệng giếng, rồi múc nước cho bầy cừu của cậu mình uống.
11 Gia-cốp hôn Ra-chên rồi khóc oà lên,
12 và cho nàng biết mình là bà con, là cháu gọi La-ban bằng cậu ruột. Ra-chên nghe xong, vội vã chạy về báo tin cho cha.
13 La-ban được tin Gia-cốp cháu mình đã đến, liền chạy ra đón tiếp, ôm chầm lấy Gia-cốp mà hôn, rồi đưa về nhà. Gia-cốp báo cáo mọi diễn biến cho La-ban.
14 La-ban đáp: "Cháu đúng là cốt nhục của cậu." Gia-cốp ở chơi nhà cậu một tháng và giúp việc cho cậu.
15 Một hôm, La-ban bảo Gia-cốp: "Không lẽ vì tình bà con ruột thịt mà cháu làm việc không công sao? Cháu muốn cậu trả lương bao nhiêu?"
16,17 La-ban có hai con gái: Cô chị tên Lê-a, có cặp mắt cận thị; còn cô em tên Ra-chên, có một thân hình cân đối, dung nhan tuyệt đẹp.
18 Gia-cốp yêu Ra-chên nên đề nghị với cậu: "Cháu xin giúp việc cậu bảy năm nếu cậu gả cho cháu cô Ra-chên, con gái út của cậu."
19 La-ban chấp thuận ngay: "Thà cậu gả nó cho cháu, còn hơn gả cho người ngoài."
20 Vậy, Gia-cốp phục dịch cậu suốt bảy năm để được cưới Ra-chên. Nhưng vì yêu say đắm, nên Gia-cốp coi bảy năm đằng đẵng chỉ bằng đôi ba ngày.
21 Hết bảy năm, Gia-cốp nhắc La-ban: "Cháu đã giữ đúng lời cam kết, xin cậu cho cháu làm lễ cưới."
22 La-ban bèn đặt tiệc lớn, mời tất cả những người trong cộng đồng đến dự lễ cưới.
23 Nhưng đêm ấy, La-ban đánh tráo Lê-a thay cho Ra-chên. Trong đêm tối, Gia-cốp không nhận ra, bèn ngủ với Lê-a.
24 (La-ban cũng cho nữ tì Xinh-ba theo hầu Lê-a.)
25 Sáng hôm sau, Gia-cốp thức dậy mới biết sự thật, thì đã muộn!
Gia-cốp nổi giận, trách La-ban: "Sao cậu gạt cháu chi vậy? Cháu phục dịch cậu suốt bảy năm tròn chỉ vì Ra-chên. Sao cậu lật lọng thế?"
26 La-ban giả lả: "Phong tục đây là thế! Không được gả em trước chị sau.
27 Cháu cứ đợi qua tuần trăng mật với Lê-a, cậu sẽ gả luôn Ra-chên cho, với điều kiện cháu giúp việc thêm cho cậu bảy năm nữa."
28 Gia-cốp đồng ý. Sau tuần ấy, La-ban gả luôn Ra-chên cho Gia-cốp,
29 và cho cô nữ tì Bi-la theo hầu Ra-chên.
30 Gia-cốp làm lễ hợp cẩn với Ra-chên, và yêu Ra-chên hơn Lê-a. Đúng theo giao kèo, Gia-cốp phục dịch La-ban thêm bảy năm nữa.
31 Chúa thấy Lê-a bị ghét, bèn cho nàng sinh sản; còn Ra-chên phải son sẻ.
32 Lê-a thụ thai, sinh con trai đầu lòng, đặt tên là Ru-bên và giải thích: "Thượng Đế đã lưu ý nỗi khó khăn của tôi. Bây giờ, chồng tôi sẽ yêu tôi."
33 Lê-a thụ thai nữa, sinh con trai thứ nhì, đặt tên là Si-mê-ôn và giải thích: "Thượng Đế đã nghe rằng tôi bị ghét bỏ, nên ban nó cho tôi."
34 Lê-a thụ thai lần thứ ba, sinh con trai và đặt tên Lê-vi, rồi giải thích: "Bây giờ chồng tôi sẽ khắng khít với tôi, vì tôi sinh được ba con trai cho người."
35 Lần thứ tư, Lê-a thụ thai, sinh con trai và đặt tên Giu-đa, rồi giải thích: "Bây giờ, tôi ca ngợi Chúa Hằng Hữu!" Sau đó, nàng thôi sinh nở một thời gian.
1 Ra-chên thấy mình son sẻ, nên ganh tức với chị, lại trách móc Gia-cốp: "Anh phải cho tôi có con. Bằng không, tôi sẽ chết."
2 Gia-cốp nổi giận, quát: "Anh có thay quyền Thượng Đế được đâu. Chỉ một mình Ngài có quyền cho em son sẻ."
3 Ra-chên đề nghị: "Anh cứ ngủ với nữ tì của em; nếu cô ta có con là con của em đó."
4 Vậy, Ra-chên giao Bi-la cho chồng.
5 Gia-cốp ngủ với Bi-la. Nàng thụ thai, sinh một con trai.
6 Ra-chên đặt tên nó là Đan, rồi giải thích: "Thượng Đế đã minh oan cho tôi, nghe lời tôi van nài, và ban cho tôi một con trai."
7 Bi-la thụ thai lần thứ nhì và sinh một con trai nữa cho Gia-cốp.
8 Ra-chên đặt tên nó là Nép-ta-li, rồi giải thích: "Tôi đã tranh đấu với chị tôi và thắng cuộc!"
9 Trong khi đó, Lê-a thấy mình thôi sinh nở, liền giao nữ tì Xinh-ba để làm vợ cho chồng mình.
10 Xinh-ba thụ thai, sinh một con trai cho Gia-cốp.
11 Lê-a đặt tên nó là Gát (nghĩa là may mắn).
12 Xinh-ba lại thụ thai và sinh con trai thứ nhì.
13 Lê-a đặt tên nó là A-se, rồi giải thích: "Tôi vui sướng vô cùng! Các phụ nữ sẽ nhìn nhận tôi là người có phúc."
14 Một hôm, giữa mùa gặt lúa mì, Ru-bên ra đồng ruộng, hái được mấy trái táo rừng đem về biếu mẹ. Ra-chên thấy được, năn nỉ xin Lê-a cho một vài quả.
15 Lê-a nổi giận: "Mày cướp chồng tao, chưa đủ hay sao mà còn muốn cướp táo của con tao?" Ra-chên rụt rè điều đình: "Chị cho em ăn táo, em sẽ để ảnh ngủ với chị tối nay."
16 Đến chiều tối, Gia-cốp ở đồng áng về đến nhà, đã thấy Lê-a đon đả: "Anh phải ngủ với em đêm nay, vì em đã lấy táo rừng của con em mà 'thuê' anh một đêm đó." Gia-cốp cũng chấp thuận.
17 Chúa nhậm lời cầu nguyện của Lê-a và cho nàng thụ thai trở lại. Nàng sinh con trai thứ năm,
18 đặt tên là Y-sa-ca (nghĩa là tiền công) và giải thích rằng: "Thượng Đế đã trả công lại cho tôi vì tôi đã giao nữ tì tôi cho chồng."
19 Lê-a thụ thai nữa, sinh con trai thứ sáu, đặt tên là Xê-bu-lân (nghĩa là tặng phẩm),
20 rồi giải thích: "Thượng Đế đã ban cho tôi nhiều tặng phẩm để đem về cho chồng tôi. Bây giờ, chàng sẽ quý trọng tôi vì tôi đã sinh cho chàng sáu con trai rồi."
21 Sau hết, Lê-a sinh được một con gái, đặt tên là Đài-na.
22 Thượng Đế nhớ lại Ra-chên, nhậm lời cầu nguyện của nàng và cho nàng sinh nở.
23,24 Nàng thụ thai và sinh một con trai, nên nàng ca ngợi Chúa: "Thượng Đế đã dẹp điều sỉ nhục của tôi rồi." Nàng đặt tên con là Giô-sép và thầm nguyện: "Xin Chúa cho con thêm một đứa nữa!"
25 Sau khi Ra-chên sinh Giô-sép, Gia-cốp yêu cầu La-ban: "Xin cậu cho cháu về quê.
26 Cháu đã tận tình phục vụ cậu đúng theo giao kèo, xin cậu cho cháu đem vợ con lên đường."
27 Nhưng La-ban đáp: "Xin cháu đừng bỏ cậu. Cậu nhận định rằng bao nhiêu phúc lành cậu được hưởng bấy lâu nay đều là do cháu cả.
28 Cháu muốn cậu tăng lương bao nhiêu, cậu cũng sẵn lòng tất!"
29,30 Gia-cốp đáp: "Cậu đã biết cháu làm việc trung tín, tận tâm phục vụ cậu bao nhiêu năm nay. Các bầy gia súc của cậu gia tăng nhanh chóng. Trước ngày cháu đến, cậu chỉ có ít tài sản; bây giờ cậu đã giàu nứt vách đổ tường. Chúa Hằng Hữu đã ban phúc dồi dào cho cậu qua mọi việc cháu làm. Nhưng còn phần cháu thì sao? Bao giờ cháu mới có tài sản để tự túc cho gia đình?"
31,32 La-ban lại hỏi: "Cháu đòi lương hướng bao nhiêu?" Gia-cốp đáp: "Nếu cậu chấp thuận điều này, cháu sẽ trở lại làm việc cho cậu. Hôm nay, cậu để cháu đi kiểm soát các bầy gia súc của cậu. Những con cừu, con dê nào có rằn, có đốm hoặc lông đen thì cậu để riêng cho cháu, kể là tiền công.
33 Từ nay về sau, nếu cậu bắt gặp con cừu, con dê nào lông trắng trong bầy gia súc của cháu, thì cậu cứ kể là ăn cắp."
34 La-ban hí hửng chấp thuận đề nghị ấy: "Cháu đã nói thế, thì cậu cũng bằng lòng."
35,36 Ngay hôm ấy, La-ban chọn riêng tất cả dê cừu lông đen hoặc có rằn, có đốm - kể cả các con có đốm trắng - chia thành từng bầy và giao cho các con trai mình chăn, rồi bảo chúng lùa tất cả đi, cách xa địa điểm La-ban và Gia-cốp đang ở đến ba ngày đường. Gia-cốp chăn bầy gia súc còn lại của La-ban.
37,38 Gia-cốp lấy những cành bạch dương, cành hạnh và cành ngô đồng mới nứt, lột bớt vỏ từng đường dài rồi đặt cạnh các máng nước cho dê, cừu trông thấy mỗi khi chúng đến uống nước và giao hợp nhau.
39,40 Sau đó, chúng đẻ con; con nào cũng có vằn, có đốm. Gia-cốp liền bắt các con này để riêng cho mình. Gia-cốp cũng đem riêng các cừu cái của La-ban ra, cho chúng giao hợp với cừu đực đen của mình. Thế là Gia-cốp gầy được nhiều bầy dê, bầy cừu cho mình.
41 Khéo hơn nữa, Gia-cốp chỉ đặt các cành lột vỏ trước các dê, cừu mập mạnh.
42 Các con ốm yếu vẫn tiếp tục đẻ con gầy guộc cho La-ban; chỉ những đàn con mập mạnh mới về tay Gia-cốp.
43 Kết quả là bầy gia súc của Gia-cốp gia tăng nhanh chóng. Gia-cốp ngày càng giàu, mua được nhiều nô lệ, lạc đà và lừa, trở thành cự phú.
1 Nghe các người em vợ tố cáo mình sang đoạt tài sản của La-ban để làm giàu,
2 Gia-cốp để ý xem chừng nét mặt của La-ban và kết luận rằng ông gia đã đổi hẳn thái độ với mình.
3 Chúa Hằng Hữu bảo Gia-cốp: "Con hãy về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Ta sẽ bảo vệ con."
4 Gia-cốp sai gọi hai vợ ra đồng cỏ, nơi ông đang chăn bầy súc vật,
5 rồi giãi bày tâm sự: "Anh thấy cha đã đổi hẳn thái độ với anh, nhưng Thượng Đế của cha anh vẫn phù hộ anh.
6 Hai em đã biết, anh cố sức phục vụ cha,
7 còn cha cứ khinh khỉnh, hết gạt tiền công lại lừa đảo giao kèo, liên tiếp cả mười lần. Nhưng Thượng Đế đâu có để người hại ta.
8 Cha lập giao kèo cho anh các cừu nào có đốm để cấn trừ tiền công; thế là cừu cứ đẻ con có đốm. Cha hủy giao kèo, bảo cừu nào có sọc Gia-cốp mới được bắt; thế là cừu cứ đẻ con có sọc.
9 Như thế, Thượng Đế đã lấy tài sản của cha mà cho anh đó.
10 Việc xảy ra thế này: Khi bầy vật giao hợp, anh nằm mộng thấy các con chiên đực nhảy cỡn lên đều là những con có rằn, có đốm, có vệt xám cả.
11 Lúc ấy, thiên sứ của Chúa liền báo mộng cho anh. Thiên sứ gọi: 'Gia-cốp!' Anh thưa: 'Có con đây!'
12 Thiên sứ bảo: 'Con hãy nhìn lên. Các dê đực đang giao hợp kia đều là những con có rằn, có đốm, có vệt xám cả, vì Ta đã thấy cách La-ban đối xử với con.
13 Ta là Chân Thần đã hiện ra gặp con tại Bê-tên, là nơi con xức dầu trên trụ đá và hứa nguyện với Ta. Bây giờ, con hãy đứng dậy, bỏ xứ này để trở về quê cha đất tổ.' "
14 Ra-chên và Lê-a đáp: "Chúng em đâu còn gia tài, sản nghiệp gì ở nhà cha nữa.
15 Cha đã coi chúng em như người dưng, vì gả bán chúng em được bao nhiêu tiền, cha ăn xài hết.
16 Dĩ nhiên, tất cả tài sản Chúa lấy nơi cha là để cho mẹ con chúng em. Bây giờ anh cứ làm mọi điều Chúa dạy."
17 Gia-cốp liền đứng dậy, đỡ vợ con lên lưng lạc đà,
18 lùa đi hết các bầy gia súc, di chuyển tất cả của cải đã thu trữ được tại xứ Pha-đan A-ram, đem về xứ Ca-na-an, nơi cha mình cư ngụ.
19 Thừa dịp cha bận đi hớt lông cừu, Ra-chên đánh cắp các thần tượng gia đình.
20 Lập mưu đánh lạc hướng La-ban người Sy-ri, không cho ông biết ý định hồi hương của mình,
21 Gia-cốp bất thần đem cả gia đình, tài sản qua Phát-giang, trực chỉ về núi Ga-la-át.
22 Ba ngày sau, được báo cáo Gia-cốp đã trốn đi,
23 La-ban lập tức triệu tập bà con và người nhà, đuổi theo Gia-cốp suốt bảy ngày, đến tận núi Ga-la-át mới bắt kịp.
24 Thượng Đế liền báo mộng cho La-ban người Sy-ri: "Dù lành hay dữ, hãy thận trọng, đừng nặng lời với Gia-cốp."
25 Đuổi đến núi Ga-la-át, La-ban thấy gia đình Gia-cốp cắm trại trên sườn núi bên kia, nên cho các thủ hạ cắm trại bên này.
26 La-ban sừng sộ hỏi Gia-cốp: "Cháu làm chi vậy? Tại sao cháu gạt cậu và áp giải các con gái cậu như tù binh?
27 Sao lại bí mật trốn đi và đánh lạc hướng? Sao không cho cậu biết, để cậu đem ban hát, dàn nhạc tiễn đưa cho thêm phần long trọng?
28 Sao không để cho cậu hôn từ biệt con cháu của cậu? Việc cháu làm thật là điên dại.
29 Cậu có quyền hại cháu, nhưng Thượng Đế của cha cháu đã dặn cậu tối qua: 'Dù lành hay dữ, hãy thận trọng, đừng nặng lời với Gia-cốp.'
30 Nay cháu mong mỏi về quê cha đất tổ nên đã ra đi, nhưng tại sao lại đánh cắp các thần tượng của cậu?"
31 Gia-cốp đáp: "Vì cháu sợ cậu bắt lại hai con gái của cậu nên cháu phải ra đi bất thần như thế.
32 Còn các thần tượng của cậu, đứa nào lấy thì đáng bị trời đánh thánh vật. Trước mặt đông đủ anh em, cậu cứ vào soát các hành lý của cháu đi, xem có vật gì thuộc về cậu thì cứ việc thu hồi." (Gia-cốp thực tình không biết Ra-chên đã đánh cắp các thần tượng ấy.)
33 Vậy, La-ban lần lượt vào lục soát các trại của Gia-cốp. Từ trại Lê-a, La-ban bước qua trại Ra-chên.
34 Số là, Ra-chên đã đem giấu mấy thần tượng đó dưới bành lạc đà rồi ngồi chận lên. La-ban soát khắp trại cũng chẳng tìm thấy thần tượng.
35 Ra-chên giải thích: "Thưa cha, vì con có tháng, nên không đứng dậy đón rước cha được, xin cha miễn chấp." La-ban lại lục soát nhưng cũng chẳng tìm ra tượng thần đâu cả.
36 Gia-cốp đùng đùng nổi giận, cự La-ban: "Cháu có phải là đứa tù tội hay sao mà cậu hầm hầm rượt bắt như thế?
37 Cậu lục soát tất cả các hành lý của cháu, cậu có tìm ra vật gì thuộc quyền sở hữu của cậu không? Cậu cứ đem tang vật ra đây cho bà con hai bên xét xử.
38 Suốt hai mươi năm trọ tại nhà cậu, có khi nào cháu để cho cừu, dê của cậu bị sảo thai; có khi nào cháu ăn thịt cừu đực trong bầy cậu?
39 Cháu chẳng bao giờ đem về cho cậu một con gia súc nào bị thú dữ cắn xé. Nếu có thì cháu cũng đã bồi thường cho cậu. Thế mà cậu cứ cằn rằn đòi cháu bồi hoàn những con bị trộm cắp ban ngày và đêm khuya.
40 Ban ngày cháu bị nắng nóng như thiêu; ban đêm cháu chịu lạnh lẽo, ngủ không an giấc.
41 Cháu chịu đựng gian khổ như thế suốt hai mươi năm trời: Cháu phải lao công mười bốn năm chỉ vì muốn cưới hai cô con gái cậu; cháu phải đầu tắt mặt tối suốt sáu năm chỉ vì mấy bầy súc vật. Thế mà cậu còn tráo trở, thay đổi giao kèo cả mười lần.
42 Nếu cháu không được sự phù hộ của Thượng Đế thân phụ cháu, là Chân Thần của Áp-ra-ham mà thân phụ cháu kính thờ, chắc hẳn bây giờ cậu đuổi cháu đi với hai bàn tay trắng. Thượng Đế đã thấy rõ nỗi đau khổ của cháu và nhìn nhận công khó của cháu, nên đêm qua Ngài đã xét xử công minh rồi."
43 La-ban đáp: "Đám phụ nữ này là con gái của cậu, các đứa trẻ này là cháu của cậu. Các bầy gia súc cháu có đây cũng là của cậu. Bất cứ vật gì cháu có ngày nay cũng là tài sản của cậu hết. Có lý nào cậu lại làm hại con cháu của cậu sao.
44 Cháu hãy đến đây kết ước với cậu, để có một bằng chứng từ nay về sau giữa đôi bên."
45 Gia-cốp liền chọn một tảng đá, dựng lên làm tấm bia,
46 rồi bảo gia nhân lượm đá dồn lại làm một đống lớn quanh tấm bia. Gia-cốp và La-ban ngồi ăn bên đống đá.
47,48 Hai người đều coi nó là "Đống Đá Làm Chứng," nhưng La-ban gọi bằng tiếng A-ram là Giê-ga Sa-ha-đu-ta, còn Gia-cốp gọi bằng tiếng Hi-bá là Ga-lét.
La-ban nói: "Đống đá này sẽ làm chứng giữa cháu và cậu nếu bên nào muốn xâm phạm địa giới này."
49 Vì thế, đống đá này cũng được gọi là "Tháp Canh" (Mích-ba) vì La-ban giải thích: "Cầu Chúa canh giữ cháu và cậu khi ta xa cách nhau.
50 Nếu cháu bạc đãi con gái cậu, mà lấy vợ khác, thì cháu nên nhớ rằng dù cậu không biết đi nữa, Thượng Đế vẫn biết rõ.
51,52 Đống đá này làm chứng giữa cháu và cậu về lời cam kết rằng giữa hai bên chẳng bao giờ vượt qua giới hạn này để tiến công nhau.
53 Nếu ai vi phạm giao ước này, nguyện Thượng Đế của Áp-ra-ham và Na-cơ và của tổ phụ họ tiêu diệt nó đi."
Vậy, Gia-cốp thề trước mặt Thượng Đế Toàn Năng của Y-sác cha mình rằng sẽ luôn luôn tôn trọng biên giới này.
54 Gia-cốp dâng cho Thượng Đế một tế lễ trên đỉnh núi, và mời bà con dự tiệc, rồi ở cả đêm với họ trên núi.
55 Hôm sau, La-ban dậy sớm, hôn từ biệt các con gái và các cháu mình, chúc phước cho con cháu, rồi lên đường về quê nhà.
1,2 Gia-cốp và cả gia đình tiếp tục cuộc hành trình. Khi gặp các thiên sứ tại một địa điểm nọ, Gia-cốp reo mừng: "Thượng Đế ngự tại nơi này," và gọi chỗ ấy là Ma-ha-na-im.
3 Gia-cốp sai gia nhân lên tận núi Sê-i-rơ trong xứ Ê-đôm, tìm Ê-sau
4 thưa rằng: "Em ông là Gia-cốp nói: Tôi đã kiều ngụ với cậu La-ban cho đến ngày nay.
5 Tôi có nhiều nô tì, bò, lừa và các bầy gia súc. Nay chúng tôi sắp về tới quê nhà, xin kính tin anh rõ, mong anh vui lòng chấp thuận."
6 Gia nhân quay về báo cáo: "Chúng tôi đã tìm gặp Ê-sau. Ông ấy đang đem một lực lượng bốn trăm người đến đón chủ."
7 Gia-cốp được tin, phập phồng lo sợ. Đề phòng mọi bất trắc, ông chia gia nhân làm hai toán, cho mỗi toán coi sóc một nửa số súc vật.
8 Ông tự bảo: "Nếu anh ta tiến công toán này, toán kia có thể chạy thoát."
9 Gia-cốp cầu nguyện khẩn thiết: "Lạy Thượng Đế của ông nội con là Áp-ra-ham, và của cha con là Y-sác! Chúa đã bảo: 'Con hãy trở về quê hương, sống với bà con thân thích. Ta sẽ hậu đãi con.'
10 Thật ra, con chẳng xứng đáng gì, nhưng Chúa đã thương xót và giữ đúng tất cả những lời Ngài hứa. Khi con ra đi chỉ có hai bàn tay trắng, mà nay con có hai đoàn người này với bao nhiêu tài sản.
11 Con van xin Chúa giải thoát con khỏi tay Ê-sau anh con. Vì con sợ anh ấy đến đánh giết con và vợ con con.
12 Chúa đã hứa: 'Chắc chắn Ta sẽ hậu đãi con, cho dòng dõi con đông như cát biển, không ai đếm được.' "
13-15 Tối hôm ấy, Gia-cốp ở lại Ma-ha-na-im và chọn các món quà để biếu Ê-sau. Quà tặng gồm có: hai trăm dê cái, hai mươi dê đực, hai trăm chiên cái, hai mươi chiên đực, ba mươi lạc đà cái, một đàn lạc đà con, bốn mươi bò cái, mười bò đực, hai mươi lừa cái, và mười lừa đực.
16 Gia-cốp giao các bầy súc vật cho đám đầy tớ mình, mỗi người coi sóc một bầy, và căn dặn họ: "Các anh cứ đi trước, giữ một khoảng cách giữa các bầy súc vật."
17 Gia-cốp cũng dặn người dẫn bầy thứ nhất: "Khi Ê-sau gặp anh và hỏi: 'Chủ anh là ai? Anh đi về đâu? Bầy vật này thuộc về ai?'
18 Anh cứ đáp: 'Bầy vật này của Gia-cốp, tôi tớ ngài, xin kính tặng ngài. Gia-cốp đi sau, cũng sắp đến.' "
19 Gia-cốp lại dặn các tôi tớ chăn bầy khác cũng nói với Ê-sau những lời đó, rồi thêm: "Này, Gia-cốp tôi tớ ngài đang theo sau chúng tôi."
20 Gia-cốp tự nhủ: Ta gửi các tặng phẩm này trước để làm Ê-sau nguôi giận. Mong rằng nhờ đó, Ê-sau sẽ tiếp ta tử tế khi giáp mặt.
21 Gởi các lễ vật đi trước, tối hôm ấy Gia-cốp ở lại trong trại.
22 Giữa đêm khuya, Gia-cốp thức dậy, đưa hai vợ, hai cô hầu và mười một con trai qua suối Gia-bộc,
23 với tất cả tài sản còn lại.
24 Đang một thân một bóng, Gia-cốp bỗng thấy một Người xuất hiện, đấu vật với mình cho đến rạng đông.
25 Thấy mình không thắng được, Người ấy liền đập vào hông của Gia-cốp, làm trặc xương đùi,
26 và bảo rằng: "Trời đã sáng, hãy để Ta đi." Nhưng Gia-cốp đáp: "Nếu Ngài không ban phúc lành cho con, con không để Ngài đi đâu."
27 Người ấy hỏi: "Tên con là chi?" Đáp rằng: "Gia-cốp."
28 Người liền bảo: "Tên con không phải là Gia-cốp nữa, nhưng sẽ đổi lại là Y-sơ-ra-ên, vì con đã tranh đấu với Chúa và người, và đều thắng cả."
29 Gia-cốp thưa: "Xin cho con biết tên Ngài." Người ấy đáp: "Con hỏi tên Ta làm chi?" Rồi người ban phúc lành cho Gia-cốp tại đó.
30 Gia-cốp gọi địa điểm này là Phê-niên (có nghĩa là Thượng Đế hiện diện), và giải thích rằng ông đã đối diện cùng Thượng Đế mà vẫn còn sống.
31 Gia-cốp khập khểnh bước ra khỏi Phê-niên lúc trời rạng đông.
32 Về sau, dân Y-sơ-ra-ên không bao giờ ăn gân đùi của các thú vật vì Gia-cốp đã bị trặc xương đùi trong cuộc đấu vật này.
1 Ngước mặt lên, Gia-cốp thấy Ê-sau chỉ huy lực lượng bốn trăm người tiến đến. Gia-cốp lập tức chia đàn con cho Lê-a, Ra-chên và hai cô hầu.
2 Hai cô hầu dẫn con họ đi trước, kế đến Lê-a và sáu con, rồi Ra-chên và Giô-sép đi sau cùng.
3 Gia-cốp vượt lên trước vợ con để đón Ê-sau, cúi mọp xuống đất bảy lần trước mặt anh mình.
4 Nhưng Ê-sau chạy đến ôm choàng Gia-cốp, bá lấy cổ mà hôn. Hai anh em đều khóc thổn thức.
5 Thấy vợ con Gia-cốp tiến đến, Ê-sau hỏi: "Những người đi theo em đó là ai?" Gia-cốp đáp: "Đó là con cái Chúa đã cho em."
6 Hai cô hầu dẫn đàn con đến cúi mọp xuống chào Ê-sau,
7 rồi đến Lê-a và các con, sau hết là Ra-chên và Giô-sép.
8 Ê-sau hỏi: "Các bầy vật đó em định làm chi?" Gia-cốp đáp: "Xin hiến dâng cho anh để anh dủ lòng thương."
9 Ê-sau từ khước: "Anh có đủ tài sản rồi; em cứ giữ các bầy vật đó."
10 Gia-cốp khẩn khoản: "Không, em nài xin anh vui lòng nhận các lễ vật ấy. Vì gặp được anh cũng như gặp được Chúa rồi; anh đã vui lòng tiếp đón em.
11 Xin anh nhận lễ vật em dâng hiến, vì Thượng Đế đã hậu đãi em và cho em đầy đủ mọi sự." Gia-cốp nài nỉ mãi cho đến khi Ê-sau nhận các lễ vật ấy.
12 Ê-sau đứng dậy đề nghị: "Này, anh em ta hãy lên đường; anh sẽ hộ tống em."
13 Nhưng Gia-cốp phân trần: "Anh biết đám trẻ con còn yếu; bầy chiên, bò có nhiều con đang bú. Nếu ép đi nhanh, chắc chỉ một ngày là chúng bỏ mạng.
14 Xin anh cứ đi trước, còn em sẽ chậm rãi theo sau, đi cho vừa sức của trẻ con và thú vật đang bú, cho đến chừng tới nhà anh trên núi Sê-i-rơ."
15 Ê-sau lại đề nghị: "Để anh bảo gia nhân ở lại làm hướng đạo cho em." Nhưng Gia-cốp từ khước: "Không cần, anh ạ. Anh đã tỏ lòng thương em là quý lắm rồi."
16 Ngay hôm ấy, Ê-sau quay về núi Sê-i-rơ.
17 Còn Gia-cốp đến Su-cốt hạ trại và cắm chuồng cho các bầy súc vật. Từ đó, người ta gọi địa điểm này là Su-cốt (nghĩa là chuồng).
18 Kể từ ngày lìa xứ Pha-đan A-ram, đoàn lữ hành đi đường bình an đến xứ Ca-na-an, và hạ trại trước thành phố Si-chem.
19 Gia-cốp tậu một miếng đất cắm trại của anh em Si-chem, tức là các con trai của Hê-mô.
20 Gia-cốp lập một bàn thờ tại Si-chem, và đặt tên bàn thờ là Ên, tức Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên.
1 Một hôm, cô Đài-na (con gái của Lê-a và Gia-cốp) đi thăm các thiếu nữ trong thành phố.
2 Hoàng tử Si-chem, con vua Hê-mô của dân Hê-vi, thấy cô, liền bắt cóc và cưỡng hiếp.
3 Si-chem say đắm sắc đẹp của Đài-na, dùng đủ lời đường mật quyến rũ cô.
4 Si-chem lại xin vua Hê-mô cho chàng cưới Đài-na làm vợ.
5 Gia-cốp được tin, lặng người, không nói một lời, trong lúc các con trai còn bận chăn bầy vật ngoài đồng.
6 Vua Hê-mô, cha Si-chem, đến thăm Gia-cốp để cầu hôn cho con.
7 Các con trai Gia-cốp, đang làm việc ngoài đồng, rất buồn rầu và giận dữ khi nghe tin Si-chem cưỡng hiếp em và gây sỉ nhục cho gia đình mình.
8 Vua Hê-mô đến yêu cầu: "Si-chem con trai tôi đã yêu Đài-na tha thiết. Xin hãy gả cô ấy cho con trai tôi.
9 Xin quý quyến cứ làm thông gia với chúng tôi, hai bên cưới gả với nhau.
10 Quý quyến cứ định cư tại đây. Đất nước chúng tôi sẵn sàng tiếp đón quý vị. Xin quý vị ở đây buôn bán, tạo mãi tài sản đất ruộng."
11 Si-chem cũng thưa với Gia-cốp và các con trai ông: "Xin quý vị làm ơn cho tôi. Quý vị thách cưới cao đến thế nào, tôi cũng xin vâng.
12 Quý vị cứ đòi sính lễ cho nhiều, tôi xin nạp đủ số, miễn là quý vị gả cô ấy làm vợ tôi."
13 Các con trai Gia-cốp đáp lời Hê-mô và Si-chem cách mưu mẹo, để trả thù cho em: "Gả em gái cho người chưa chịu cắt bì là điều sỉ nhục, chúng tôi không thể nào chấp thuận. Nhưng nếu mỗi người nam của dân tộc các ông đều chịu lễ cắt bì, chúng tôi sẵn lòng cưới gả với dân tộc các ông, như thế chúng ta sẽ thành một dân tộc thống nhất.
17 Nhưng nếu các ông không chịu cắt bì, chúng tôi sẽ bắt em gái lại và dọn đi xứ khác."
18 Nghe đề nghị ấy, Hê-mô và Si-chem đều thỏa mãn.
19,20 Quá say mê sắc đẹp của Đài-na, Si-chem vội vã triệu tập nhân dân tại cổng thành phố, để thúc đẩy mọi người chấp nhận đề nghị, vì Si-chem là người được tôn trọng nhất trong hoàng tộc.
21 Hê-mô và Si-chem kêu gọi: "Đồng bào thân mến, gia đình Gia-cốp đã sống chung hòa bình với chúng ta. Vậy hãy cho họ cư ngụ trong xứ để làm ăn buôn bán; vì xứ chúng ta đất rộng người thưa, đủ chỗ cho họ định cư. Chúng ta hãy cưới gả với họ.
22 Họ chỉ đòi một điều kiện là tất cả các người nam của chúng ta đều phải chịu cắt bì như họ. Chỉ như thế họ mới chịu đồng hóa với chúng ta thành một dân tộc thống nhất.
23 Đồng bào cứ chấp thuận điều kiện đó, để họ định cư với chúng ta. Tất nhiên, bao nhiêu tài sản, bầy chiên, bầy bò của họ đều sẽ về tay chúng ta hết."
24 Tất cả nhân dân có mặt ở cổng thành đều vâng theo lời của Hê-mô và Si-chem, và chịu lễ cắt bì.
25 Ngày thứ ba, khi họ còn đau, Si-mê-ôn và Lê-vi, anh ruột của Đài-na, rút gươm mạo hiểm xông vào,
26 tàn sát tất cả các người nam trong thành, luôn với Hê-mô và Si-chem, rồi giải thoát Đài-na.
27 Các con trai của Gia-cốp thừa thắng xông lên, cướp phá thành phố để báo thù cho em gái.
28 Họ bắt các bầy chiên, bò, lừa, và thu tất cả của cải, bảo vật trong thành phố cũng như sản vật ngoài đồng ruộng.
29 Họ cũng bắt vợ con của các nam đinh thành Si-chem, và cướp đoạt tài sản trong nhà họ.
30 Gia-cốp được tin liền trách mắng Si-mê-ôn và Lê-vi: "Chúng mày làm hổ nhục cho cha giữa nhân dân xứ này, giữa dân Ca-na-an, và dân Phê-ri. Chúng ta chỉ có ít người, nếu dân bản xứ liên minh tiến công cha, thì cả gia đình chúng ta đành bị tiêu diệt."
31 Nhưng họ phân trần: "Thưa cha, không lẽ để nó hành hạ em chúng con như gái mãi dâm sao?"
1 Thượng Đế bảo Gia-cốp: "Con hãy lên định cư tại Bê-tên và lập một bàn thờ cho Ta, là Đấng đã hiện ra gặp con lúc con đang chạy trốn Ê-sau anh con."
2 Gia-cốp thuật lại điều này cho cả gia nhân quyến thuộc và căn dặn: "Hãy vứt bỏ hết các thần tượng, dọn mình cho thánh sạch và thay áo xống đi.
3 Chúng ta hãy đứng dậy, lên Bê-tên. Ta sẽ lập một bàn thờ cho Thượng Đế, là Đấng nhậm lời ta trong ngày hoạn nạn, và ở cùng ta suốt các chặng đường đời."
4 Họ liền nạp cho Gia-cốp các thần tượng đang cất giấu, và các đôi bông tai họ đang đeo. Gia-cốp đem chôn hết dưới gốc cây sồi tại Si-chem.
5 Gia đình Gia-cốp nhổ trại ra đi. Thượng Đế làm cho dân các thành phố chung quanh khiếp sợ, không dám đuổi theo các con trai Gia-cốp.
6 Gia-cốp và cả gia đình đến thành phố Bê-tên, mà người Ca-na-an gọi là Lu-xơ.
7 Gia-cốp xây dựng một bàn thờ và đặt tên nơi đó là Ên-bê-tên, vì Thượng Đế đã xuất hiện, gặp ông tại đây trong ngày ông chạy trốn anh mình.
8 Đê-bô-ra, người vú của Rê-bê-ca, qua đời và được an táng tại Bê-tên, dưới gốc một cây sồi mang tên là A-long-ba-cúc.
9 Thượng Đế lại xuất hiện, gặp Gia-cốp lần thứ nhì, sau khi ông lìa xứ Pha-đan A-ram.
10 Ngài bảo: "Tên cũ của con là Gia-cốp, nhưng đừng dùng tên ấy nữa. Tên con sẽ là Y-sơ-ra-ên." Và Ngài gọi ông là Y-sơ-ra-ên.
11 Chúa dạy tiếp: "Ta là Thượng Đế Toàn Năng. Con hãy sinh sôi nẩy nở, không những thành một dân tộc, nhưng nhiều dân tộc. Dòng dõi con sẽ có nhiều vua chúa.
12 Ta sẽ cho con và dòng dõi con vùng đất Ta đã cho Áp-ra-ham và Y-sác."
13 Rồi Thượng Đế ngự lên khỏi nơi này.
14 Gia-cốp liền dựng tại đó một cây trụ đá, dâng lễ quán và đổ dầu vào.
15 Gia-cốp gọi địa điểm này là Bê-tên (nghĩa là Nhà Thượng Đế).
16 Gia-cốp cùng gia đình rời Bê-tên ra đi. Khi gần đến Ép-ra-ta, Ra-chên chuyển bụng và đau đớn dữ dội.
17 Trong cơn quặn thắt, Ra-chên nghe người nữ hộ sinh khích lệ: "Bà đừng sợ, vì bà sắp sinh một con trai nữa."
18 Nhưng Ra-chên đã hấp hối, còn cố gắng đặt tên con là Bên-ô-ni (nghĩa là con trai tôi sinh trong sự đau đớn). Gia-cốp đổi tên con là Bên-gia-min (nghĩa là con trai tay hữu ta).
19 Ra-chên qua đời và được an táng tại Ép-ra-ta, cũng gọi là Bê-liêm (nghĩa là nhà bánh).
20 Gia-cốp dựng bia tại ngôi mộ Ra-chên, đến ngày nay vẫn còn.
21 Y-sơ-ra-ên tiếp tục cuộc hành trình, đi qua tháp Ê-đa, thì cắm trại để nghỉ chân.
22 Trong thời gian ở đó, Ru-bên vào ngủ với Bi-la, vợ hầu của cha mình. Có người báo cáo cho Gia-cốp.
Đây là tên mười hai con trai của Gia-cốp:
23 Các con của Lê-a: Ru-bên (trưởng nam), Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-luân;
24 Các con của Ra-chên: Giô-sép và Bên-gia-min;
25 Các con của Bi-la, cô hầu của Ra-chên: Đan và Nép-ta-li;
26 Các con của Xinh-ba, cô hầu của Lê-a: Gát và A-se.
Trừ Bên-gia-min, tất cả các con trai đều sinh tại xứ Pha-đan A-ram.
27 Rốt cuộc, Gia-cốp về đến nhà cha tại Mam-rê, thành phố Ki-ri-át ạc-ba (nay gọi là Hếp-rôn), cũng là nơi ngụ của Áp-ra-ham ngày trước.
28,29 Gặp lại con trai một thời gian ngắn, Y-sác qua đời, hưởng thọ một trăm tám mươi tuổi, được hai con trai là Ê-sau và Gia-cốp an táng.
1 Đây là dòng dõi của Ê-sau, tức Ê-đôm:
2,3 Ê-sau cưới ba vợ, đều là người Ca-na-an: A-đa (con gái của Ê-luân người Hết); Ô-hô-li-ba-ma (con gái của A-na, cháu của Xi-bê-ôn, người Hê-vi); và Bách-mát (con gái của Ích-ma-ên, em của Nê-ba-giốt).
4 A-đa sinh Ê-li-pha. Bách-mát sinh Ru-ên.
5 Ô-hô-li-ba-ma sinh Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra. Tất cả các con trai ấy đều sinh tại xứ Ca-na-an.
6-8 Ê-sau đưa vợ con, gia nhân, cùng đem các bầy súc vật và tất cả tài sản gây dựng tại xứ Ca-na-an qua núi Sê-i-rơ, cách xa gia đình Gia-cốp, vì cả hai anh em đều có quá nhiều tài sản không thể sống chung được nữa; và xứ họ đang cư ngụ cũng không cung ứng nỗi các nhu cầu của hai gia đình đông đúc ấy.
9 Hậu tự của Ê-sau, tức là người Ê-đôm, sinh tại núi Sê-i-rơ, gồm có:
10-12 Gia tộc Ê-li-pha, con trai của A-đa: Thê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tam, Kê-nát; người vợ hầu của Ê-li-pha sinh A-ma-léc.
13,14 Gia tộc Ru-ên, con trai của Bách-mát: Na-hát, Xê-ra, Sam-ma và Mích-xa.
15,16 Các cháu nội của Ê-sau trở thành chi tộc trưởng:
- chi tộc Thê-man
- chi tộc Ô-ma
- chi tộc Kê-na
- chi tộc Cô-ra
- chi tộc Ga-tam
- chi tộc A-ma-léc.
Các chi tộc ấy là hậu tự của Ê-li-pha, con trưởng nam của Ê-sau và A-đa.
17 Các chi tộc do Ru-ên, thứ nam của Ê-sau và Bách-mát, sinh ra trong xứ Ca-na-an:
- chi tộc Na-hát
- chi tộc Xê-ra
- chi tộc Sam-ma
- chi tộc Mích-xa.
18,19 Các chi tộc dòng thứ ba, do các con của Ê-sau và Ô-hô-li-ba-ma, con gái A-na:
- chi tộc Giê-úc
- chi tộc Gia-lam
- chi tộc Cô-ra.
20,21 Các sắc tộc bản xứ, là hậu tự của Sê-i-rơ, người Hô-rít:
- sắc tộc Lô-tân
- sắc tộc Sô-banh
- sắc tộc Xi-bê-ôn
- sắc tộc A-na
- sắc tộc Đi-sôn
- sắc tộc Ê-xe
- sắc tộc Đi-san.
22 Con của Lô-tân là Hô-ri và Hê-man; em gái của Lô-tân là Thim-na.
23 Con của Sô-banh là Anh-van, Ma-na-hát, Ê-ban, Sê-phô và Ô-nam.
24 Con của Xi-bê-ôn là Ai-gia và A-na. (Cậu này đã tìm thấy các suối nước nóng giữa sa mạc trong lúc chăn lừa cho cha mình)
25 Con của A-na là Đi-sôn và Ô-hô-li-ba-ma.
26 Con của Đi-sôn là Hem-đan, Ếch-ban, Ích-ran và Chê-ran.
27 Con của Ê-xe là Binh-han, Xa-van và A-can.
28-30 Con của Đi-san là U-xơ và A-ran.
31-39 Đây là tên các vua đã cai trị xứ Ê-đôm, trước thời vương quốc Y-sơ-ra-ên được thành lập:
Bê-la con Phê-ô, đặt ngai vua tại thủ đô Đinh-hà-ba;
Giô-báp con Xê-ra ở Bốt-ra; Hu-sam, ở xứ Thê-man; Ha-đát con Bê-đa, chỉ huy quân đội đánh bại địch quân đang xâm lăng xứ Mô-áp và dời đô về A-víp; Sâm-la, ở xứ Ma-rê-ca; Sâu-la, ở xứ Rê-hô-bốt, gần Sông Cái;
Ba-anh Ha-nan con Ách-bô Ha-đát, ở thành Phô, hoàng hậu là Mê-hê Ta-bên, con Mát-rê, cháu Mê-sa-háp.
40-43 Đây là tên các chi tộc của Ê-sau và xứ họ ở, được gọi theo tên từng chi tộc:
- chi tộc Thim-na
- chi tộc Anh-va
- chi tộc Giê-hết
- chi tộc Ô-hô-li Ba-ma
- chi tộc Ê-la
- chi tộc Phi-nôn
- chi tộc Kê-na
- chi tộc Thê-man
- chi tộc Míp-xa
- chi tộc Mạc-đi
- chi tộc I-ram.
Tất cả các chi tộc ấy đều là dòng dõi của Ê-sau.
1 Gia-cốp định cư tại xứ Ca-na-an, nơi cha mình đã cư ngụ.
2 Giô-sép, con Gia-cốp, đã mười bảy, thường đi chăn chiên cho cha với các anh, là con của Bi-la và Xinh-ba. Giô-sép thường mách cho cha biết các việc xấu họ làm.
3 Giô-sép là con cưng số một của Gia-cốp, vì sinh ra lúc Gia-cốp đã cao tuổi. Một hôm, Gia-cốp cho Giô-sép món quà đặc biệt: một cái áo choàng nhiều màu sặc sỡ.
4 Các anh Giô-sép ganh tị vì thấy cha thiên vị, nên họ không còn dịu ngọt với Giô-sép nữa.
5 Một đêm, Giô-sép nằm mộng, sáng dậy liền thuật cho các anh nghe, nên càng bị họ ganh ghét:
6 "Xin các anh nghe đây!
7 Tối qua, tôi nằm mộng thấy anh em chúng ta đang bó lúa ngoài đồng. Bó lúa của tôi đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh đều xúm quanh, cúi mọp xuống trước bó lúa tôi."
8 Các anh mỉa mai: "Thế là mày muốn làm vua chúng tao sao?" Họ càng ganh ghét thêm vì câu chuyện chiêm bao và vì lời nói thiếu dè dặt của Giô-sép.
9 Giô-sép lại nằm mộng và thuật cho các anh: "Các anh hãy nghe chiêm bao sốt dẻo của tôi đây: Tôi thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đều cúi mọp trước mặt tôi."
10 Nhưng lần này, cha quở trách Giô-sép: "Mộng mị gì quái gở thế! Không lẽ cha mẹ, anh em đều phải cúi rạp trước mặt mày sao?"
11 Các anh càng căm tức; nhưng cha lại lưu ý tìm hiểu ý nghĩa giấc mộng ấy.
12 Một hôm, các anh Giô-sép dắt các bầy vật đến đồng cỏ Si-chem.
13,14 Y-sơ-ra-ên bảo Giô-sép: "Các anh con đang chăn bầy tại Si-chem phải không? Con đi thăm xem chúng nó mạnh giỏi thế nào, bầy vật ra sao, rồi về cho cha biết."
Giô-sép thưa: "Vâng ạ, con đi ngay." Từ Hếp-rôn, Giô-sép lên đường qua Si-chem,
15 nhưng đi lạc vào một khu đồng không mông quạnh. Một người bắt gặp, hỏi Giô-sép: "Cậu đi tìm ai?"
16 Giô-sép đáp: "Tôi đi tìm các anh tôi. Xin ông cho biết họ chăn bầy tại đâu."
17 Người ấy nói: "Họ đi nơi khác rồi. Tôi nghe họ rủ nhau đi Đô-than." Giô-sép tìm đến Đô-than để gặp các anh. 18-20 Thấy Giô-sép còn ở đàng xa, các anh âm mưu giết nó. Họ bàn tính với nhau: "Kìa, thằng chuyên nằm mộng sắp đến đây. Ta hãy giết nó đi, vứt xác dưới đáy giếng, rồi báo cáo cho cha rằng nó bị cọp ăn, để xem các giấc mộng của nó có thành không."
21,22 Nhưng Ru-bên muốn cứu Giô-sép, liền bàn ra: "Đừng giết nó! Đổ huyết nó ra làm chi? Chỉ quăng nó vào giếng cạn là nó chết queo rồi." Thật ra, Ru-bên lập mưu cứu em, để đưa nó về với cha an toàn. 23 Giô-sép vừa đến nơi, các anh xúm nhau lột chiếc áo choàng sặc sỡ, 24 và quăng Giô-sép vào một cái giếng cạn, không có một giọt nước.
25 Các anh của Giô-sép đang ngồi ăn, chợt thấy một đoàn lái buôn Á-rập,a cỡi lạc đà chở nhũ hương, dầu thơm và nhựa thơm từ xứ Ga-la-át thẳng tiến xuống Ai Cập. 26,27 Giu-đa đề nghị: "Đem bán quách nó đi cho bọn lái buôn Á-rập là lợi nhất. Chứ giết nó, rồi tìm cách phi tang khéo đến mấy cũng chẳng ích gì. Anh em đừng giết nó, vì nó là đứa em ruột thịt." Họ đều chấp thuận đề nghị ấy. 28 Khi các lái buôn Á-rập đến nơi, họ kéo Giô-sép lên khỏi giếng, và bán em cho người Á-rập được hai mươi lạng bạc. Giô-sép bị đem xuống Ai Cập.
29 Ru-bên không hay biết vụ bán em, nên quay lại giếng cạn tìm Giô-sép. 30 Không thấy em đâu cả, Ru-bên thất vọng, xé áo, chạy đến bảo các em: "Đứa bé mất tích rồi. Biết làm sao bây giờ." 31 Các anh em chọc huyết một con dê, nhúng áo choàng của Giô-sép vào huyết, 32 và gửi áo về cho cha với lời nhắn: "Chúng con tìm được chiếc áo này. Xin cha xem có phải áo của Giô-sép không?" 33 Gia-cốp nhận ra áo của con nên than rằng: "Đúng là áo của con ta. Một con thú dữ đã xé xác và ăn thịt nó rồi." 34 Gia-cốp xé áo xống, mặc bao gai, và để tang cho con mình một thời gian dài. 35 Các con trai, con gái cố gắng an ủi cha, nhưng ông gạt đi: "Không! Cha cứ khóc nó cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt." Gia-cốp thương tiếc con đứt ruột. 36 Trong khi đó, bọn lái buôn Á-rập xuống Ai Cập, bán Giô-sép cho Phô-ti-pha, viên quan chỉ huy đoàn thị vệ của vua Ai Cập.
1 Giu-đa lìa gia đình, xuống A-đu-lam, trọ tại nhà Hy-ra.
2 Phải lòng một thiếu nữ Ca-na-an, con gái của Su-a, Giu-đa lo ngay việc cưới xin.
3-5 Hai vợ chồng sinh được ba con trai: Hê-rơ, Hồ-nan và Sê-la. Giu-đa chỉ đặt tên cho con trưởng nam, và để vợ đặt tên cho hai đứa con kia.
6 Khi Hê-rơ đến tuổi trưởng thành, Giu-đa thu xếp cho con cưới cô Ta-ma.
7 Nhưng Hê-rơ là người gian ác, nên bị Chúa phạt phải chết sớm.
8 Giu-đa bảo Hồ-nan: "Con phải cưới Ta-ma và sinh con nối dõi cho anh, đúng theo luật định."
9 Nhưng Hồ-nan biết rằng con sinh ra cũng không thuộc về mình, nên cứ để xuất tinh ra ngoài, cho Ta-ma đừng thụ thai.
10 Hành động ấy không đẹp lòng Chúa, nên Hồ-nan cũng phải chết sớm.
11 Giu-đa bảo Ta-ma: "Con cứ về quê mẹ thủ tiết đợi chờ một thời gian, cho đến khi Sê-la khôn lớn" (vì ông sợ không khéo Sê-la cũng chết luôn như hai anh). Ta-ma vâng lời về nhà cha mẹ.
12 Sau một thời gian, vợ Giu-đa qua đời. Qua kỳ tang chế, Giu-đa rủ Hy-ra đi Thim-na, thăm các nhân công chuyên hớt lông cừu của mình.
13 Được tin ông gia sắp đến Thim-na để hớt lông cừu,
14 Ta-ma liền bỏ áo quả phụ, hóa trang, mang mạng che mặt, đến ngồi bên cổng thành Ê-nam trên đường đi Thim-na. Ta-ma hy vọng được ông gia cho mình kết tóc xe tơ với Sê-la vì chàng đã khôn lớn rồi.
15 Giu-đa đến nơi, thấy Ta-ma che mặt, không biết là dâu mình, tưởng lầm là gái mãi dâm,
16 liền đến gạ gẫm. Ta-ma hỏi: "Ông cho tôi bao nhiêu?"
17 Giu-đa đáp: "Một con dê con." Ta-ma đề nghị: "Ông phải đặt cọc một cái gì trước khi gửi dê con đến cho tôi chứ."
18 "Nàng muốn ta đặt cọc gì đây?" - "Chiếc nhẫn, sợi giây chuyền và cây gậy trên tay ông đó là được rồi." Giu-đa đồng ý; do đó, Ta-ma thụ thai.
19 Nàng đứng dậy về nhà, cởi bỏ hóa trang, và mặc lại chiếc áo quả phụ.
20 Giu-đa nhờ Hy-ra đem dê con đến Ê-nam để thu lại các vật đặt cọc, nhưng Hy-ra tìm mãi không thấy người đàn bà ấy.
21 Hy-ra hỏi nhân dân Ê-nam: "Cô gái mãi dâm thường ngồi bên lề đường tại Ê-nam đi đâu rồi?" Họ đáp: "Ởã đây làm gì có gái mãi dâm."
22 Hy-ra quay về, báo cáo cho Giu-đa: "Tôi tìm nó không được, hỏi dân thì họ quả quyết rằng trong thành phố không có gái mãi dâm."
23 Giu-đa đáp: "Thôi, cứ để nó giữ các thứ ấy cũng được, đừng để người ta bêu diếu chúng ta. Tôi đã đúng hẹn gửi dê con cho nó, mà anh tìm nó không được thì đành chịu vậy."
24 Ba tháng sau, có người đến báo cáo cho Giu-đa: "Ta-ma con dâu ông làm đĩ nên chửa hoang rồi." Giu-đa nổi giận quát: "Đem nó ra thiêu sống đi!"
25 Ta-ma bị bắt đem ra dàn hỏa thiêu, liền nhờ người đem các vật đặt cọc trình cho Giu-đa: "Xin cha xét lại, xem các vật này của ai đây. Con thụ thai do người đó."
26 Giu-đa giật mình nhìn nhận: "Ta-ma phải lẽ hơn ta rồi. Chỉ vì ta không chịu cho Sê-la kết tóc xe tơ với nó như luật định..." Từ đó, Giu-đa kiêng nể Ta-ma.
27 Đến ngày lâm bồn, Ta-ma sinh đôi.
28 Một đứa sắp lọt lòng mẹ, cô hộ sinh cột sợi chỉ đỏ vào tay nó,
29 nhưng nó rút tay vào. Thấy đứa kia ra trước, cô hộ sinh ngạc nhiên: "Gớm! Mày ở đâu mà xông ra đây." Vì thế, người ta đặt tên nó là Phê-rết (có nghĩa là xông ra).
30 Em nó lọt lòng sau, tay vẫn còn sợi chỉ đỏ, được đặt tên là Xê-ra.
1 Xuống đến Ai Cập, Giô-sép bị các lái buôn Á-rập bán cho Phô-ti-pha, viên quan chỉ huy đoàn thị vệ của vua Ai Cập.
2 Chúa ở với Giô-sép, phù hộ chàng trong mọi công việc tại nhà chủ, nên chàng làm gì cũng thành công tốt đẹp.
3,4 Phô-ti-pha phải nhìn nhận Thượng Đế phù hộ Giô-sép cách đặc biệt, nên ông nể vì, trọng dụng chàng, và cử chàng làm quản gia coi sóc mọi việc trong nhà.
5 Từ ngày đó, Chúa ban phúc lành cho gia đình, súc vật và tài sản của Phô-ti-pha,
6 nên ông giao trọn mọi việc cho Giô-sép, không cần bận tâm đến việc nhà nữa, chỉ còn chọn thực đơn cho thích khẩu mà thôi.
Giô-sép là một thanh niên rất đẹp trai.
7 Bà chủ mê chàng, và một hôm, quyến rũ chàng trao ân đổi ái.
8 Nhưng Giô-sép cự tuyệt: "Thưa bà, ông chủ đã ủy quyền cho tôi quản lý mọi người mọi vật trong nhà,
9 và bằng lòng giao hết cho tôi, chỉ trừ một mình bà, vì là vợ của chủ. Tôi đâu dám phạm tội ác này, làm buồn lòng Đấng Tạo Hóa."
10 Ngày này qua ngày khác, bà chủ cứ liên tiếp quyến rũ; nhưng Giô-sép một mực chối từ.
11 Một hôm, thấy Giô-sép làm việc trong nhà, nhìn quanh quất chẳng có ai,
12 bà chủ nắm áo kéo chàng lại, định giở trò dâm dục. Nhưng Giô-sép giật áo lại không được, đành bỏ luôn chiếc áo, chạy trốn ra khỏi nhà. 13-15 Còn lại một mình, bẽ mặt, bà chủ nham hiểm lại hô hoán lên để vu vạ: "Bọn gia nhân đâu? Ra xem! Tên nô lệ người Hi-bá dám lẻn vào phòng tao định hãm hiếp. Tao tri hô lên, nên nó khiếp sợ chạy trốn, bỏ cả áo lại đây này."
16 Giữ chiếc áo làm tang vật, bà chủ đợi chồng về, trơ trẽn vu cáo: 17 "Tên nô lệ người Hi-bá mình mua về đó thật là phản trắc. Nó định hãm hiếp em. 18 Em kêu cứu ầm ĩ, nó mới khiếp sợ, chạy trốn, bỏ lại cả áo xống."
19,20 Phô-ti-pha giận tím mặt, ra lệnh tống giam Giô-sép, và xiềng lại trong ngục tối của hoàng triều. 21 Nhưng Chúa vẫn ở với Giô-sép trong ngục tối, làm cho chàng được giám ngục quý mến. 22 Chẳng bao lâu, giám ngục ủy quyền cho Giô-sép quản lý cả lao xá, coi sóc tất cả các phạm nhân. 23 Từ ngày ấy, giám ngục khỏi bận tâm, vì Giô-sép quản trị mọi việc cách tốt đẹp hoàn hảo; Chúa cho bất cứ việc gì Giô-sép bắt tay vào cũng đều thành công mỹ mãn.
1 Sau đó, trong hoàng cung Ai Cập, viên chước tửu và viên hỏa đầu phạm tội khi quân.
2,3 Vua tức giận, tống giam hai viên chức vào ngục, thuộc dinh chỉ huy trưởng ngự lâm, nơi Giô-sép đang bị tù.
4 Viên quan chỉ huy đoàn ngự lâm cắt Giô-sép phục dịch hai viên chức, và họ bị giam tại đó lâu ngày.
5 Một đêm, hai viên chức trong lao nằm mơ, giấc mơ mỗi người một khác.
6 Sáng hôm sau Giô-sép gặp họ, thấy nét mặt rầu rĩ,
7 nên hỏi: "Hôm nay sao hai ông buồn bã thế?"
8 Họ đáp: "Chúng tôi thấy chiêm bao rất lạ, nhưng chẳng có ai giải nghĩa cho chúng tôi cả." Giô-sép nói: "Giải mộng là việc của Thượng Đế. Xin hai ông cứ kể cho tôi nghe."
9 Viên chước tửu kể lại giấc mơ cho Giô-sép: "Trong mơ, tôi thấy một cây nho.
10 Cây nho có ba nhánh, bắt đầu nứt lộc trổ hoa, rồi hoa biến thành từng chùm quả chín.
11 Đang cầm cái chén của vua trong tay, tôi liền hái nho ép nước vào, dâng lên vua."
12 Giô-sép giải thích: "Đây là ý nghĩa: Ba nhánh là ba ngày.
13 Ba ngày nữa, vua sẽ tha ông ra khỏi ngục. Ông được phục chức, và sẽ dâng rượu cho vua như trước.
14 Khi sung sướng, xin ông đừng quên tôi, ông làm ơn tâu với vua xin đem tôi ra khỏi ngục.
15 Vì thật ra, tôi bị người ta bắt từ quê hương bán qua đây. Ai Cập tôi cũng chẳng phạm tội gì mà bị tù."
16 Viên hỏa đầu nghe lời giải tốt, liền thuật cho Giô-sép: "Còn tôi, trong giấc mơ, thấy ba giỏ bánh trắng đội trên đầu,
17 giỏ trên cùng đựng đủ thứ bánh của vua, nhưng có chim trời đáp xuống rỉa ăn."
18 Giô-sép đáp: "Đây là lời giải: Ba giỏ là ba ngày.
19 Ba ngày nữa, ông sẽ bị vua xử tử, treo xác lên cây, và bị chim ăn thịt."
20 Ba ngày sau, nhằm sinh nhật vua, hoàng gia thết tiệc đãi quần thần. Giữa tiệc, vua sai đem viên chước tửu và viên hỏa đầu ra khỏi ngục.
21 Vua phục chức cho viên chước tửu, để tiếp tục dâng rượu cho vua như trước.
22 Còn viên hỏa đầu thì bị vua treo cổ lên cây, như lời Giô-sép giải mộng.
23 Viên chước tửu quên bẵng Giô-sép, không nhớ chuyện trong tù nữa.
1 Hai năm sau, vua Ai Cập nằm mơ, thấy mình đang đứng bên bờ sông Ninh.
2 Từ dưới sông, bảy con bò béo tốt đẹp đẽ lên bờ ăn cỏ.
3 Tiếp đó, bảy con bò khác, gầy guộc xấu xí, từ sông đi lên, đứng cạnh bảy con kia bên bờ sông.
4 Bảy con bò gầy gò xấu xí ăn thịt bảy con bò béo tốt đẹp đẽ. Rồi vua thức giấc.
5 Vua ngủ lại, mơ lần thứ hai. Này, bảy gié lúa rắn chắc mọc lên từ một cây lúa.
6 Rồi mọc tiếp bảy gié lúa lép, bị gió đông thổi héo khô.
7 Bảy gié lúa lép khô nuốt trửng bảy gié lúa rắn chắc. Vua thức giấc, biết mình nằm mơ.
8 Sáng hôm sau, tinh thần xao động, vua sai mời tất cả các pháp sư và học giả Ai Cập vào hoàng cung, thuật lại giấc mơ; nhưng chẳng ai giải nghĩa được.
9 Viên chước tửu tâu vua: "Hôm nay mới nhớ ra; tôi thật có lỗi.
10 Trước đây, lúc bệ hạ giận quần thần, tống giam tôi và viên hỏa đầu vào trong dinh chỉ huy trưởng ngự lâm quân.
11 Một đêm kia, chúng tôi đều nằm mơ, giấc mơ mỗi người một khác.
12 Có một thanh niên Hi-bá bị giam chung với chúng tôi, là nô lệ của chỉ huy trưởng ngự lâm quân. Khi nghe thuật chiêm bao, anh ấy giải thích ý nghĩa theo giấc mơ mỗi người.
13 Quả nhiên, việc xảy ra đúng như lời anh ấy nói. Bệ hạ phục chức cho tôi, và treo cổ viên hỏa đầu."
14 Vua sai người gọi Giô-sép. Họ vội vã đem ông ra khỏi ngục. Sau khi cạo râu, thay áo, ông vào chầu vua.
15 Vua nói: "Ta thấy chiêm bao, nhưng chẳng ai giải nghĩa được. Nghe nói ngươi có tài đoán mộng, nên ta cho gọi đến đây."
16 Giô-sép đáp: "Không phải tôi có tài, nhưng Thượng Đế sẽ giải đáp thắc mắc cho bệ hạ."
17 Vua liền kể: "Ta mơ thấy mình đứng bên bờ sông Ninh.
18 Này, dưới sông bảy con bò béo tốt đẹp đẽ lên bờ ăn cỏ.
19 Lại có bảy con bò khác hết sức xấu xí gầy guộc lên theo bảy con trước. Ta chưa hề thấy trong xứ Ai Cập con bò nào xấu xí như thế.
20 Bảy con bò gầy guộc xấu xí liền ăn thịt bảy con béo tốt.
21 Ăn vào bụng rồi mà cũng như không vì vẫn gầy ốm như trước. Rồi ta thức giấc.
22 Sau đó, ta mơ thấy bảy gié lúa rắn chắc, mọc lên từ một cây lúa.
23 Rồi mọc tiếp bảy gié lúa lép xấu, bị gió đông thổi héo.
24 Các gié lúa lép nuốt trửng các gié lúa tốt. Ta đã kể cho các pháp sư nghe, nhưng chẳng ai giải được ý nghĩa."
25 Giô-sép tâu: "Hai giấc mộng của bệ hạ có cùng một ý nghĩa. Thượng Đế cho bệ hạ biết những việc Ngài sắp thực hiện:
26 Bảy con bò béo tốt - cũng như bảy gié lúa rắn chắc - là bảy năm thịnh vượng được mùa.
27 Bảy con bò gầy gò lên sau - cũng như bảy gié lúa lép bị gió đông thổi héo - là bảy năm đói kém.
28 Như tôi đã tâu, Thượng Đế cho bệ hạ biết những việc Ngài sắp làm.
29 "Khắp xứ Ai Cập sẽ thịnh vượng dư dật suốt bảy năm.
30 Sau đó là bảy năm đói kém, mọi cảnh phồn thịnh trước kia đều rơi vào quên lãng. Nạn đói sẽ làm cả xứ kiệt quệ.
31 Vì tai họa quá khủng khiếp, chẳng ai còn nhớ thời kỳ vàng son thịnh vượng nữa.
32 Bệ hạ thấy chiêm bao hai lần, vì ý Thượng Đế đã quyết, Ngài sẽ sớm thực hiện việc này.
33 "Bây giờ, bệ hạ nên chọn một người khôn ngoan sáng suốt làm Tể Tướng đất nước Ai Cập.
34 Bệ hạ cũng nên bổ nhiệm các viên chức trên khắp nước, để thu thập một phần năm hoa lợi trong bảy năm được mùa.
35 Lúa thu góp sẽ tồn trữ trong kho vua tại các thành phố,
36 dùng làm lương thực cho nhân dân trong bảy năm đói kém. Có thế, nước Ai Cập mới khỏi bị nạn đói tiêu diệt."
37 Vua và quần thần hài lòng về lời giải của Giô-sép.
38 Vua bảo họ: "Còn ai hơn Giô-sép, là người có Thần Linh của Thượng Đế?"
39 Vua quay lại Giô-sép: "Thượng Đế đã dạy cho ngươi biết mọi việc này, còn ai khôn ngoan sáng suốt hơn ngươi nữa?
40 Ngươi sẽ lãnh đạo cả nước, toàn dân sẽ vâng theo mệnh lệnh ngươi. Chỉ một mình ta lớn hơn ngươi mà thôi."
41,42 Vua tháo nhẫn của mình đeo vào tay Giô-sép, cho mặc cẩm bào và đeo dây chuyền vàng lên cổ, rồi bảo: "Này! Ta lập ngươi làm Tể Tướng nước Ai Cập."
43 Vua cho ông ngồi xe thứ hai của vua, phía trước có người hô lớn: "Hãy quỳ xuống." Như thế, vua tấn phong Giô-sép làm Tể Tướng Ai Cập.
44 Vua bảo Giô-sép: "Ta làm vua, nhưng ngươi có toàn quyền điều hành mọi việc trong nước."
45 Vua đặt tên cho Giô-sép là "Người Cứu Mạng," và gả A-sê-na (con gái của Phô-ti-phê, thầy trưởng tế thành Ôn) cho ông. Vậy, Giô-sép nổi tiếng khắp nước Ai Cập.
46 Giô-sép được ba mươi tuổi khi nhậm chức. Từ cung vua, ông ra đi kinh lý khắp nước.
47 Trong bảy năm được mùa, lúa gạo sản xuất đầy dẫy mọi nơi.
48 Giô-sép thu góp lương thực ngoài các đồng ruộng, chở về các thành phố trung tâm vùng đó. Lúa gạo vùng nào đều trữ ở thành phố vùng đó.
49 Giô-sép thu lúa nhiều như cát trên bờ biển, nhiều đến nỗi không thể cân lường được.
50 Trước những năm đói kém, A-sê-na (con gái Phô-ti-phê thầy trưởng tế thành Ôn, vợ Giô-sép) sinh hai con trai.
51 Ông đặt tên con đầu lòng là Ma-na-se (ngụ ý: Thượng Đế cho ta quên mọi nỗi gian khổ tha hương).
52 Con thứ hai tên là Ép-ra-im (ngụ ý: Thượng Đế cho ta thịnh đạt trong nơi khốn khổ).
53 Sau bảy năm được mùa tại Ai Cập,
54 đến bảy năm đói kém, đúng như lời Giô-sép tiên đoán. Mọi quốc gia chung quanh đều đói; chỉ riêng Ai Cập vẫn còn lương thực.
55 Khi nhân dân Ai Cập bị đói, họ kéo đến hoàng cung xin vua cấp gạo. Vua bảo: "Cứ hỏi Giô-sép và làm mọi điều Giô-sép chỉ dạy."
56 Khi nạn đói lan rộng khắp nước, Giô-sép mở kho bán lúa cho dân, vì nạn đói thật trầm trọng.
57 Khi các nước bị đói lớn, tất cả các dân tộc đều đến Ai Cập mua lúa từ Giô-sép.
1 Nghe nước Ai Cập có lúa, Gia-cốp bảo các con trai: "Sao các con cứ ngồi đó, nhịn đói mà nhìn nhau?
2 Này, cha nghe bên Ai Cập có bán lúa, các con qua đó mua, để chúng ta khỏi chết."
3 Mười người anh Giô-sép lên đường qua Ai Cập mua lúa.
4 Gia-cốp không cho Bên-gia-min, em Giô-sép, đi theo các anh, vì sợ bị nguy hiểm.
5 Vậy, các con trai Y-sơ-ra-ên đến Ai Cập mua lúa cùng với bao nhiêu người khác, vì xứ Ca-na-an cũng bị đói lớn.
6 Lúc ấy, Giô-sép làm Tể Tướng nước Ai Cập, kiêm việc bán lúa cho nhân dân. Các anh Giô-sép đến quỳ gối, sấp mình xuống đất trước mặt ông.
7 Thấy họ, Giô-sép nhận ra ngay, nhưng giả vờ không biết, gay gắt hỏi: "Mấy anh ở đâu tới?" Họ đáp: "Chúng tôi từ Ca-na-an đến mua lúa."
8 Dù Giô-sép biết họ, họ vẫn không nhận ra ông.
9 Nhớ lại giấc mơ về các anh ngày trước, ông quát: "Các anh làm gián điệp, đến đây trinh thám đất nước ta."
10 Họ phân trần: "Thưa ngài, các tôi tớ ngài đây chỉ đến mua lương thực.
11 Chúng tôi đều là anh em ruột, thuộc gia đình lương thiện, không phải là gián điệp."
12 Giô-sép quả quyết: "Không, các anh chỉ đến đây do thám để biết rõ nhược điểm của đất nước này."
13 Họ lại thưa: "Các tôi tớ ngài đây gồm mười hai người, anh em cùng cha, quê tại Ca-na-an. Hiện người út ở nhà với cha; còn một người mất tích."
14 Nhưng Giô-sép đáp: "Như ta đã nói, các anh làm gián điệp.
15 Đây là cách ta thử các anh. Ta thề trên mạng sống của vua, các anh chẳng được rời khỏi Ai Cập nếu em út các anh không đến đây.
16 Một người trong các anh trở về đem em út đến, còn tất cả sẽ bị giam vào ngục. Ta sẽ kiểm chứng lời khai các anh. Nếu nói dối, chắc hẳn các anh làm gián điệp."
17 Rồi Giô-sép giam họ trong ngục ba ngày.
18 Ngày thứ ba, Giô-sép bảo họ: "Ta kính sợ Thượng Đế, nên sẽ đối xử khoan hồng với các anh.
19 Nếu các anh lương thiện, ta chỉ giam giữ một người, còn tất cả được về nhà, mang theo lương thực nuôi gia đình.
20 Sau đó, các anh phải trở lại đây với người em út để xác nhận lời khai các anh. Nếu các anh nói thật, sẽ được trả tự do." Họ vâng lệnh Giô-sép.
21 Các anh em bảo nhau: "Chúng ta mắc họa vì có tội với em chúng ta. Lúc nó đau khổ tuyệt vọng van xin, chúng ta đã chẳng thương xót."
22 Ru-bên trách: "Anh đã bảo đừng hại đứa trẻ mà các em không nghe. Bây giờ chúng ta phải trả nợ máu."
23 Họ không ngờ Giô-sép nghe và hiểu, vì lúc nói chuyện ông vẫn dùng người thông dịch.
24 Giô-sép bước ra ngoài khóc, rồi quay lại, sai người trói Si-mê-ôn trước mặt họ.
25 Ông ra lệnh đầy tớ đổ lúa vào bao các anh, để tiền lại trong mỗi bao, cũng cấp thêm lương thực đi đường.
26 Các anh em chất lúa trên lưng lừa, và lên đường.
27 Đến quán trọ, một người mở bao lúa cho lừa ăn, thấy tiền mình trong miệng bao,
28 liền gọi các anh em: "Này, tiền của tôi sao người ta để lại trong bao?" Họ kinh sợ, run rẩy bảo nhau: "Thượng Đế làm gì cho chúng ta đây?"
29 Họ về nhà Gia-cốp cha mình, tại xứ Ca-na-an, tường trình mọi việc:
30 "Tể Tướng nước Ai Cập nói rất gay gắt, tình nghi chúng con làm gián điệp.
31 Chúng con thưa: 'Chúng tôi là người lương thiện, không phải gián điệp.
32 Chúng tôi mười hai người, anh em cùng cha, một người mất tích, người út ở nhà với cha, tại xứ Ca-na-an.'
33 Tể Tướng bảo chúng con: 'Đây là cách ta xét lời khai các anh. Hãy để một người ở đây làm con tin, và đem lương thực về nuôi gia đình.
34 Rồi đưa em út đến để chứng tỏ các anh lương thiện, không làm gián điệp. Ta sẽ thả người kia, và các anh được tự do đến xứ này mua lúa.' "
35 Khi các anh em mở bao đổ lúa ra, thấy tiền mỗi người vẫn còn trong bao, cả nhà đều sợ hãi.
36 Gia-cốp than trách: "Chúng mày làm mất con tao; - là Giô-sép và Si-mê-ôn - bây giờ muốn đem Bên-gia-min đi nữa. Sao tao khổ quá thế này!"
37 Ru-bên thưa: "Nếu con không đem em về, xin cha cứ giết hai đứa con của con. Cha giao em cho con, con xin chịu trách nhiệm."
38 Nhưng Gia-cốp đáp: "Con tao sẽ không đi với chúng mày đâu. Anh nó chết, tao chỉ còn một mình nó, nếu nó bị nguy hiểm dọc đường, lão già này sẽ sầu khổ mà chết."
1 Nạn đói càng thêm trầm trọng.
2 Khi gia đình ăn hết lương thực đem từ Ai Cập về, Gia-cốp bảo các con: "Hãy đi một chuyến nữa, mua ít lương thực về dùng."
3 Giu-đa thưa: "Tể Tướng nghiêm khắc bảo chúng con: Nếu không đem đứa út theo, đừng trở lại gặp mặt ta nữa.
4 Cha bằng lòng cho em đi, chúng con mới mua lương thực được.
5 Nếu không, chúng con không đi, vì Tể Tướng nói quả quyết lắm."
6 Y-sơ-ra-ên trách: "Sao chúng mày hại tao mà mách với ông ấy chúng mày còn một đứa em nữa."
7 Họ đáp: "Ông ấy hỏi chúng con rất kỹ về gia đình: 'Cha các anh còn sống không? Còn người em nào nữa không?' Chúng con cứ theo đó trả lời. Làm sao biết trước ông ấy bảo phải đem em xuống?"
8 Giu-đa thưa với Y-sơ-ra-ên: "Xin cha giao em cho con, thì chúng con xin lên đường để tất cả chúng ta - cha, chúng con và các cháu nhỏ - khỏi chết đói.
9 Con xin bảo lãnh em, và chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nếu không đem em về cho cha, con sẽ mang tội với cha suốt đời.
10 Nếu không trì hoãn, chúng con đã đi được hai chuyến rồi."
11 Y-sơ-ra-ên nói: "Đã thế, các con phải chọn sản phẩm trong xứ làm lễ vật dâng cho ông ấy: nhựa thơm, mật ong, hương liệu, hạt đào, hạnh nhân.
12 Cũng đem theo hai phần tiền để trả lại tiền trong miệng bao, vì có lẽ họ nhầm lẫn.
13 Các con hãy đem em xuống đó.
14 Cầu Thượng Đế Toàn Năng cho các con được ông ấy thương xót, để tha cho Si-mê-ôn và Bên-gia-min về với các con. Còn cha nếu phải mất con, cũng đành chịu chứ biết sao."
15 Các anh em đem lễ vật, hai phần tiền và dẫn Bên-gia-min xuống Ai Cập, ra mắt Giô-sép.
16 Thấy Bên-gia-min đi với các anh, Giô-sép bảo quản gia: Anh đưa mấy người này vào nhà, chuẩn bị dọn tiệc, vì trưa nay họ sẽ ăn với ta."
17 Quản gia vâng lệnh, dẫn các anh em vào tư dinh Giô-sép.
18 Các anh em sợ hãi, bảo nhau: "Vì số tiền để lại trong bao, mà họ dẫn bọn ta vào đây, để bắt làm nô lệ và cướp lừa của bọn ta."
19 Các anh em bước đến gần cửa, trình với quản gia:
20 "Thưa ông, kỳ trước chúng tôi đến mua lương thực,
21 khi về quán trọ mở bao ra, chúng tôi thấy tiền mỗi người còn nguyên trong miệng bao. Hiện chúng tôi có đem tiền ấy theo đây,
22 cùng với tiền mua lương thực kỳ này. Ai đã bỏ tiền vào bao, chúng tôi chẳng biết."
23 Quản gia đáp: "Các anh cứ an tâm, đừng sợ. Thượng Đế của các anh và cha của các anh đã cho các anh tiền đó. Còn tiền mua lúa, chúng tôi đã nhận đủ." Rồi quản gia thả Si-mê-ôn,
24 dẫn tất cả các anh em vào dinh, đem nước rửa chân, và cho lừa ăn.
25 Các anh em soạn lễ vật dâng Giô-sép trưa hôm ấy, vì họ được mời ăn tiệc tại dinh.
26 Khi Giô-sép về, các anh em đem lễ vật đến dâng, và quỳ gối sấp mình trước mặt ông.
27 Ông chào thăm họ, và hỏi: "Thân phụ các anh còn sống không? Mạnh khỏe không?"
28 Họ đáp: "Tôi tớ ông là thân phụ chúng tôi vẫn còn sống mạnh khỏe." Rồi họ sấp mình tỏ lòng tôn kính.
29 Giô-sép nhìn thấy Bên-gia-min, em ruột mình, liền hỏi: "Đây có phải em út mà các anh đã hứa đem đến không?" Và tiếp: "Cầu xin Thượng Đế ban phúc cho em."
30 Nhìn thấy em, Giô-sép vô cùng xúc động, vội đi vào phòng riêng mà khóc.
31 Rồi ông rửa mặt, bước ra, cố giữ vẻ điềm tĩnh nói: "Dọn thức ăn đi."
32 Người nhà dọn cho Giô-sép ăn riêng, các anh em ngồi bàn khác, và người Ai Cập dự tiệc cũng ngồi riêng, vì người Ai Cập ghê tởm người Hi-bá, không bao giờ ăn chung.
33 Giô-sép xếp các anh em ngồi theo thứ tự, từ anh cả đến em út, khiến họ kinh ngạc nhìn nhau.
34 Thức ăn từ bàn Giô-sép đưa qua bàn các anh em, phần của Bên-gia-min nhiều gấp năm lần của các anh. Ai nấy đều ăn uống vui vẻ với Giô-sép.
1 Giô-sép ra lệnh cho quản gia: "Hãy đổ thật nhiều lúa cho họ. Sức chở được bao nhiêu, cứ đổ đầy bấy nhiêu. Còn tiền mua lúa cứ trả lại vào bao mỗi người.
2 Cũng để chén bạc của ta vào miệng bao người út, chung với tiền mua lúa." Quản gia vâng lệnh.
3 Sáng sớm hôm sau, các anh em và đoàn lừa lên đường.
4 Khi họ ra khỏi thành chưa xa, Giô-sép bảo quản gia: "Hãy đuổi theo những người đó, chận lại hỏi: 'Tại sao các anh lấy oán trả ân như thế?
5 Sao nhẫn tâm đánh cắp cái chén bạc của chủ ta dùng uống rượu và bói toán? Các anh đã làm một điều ác đó!' "
6 Quản gia đuổi kịp, nói với họ những lời của Giô-sép.
7 Họ ngạc nhiên: "Tại sao ông nói thế? Chúng tôi không phải hạng người xấu như ông nghĩ đâu.
8 Số tiền trong các bao lúa, chúng tôi đã mang trả lại cho ông đầy đủ, lẽ nào còn ăn cắp vàng bạc trong nhà chủ ông?
9 Nếu ông tìm thấy chén bạc nơi ai, người ấy phải chết, còn chúng tôi sẽ làm nô lệ cho chủ ông."
10 Quản gia đáp: "Thôi được, chỉ người ăn cắp bị bắt làm nô lệ, còn tất cả vô can."
11 Các anh em vội vàng hạ các bao lúa trên lưng lừa xuống đất, và mở ra.
12 Quản gia lần lượt khám từ bao anh cả đến bao em út; chén bạc tìm thấy trong bao Bên-gia-min.
13 Các anh em thất vọng xé áo, chất lúa lên lưng lừa rồi trở lại thành phố.
14 Giu-đa và các anh em vào dinh Giô-sép; lúc ấy ông vẫn còn đó. Họ quỳ dưới đất, trước mặt ông.
15 Giô-sép hỏi: "Các anh làm gì thế? Không biết rằng ta có tài bói toán sao?"
16 Giu-đa thưa: "Chúng tôi không biết phải nói năng thế nào, tự biện hộ làm sao đây, vì Thượng Đế đã khám phá tội ác chúng tôi rồi. Chúng tôi và người lấy chén bạc xin trở lại làm nô lệ cho ông."
17 Giô-sép đáp: "Không, ta chỉ giữ người lấy chén bạc làm nô lệ cho ta, còn các anh được tự do về nhà cha."
18 Giu-đa bước đến gần, phân trần: "Xin cho tôi tớ ông được biện bạch đôi lời. Xin đừng nổi giận với kẻ hèn này, vì uy quyền ông ngang hàng với vua.
19 Trước đây, ông hỏi chúng tôi còn cha hay anh em nào nữa không.
20 Chúng tôi thưa còn cha già, và đứa em út ra đời lúc cha đã cao tuổi. Anh nó đã chết. Trong số các con cùng một mẹ, nó là đứa duy nhất còn sống, nên cha cưng nó lắm.
21 Ông dạy chúng tôi đem nó đến cho ông thấy mặt.
22 Chúng tôi thưa: 'Nó không thể lìa cha; nếu nó đi, cha sẽ chết.'
23 Ông lại bảo nếu em út không đến, chúng tôi không được gặp ông nữa.
24 Chúng tôi về trình lại với cha những lời ông dạy.
25 Sau đó, cha bảo chúng tôi trở lại mua ít lương thực.
26 Chúng tôi thưa: 'Nếu em út không đi cùng, chúng tôi không thể xuống đây. Vì chúng tôi không thể gặp Tể Tướng nếu không có nó.'
27 Cha than: 'Vợ ta sinh cho ta hai con trai,
28 một đứa đi mất, chắc đã bị thú dữ xé xác, vì đến nay vẫn chưa thấy về.
29 Nếu chúng bay đem đứa này đi nữa, rủi nó bị nguy hiểm, thân già này sẽ sầu khổ mà chết.'
30 Thưa ông, mạng sống cha tôi tùy thuộc nơi mạng sống đứa trẻ. Bây giờ nếu tôi không đem nó về nhà,
31 khi thấy tôi mà không thấy nó, chắc chắn cha tôi sẽ chết. Vậy, chính chúng tôi làm cho cha già chết trong sầu khổ.
32 Kẻ hèn này đã xin cha cho bảo lãnh đứa trẻ: 'Nếu không đem em về cho cha, con sẽ mang tội với cha suốt đời.'
33 Vậy, xin ông cho tôi ở lại làm nô lệ thay cho em tôi, để nó về nhà với các anh nó.
34 Làm sao tôi có thể về với cha mà không có nó? Để rồi phải chứng kiến thảm họa xảy đến cho cha tôi sao?"
1 Giô-sép không thể nào đè nén cảm xúc được nữa. Ông hét lớn, đuổi mọi người chung quanh: "Hãy ra ngoài tất cả!" Vậy, trong phòng chỉ còn Giô-sép và các anh em.
2 Ông khóc nức nở; các nhân viên trong dinh tể tướng và cả hoàng cung Ai Cập đều nghe.
3 Ông tỏ thật với các anh em: "Tôi là Giô-sép. Cha tôi còn sống không?" Trước việc quá bất ngờ, các anh em kinh ngạc sửng sốt, không trả lời được.
4 Ông ôn tồn: "Các anh em lại đây." Họ bước lại gần. Ông tiếp: "Tôi là Giô-sép, đứa em các anh bán qua xứ Ai Cập.
5 Bây giờ đừng buồn phiền trách móc nhau về việc ấy nữa, vì Thượng Đế sai tôi đến đây trước để bảo toàn mạng sống các anh.
6 Nạn đói đã hoành hành hai năm nay, và còn những năm năm mất mùa nữa.
7 Thượng Đế đưa tôi đến đây trước, để giải cứu các anh khỏi nạn đói, cho dòng dõi các anh được trường tồn.
8 Không phải tại các anh, nhưng Thượng Đế xếp đặt cho tôi đến đây làm cố vấn cho vua, và làm Tể Tướng, cầm quyền cả nước Ai Cập.
9 "Các anh hãy về nhà gấp, thưa với cha: 'Giô-sép, con của cha, nhắn rằng: Thượng Đế đã lập con làm Tể Tướng nước Ai Cập. Xin cha xuống đây với con, đừng trì hoãn.
10 Cha sẽ sống tại xứ Gô-sen; như thế cha con mình được gần nhau: cha, các anh em, các cháu, bầy chiên, bầy bò và mọi tài sản của cha.
11 Con sẽ cung cấp lương thực, để cha và mọi người trong nhà ta khỏi phải đói khổ, vì còn đến năm năm đói kém nữa.'
12 Này, các anh và Bên-gia-min, em tôi, đã chứng kiến chính tôi nói chuyện với các anh em.
13 Các anh em hãy thuật cho cha nghe vinh quang, uy quyền của tôi tại Ai Cập, và mau đưa cha đến đây."
14 Giô-sép ôm choàng lấy Bên-gia-min em mình, mà khóc. Bên-gia-min cũng khóc.
15 Giô-sép hôn các anh và khóc. Rồi anh em nói chuyện với Giô-sép.
16 Vua Ai Cập được tin anh em của Giô-sép đã đến. Vua và quần thần rất mừng.
17 Vua sốt sắng bảo Giô-sép: "Hãy bảo anh em ngươi chuẩn bị lừa trở về xứ Ca-na-an,
18 rước thân phụ ngươi và toàn gia đình đến đây, ta sẽ cho các ngươi phần đất tốt nhất của Ai Cập, các ngươi sẽ hưởng hoa mầu của đất.
19 Ngươi hãy lấy xe ngựa Ai Cập cho họ đem về chở vợ con, và rước thân phụ ngươi đến đây.
20 Đừng tiếc tài sản mình, vì sản vật tốt nhất của Ai Cập sẽ thuộc về các ngươi."
21 Các con trai Y-sơ-ra-ên liền sửa soạn lên đường. Theo lệnh vua, Giô-sép cấp cho họ xe ngựa, cùng với lương thực đi đường.
22 Giô-sép cũng cấp y phục cho mỗi người, riêng Bên-gia-min được năm bộ áo và ba trăm lạng bạc.
23 Giô-sép gửi về cho cha mười con lừa chở sản vật quý của Ai Cập, và mười lừa cái chở gạo, bánh và lương thực cho cha đi đường.
24 Giô-sép tiễn các anh em lên đường, và căn dặn: "Xin đừng cãi nhau dọc đường."
25 Từ Ai Cập, các anh em hăm hở trở về nhà Gia-cốp cha mình, tại xứ Ca-na-an.
26 Họ hớn hở thưa: "Giô-sép hãy còn sống, và làm Tể Tướng nước Ai Cập!" Nhưng Gia-cốp vẫn thờ ơ lạnh lùng, không tin lời họ.
27 Khi nghe các con thuật những lời Giô-sép nhắn, và nhìn thấy các cỗ xe ngựa Giô-sép gửi về, tinh thần Gia-cốp liền hồi tỉnh.
28 Ông nói: "Đúng rồi, Giô-sép con ta còn sống. Ta sẽ đi thăm nó trước khi qua đời."
1 Y-sơ-ra-ên dọn tất cả đồ đạc lên đường. Đến Biệt-sê-ba, ông dâng lễ vật cho Thượng Đế của Y-sác cha mình.
2 Trong khải tượng ban đêm, Thượng Đế gọi ông: "Gia-cốp, Gia-cốp!" Ông đáp: "Thưa Chúa, con đây."
3 Chúa dạy: "Ta là Thượng Đế, Thượng Đế của thân phụ con. Đừng ngại đi Ai Cập, vì Ta sẽ cho dòng dõi con thành một dân tộc lớn tại đó.
4 Ta sẽ xuống Ai Cập với con, và sẽ đưa dòng dõi con trở về. Lúc con qua đời, Giô-sép sẽ vuốt mắt con."
5 Gia-cốp rời Biệt-sê-ba. Các con trai Y-sơ-ra-ên chở cha và vợ con họ trên đoàn xe ngựa mà vua Ai Cập đã gửi đến.
6 Họ cũng đem theo súc vật, của cải đã gây dựng tại xứ Ca-na-an. Gia-cốp và cả gia đình,
7 gồm con trai, con gái, cháu trai, cháu gái đều xuống xứ Ai Cập.
8 Đây là danh sách con cháu Y-sơ-ra-ên đến Ai Cập:
Ru-bên, con trưởng nam;
9 các con trai Ru-bên: Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cát-mi.
10 Các con trai của Si-mê-ôn: Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sau-lơ (mẹ Sau-lơ là người Ca-na-an).
11 Các con trai của Lê-vi: Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.
12 Các con trai của Giu-đa: Ê-rơ, Hồ-nan, Sê-la, Phê-rê và Xê-ra. Nhưng Ê-rơ và Hồ-nan đã qua đời tại xứ Ca-na-an. Các con trai của Pha-rết là Hết-rôn và Ha-mun.
13 Các con trai của Y-sa-ca: Tô-la, Phu-va, Gióp và Sim-rôn.
14 Các con trai của Sa-bu-luân: Sê-rết, Ê-luân và Gia-lê-ên.
15 Vậy, các con trai của Lê-a sinh cho Gia-cốp tại Pha-đan A-ram, và một con gái là Đài-na, cùng con cái họ, cộng là ba mươi ba người.
16 Các con trai của Gát: Xi-phi-ôn, Ha-ghi, Su-ni, ét-bôn, Ê-ri, A-rô-đi và A-rê-li.
17 Các con trai của A-se: Đim-na, I-sua, I-sui, Bê-ri-a, và con gái là Sê-ra. Các con trai Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên.
18 Vậy, các con của Xinh-ba (nữ tì La-ban cho Lê-a) sinh cho Gia-cốp, và con cái họ, cộng là mười sáu người.
19 Các con trai của Ra-chên (vợ Gia-cốp) là Giô-sép và Bên-gia-min.
20 A-sê-na (con gái của Phô-ti-phê, thầy trưởng tế thành Ôn) đã sinh cho Giô-sép hai con trai tại nước Ai Cập là Ma-na-se và Ép-ra-im.
21 Các con trai của Bên-gia-min: Bê-la, Bê-ke, Ách-bên, Giê-ra, Na-a-man, Ê-hi, Rô-sơ, Mốp-bim, Hốp-bim và A-rơ.
22 Vậy, các con trai của Ra-chên sinh cho Gia-cốp, và con cái họ, cộng là mười bốn người.
23 Con trai của Đan là Hu-sim.
24 Các con trai của Nép-ta-li: Gia-xên, Giu-ni, Gi-sê và Si-lem.
25 Vậy, các con trai của Bi-la (nữ tì La-ban cho Ra-chên) sinh cho Gia-cốp, và con cái họ, cộng là bảy người.
26 Tất cả con cháu Gia-cốp xuống Ai Cập, không kể con dâu, là sáu mươi sáu người.
27 Giô-sép đã sinh hai con trai tại Ai Cập. Vậy, tổng cộng người nhà Gia-cốp, trước sau đến Ai Cập, là bảy mươi người.
28 Gia-cốp sai Giu-đa đi trước gặp Giô-sép để Giô-sép đón rước cha tại xứ Gô-sen. Vậy họ đến Gô-sen.
29 Giô-sép lên xe đi đón Y-sơ-ra-ên cha mình tại Gô-sen. Khi gặp nhau, ông ôm cha khóc một hồi lâu.
30 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: "Bây giờ cha chết thật an tâm, vì đã gặp mặt con, thấy con còn sống."
31 Giô-sép nói với các anh em và tất cả người nhà: "Tôi sẽ lên gặp vua báo cáo các anh em và toàn gia đình đã từ xứ Ca-na-an đến đây.
32 Tôi sẽ tâu: 'Họ là mục đồng, chuyên nghề chăn nuôi gia súc. Họ đem theo bầy chiên, bầy bò và tất cả tài sản.'
33 Vậy, khi nào vua gọi và hỏi các anh: 'Các ngươi làm nghề gì?'
34 thì các anh hãy tâu: 'Từ nhỏ đến giờ, chúng tôi chăn nuôi súc vật, cũng như tổ tiên chúng tôi.' Như thế, vua sẽ cho các anh em ở xứ Gô-sen, vì dân Ai Cập ghê tởm người chăn nuôi."
1 Giô-sép vào tâu vua: "Cha và anh em tôi đã từ xứ Ca-na-an đến đây, với bầy cừu, bầy bò và mọi tài sản. Hiện nay họ ở Gô-sen."
2 Giô-sép đưa năm anh em đến yết kiến vua.
3 Vua hỏi: "Các ngươi làm nghề gì?" Họ tâu: "Chúng tôi chăn nuôi súc vật, cũng như tổ tiên chúng tôi.
4 Xứ Ca-na-an bị đói lớn, chẳng còn đồng cỏ cho súc vật nên chúng tôi đến đây cư trú. Xin bệ hạ cho chúng tôi ở xứ Gô-sen."
5 Vua bảo Giô-sép: "Cha và anh em ngươi đã đến đây.
6 Trong cả nước Ai Cập, hãy chọn nơi nào tốt nhất cho họ. Ta nghĩ đất Gô-sen rất thích hợp. Ngươi cũng tuyển người tài giỏi trong vòng họ để chăn bầy súc vật của ta."
7 Giô-sép đưa cha đến gặp vua. Gia-cốp chúc phước cho vua;
8 vua hỏi thăm Gia-cốp về tuổi tác.
9 Gia-cốp đáp: "Thưa, tôi được một trăm ba mươi tuổi, đời du mục của tôi rất ngắn ngủi, cực nhọc, so với đời du mục của tổ tiên tôi."
10 Trước khi từ giã, Gia-cốp lại chúc phước cho vua.
11 Giô-sép chọn chỗ tốt nhất trong nước Ai Cập cho cha và các anh em định cư, tại miền Ram-se, đúng theo lệnh vua.
12 Tùy theo số khẩu phần, Giô-sép cung cấp lương thực cho cha và các anh em.
13 Nạn đói trở nên quá trầm trọng. Cả xứ Ai Cập và xứ Ca-na-an đều kiệt quệ, chẳng còn lương thực.
14 Giô-sép bán lúa, thu hết tiền bạc trong xứ Ai Cập và xứ Ca-na-an, chứa trong kho hoàng cung.
15 Khi tiền bạc đã hết, người Ai Cập đến kêu cầu Giô-sép: "Xin cấp lương thực cho chúng tôi, không lẽ vì hết tiền mà chúng tôi phải chết đói sao?"
16 Giô-sép đáp: "Tiền hết thì đem gia súc đến đổi lấy lương thực."
17 Vậy họ đem gia súc đến, nào cừu bò, nào ngựa lừa, để đổi lấy lương thực nơi Giô-sép.
18 Qua năm sau, dân Ai Cập lại đến xin Giô-sép: "Ông thừa biết tiền bạc chúng tôi đã cạn, gia súc ông cũng mua rồi, chúng tôi chẳng còn gì ngoài bản thân và ruộng đất.
19 Tại sao ông để chúng tôi chết, đất ruộng hoang vu. Hãy mua chúng tôi và ruộng đất bằng lương thực. Chúng tôi làm nô lệ cho vua để đổi lấy lúa, nhờ đó chúng tôi thoát chết, đất ruộng khỏi hoang tàn."
20 Vì nạn đói quá lớn, mọi người Ai Cập đều bán ruộng. Giô-sép mua tất cả ruộng đất cho vua, ruộng đất Ai Cập trở thành tài sản nhà vua;
21 và toàn dân Ai Cập từ nam đến bắc đều phải dọn về thành phố.
22 Nhưng Giô-sép không mua ruộng của các thầy tư tế, vì họ được vua cấp phát lương thực, khỏi phải bán ruộng.
23 Giô-sép tuyên bố với nhân dân: "Ngày nay ta mua các ngươi và ruộng đất cho vua. Đây, ta giao hạt giống để các ngươi gieo trồng.
24 Đến mùa gặt, hãy nạp một phần năm cho vua; còn bốn phần thuộc về các ngươi, để làm hạt giống cho mùa sau và làm lương thực cho gia đình, con cái các ngươi."
25 Nhân dân đáp: "Ông đã cứu mạng chúng tôi. Được ông thương xót, chúng tôi vui lòng làm nô lệ cho vua."
26 Vậy, Giô-sép lập ra luật này cho nước Ai Cập (đến bây giờ hãy còn): một phần năm hoa lợi đồng ruộng phải nạp cho vua, ngoại trừ ruộng của các thầy tư tế.
27 Y-sơ-ra-ên định cư tại Gô-sen, nước Ai Cập, gây dựng sự nghiệp và sinh sôi nẩy nở nhanh chóng.
28 Gia-cốp sống mười bảy năm tại Ai Cập, thọ một trăm bốn mươi bảy tuổi.
29 Ngày gần qua đời, Gia-cốp sai gọi Giô-sép đến bảo: "Con giúp cha việc này: con hãy đặt tay lên đùi cha, lấy lòng ngay thẳng thành thật thề sẽ không chôn cha tại Ai Cập.
30 Khi cha qua đời, hãy đem cha ra khỏi Ai Cập, chôn bên phần mộ của tổ tiên." Giô-sép thưa: "Con sẽ làm mọi điều cha dặn."
31 Gia-cốp bảo: "Con hãy thề." Giô-sép thề, và Y-sơ-ra-ên quỳ bên đầu giường.
1 Sau đó ít lâu, Giô-sép hay tin cha bị đau, liền dẫn hai con là Ma-na-se và Ép-ra-im đến thăm.
2 Nghe Giô-sép đến, Y-sơ-ra-ên cố gắng ngồi dậy trên giường.
3 Gia-cốp bảo Giô-sép: "Thượng Đế Toàn Năng đã xuất hiện, ban phúc cho cha tại Lu-xơ, xứ Ca-na-an.
4 Ngài phán: 'Ta sẽ làm cho con sinh sôi nẩy nở nhanh chóng, trở thành một dân tộc đông đảo. Ta sẽ ban xứ này cho dòng dõi con làm cơ nghiệp vĩnh viễn.'
5 Bây giờ, hai đứa con trai con đã sinh tại Ai Cập trước khi cha đến, là Ép-ra-im và Ma-na-se, sẽ thuộc về cha, và hưởng cơ nghiệp của cha như Ru-bên và Si-mê-ôn.
6 Còn những đứa con sinh sau sẽ thuộc về con, và hưởng cơ nghiệp của con thế cho Ép-ra-im và Ma-na-se.
7 Khi cha đi đường từ Pha-đan về Ca-na-an, gần đến Ép-ra-ta, mẹ con từ biệt cha, qua đời. Cha chôn mẹ bên con đường về Bê-liêm."
8 Thấy hai con Giô-sép, Y-sơ-ra-ên liền hỏi: "Các cháu đó phải không?"
9 Giô-sép thưa: "Vâng, đây là hai con trai Thượng Đế đã cho con tại Ai Cập." Gia-cốp bảo: "Dẫn lại đây để cha chúc phúc lành cho hai cháu."
10 Vì tuổi già, Y-sơ-ra-ên không nhìn thấy rõ, nên Giô-sép dắt hai con lại gần cho cha ôm hôn chúng nó.
11 Y-sơ-ra-ên vui mừng: "Trước cha tưởng không bao giờ thấy lại mặt con, mà bây giờ Thượng Đế cho cha thấy được các cháu nữa."
12 Giô-sép đỡ hai con ra khỏi đầu gối, rồi khom lưng cúi mặt xuống đất.
13 Tay phải ông nắm Ép-ra-im để đưa sang phía trái Y-sơ-ra-ên; tay trái ông nắm Ma-na-se để đưa sang phía tay phải của cha.
14 Nhưng Y-sơ-ra-ên đặt tay phải lên đầu Ép-ra-im, là đứa nhỏ; và tay trái lên đầu Ma-na-se, là đứa lớn,
15 rồi chúc phúc lành cho Giô-sép: "Cầu xin Thượng Đế của Áp-ra-ham và Y-sác, tổ phụ con, Thượng Đế đã chăn dắt con từ khi ra đời cho đến nay,
16 là thiên sứ đã giải cứu con khỏi mọi tai họa, ban phúc lành cho hai đứa trẻ này, cho chúng nó nối danh con, danh Áp-ra-ham và Y-sác tổ phụ con, cho dòng dõi chúng nó gia tăng đông đảo trên mặt đất."
17 Khi thấy cha đặt tay phải lên đầu Ép-ra-im, Giô-sép không bằng lòng, nên cầm tay ấy đặt qua đầu Ma-na-se.
18 Ông nói: "Thưa, cha nhầm rồi. Đứa này là con trưởng, cha nên đặt tay phải lên đầu nó."
19 Nhưng Gia-cốp không chịu: "Cha biết chứ, không phải nhầm đâu con. Ma-na-se sẽ thành một dân tộc lớn, nhưng em nó sẽ lớn hơn, dòng dõi sẽ đông đảo vô cùng."
20 Gia-cốp lại chúc phước cho hai đứa trẻ: "Vì hai cháu mà sau này dân Y-sơ-ra-ên sẽ chúc nhau: Cầu Thượng Đế ban cho anh được giống như Ép-ra-im và Ma-na-se." Vậy, Gia-cốp đặt Ép-ra-im trước Ma-na-se.
21 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: "Cha sắp qua đời, nhưng Thượng Đế sẽ ở với các con, đưa các con về quê hương Ca-na-an.
22 Cha sẽ cho con phần đất nhiều hơn các anh em, là đất dân A-mo mà cha đã chiếm được bằng cung kiếm."
1 Gia-cốp bảo các con trai hội họp để nghe ông nói trước việc tương lai của họ:
2 "Các con trai Gia-cốp, hãy họp lại đây, Để nghe lời của Y-sơ-ra-ên:
3 Con trưởng nam Ru-bên
Là sinh lực và sức mạnh cha,
Với vinh dự và quyền năng tột đỉnh,
4 Nhưng con bồng bột như thủy triều,
Nên đánh mất quyền huynh trưởng,
Vì con đã vào phòng cha
Làm ô uế giường nệm...
5 Hai anh em Si-mê-ôn, Lê-vi
Xử dụng khí giới quá bạo tàn.
6 Linh hồn ta! hãy tránh xa chúng nó,
Tâm linh ta! chớ tham gia việc bất nhân.
Trong căm hờn, gây cảnh thịt rơi máu đổ.
Vui chơi bằng cách bắt bò cắt gân.
7 Cơn giận chúng nó bị nguyền rủa,
Vì quá độc địa, hung hăng.
Cha sẽ phân tán dòng dõi hai con
Khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên.
8,9 Giu-đa! Con được các anh em ca tụng,
Vì con chiến thắng kẻ thù xâm lăng.
Sư tử tơ Giu-đa là chúa động
Các con trai cha gặp con đều quì xuống.
Oai hùng đem mồi về sau cuộc đi săn.
Ngồi, nằm uy nghi tợ sư tử đực.
Như sư tử cái ai dám đánh thức.
10 Cây quyền trượng chẳng xa lìa Giu-đa,
Gậy lập pháp cũng không rời tay tử túc,
Cho đến chừng Đấng Si-lô hiện ra,
Và được toàn dân vâng phục.
11 Con sẽ buộc lừa vào cành nho,
Dùng rượu nho giặt áo.
12 Mắt con đậm màu rượu đỏ.
Sữa nhuộm trắng răng con.
13 Sa-bu-luân sẽ sống tại bờ biển,
Có hải cảng cho tàu cập bến,
Ranh giới con đến gần Si-đôn.
14 Y-sa-ca là con lừa lực lưỡng,
Nằm cạnh các kiện hàng.
15 Đến nơi tốt đẹp liền tận hưởng,
Thấy cảnh vui tươi lại muốn giành,
Nên đành chịu cúi vai chở nặng,
Và buộc lòng phục dịch đàn anh.
16 Đan sẽ xử đoán dân mình,
Như những tộc khác của Y-sơ-ra-ên.
17 Đan là con rắn độc bên đàng
Rình cắn vào gót ngựa,
Khiến kỵ sĩ nhào lăn!
18 Lạy Chúa Hằng Hữu,
Con chờ trông ơn Ngài giải cứu!
19 Gát sẽ bị quân thù đột kích,
Nhưng con sẽ đuổi địch chạy dài.
20 A-se sản xuất nhiều thức ăn ngon,
Và dọn yến tiệc cho vua chúa.
21 Nép-ta-li là nai cái thong dong,
Nằm trong chuồng ung dung, thoải mái,
Dệt những lời cẩm tú văn chương...
22 Giô-sép là một cây sai trái,
Mọc lên bên bờ suối trong xanh,
Cành lá vượt vách thành.
23 Bị cung tên kẻ thù dọa ngăm,
Tấn công và hãm hại;
24 Nhưng, nhờ Chúa Toàn Năng,
là Đấng Chăn Chiên,
Vầng Đá của Y-sơ-ra-ên,
Cung tên con luôn luôn vững bền,
Cánh tay con càng thêm lanh lợi.
25 Thượng Đế của cha sẽ giúp đỡ,
Chúa Toàn Năng ban phúc, phù hộ.
Con sẽ được phúc hạnh dồi dào:
Phúc lành trên trời cao,
Phúc lành nơi đất thấp,
Phúc lành nuôi dưỡng và sinh sản.
26 Phúc lành cha chúc cho con
Sẽ cao hơn phúc lành của tổ tông,
Lên đến các ngọn núi trường tồn.
Các phúc lành này sẽ giáng trên Giô-sép,
Trên đỉnh đầu người lãnh đạo.
27 Bên-gia-min là chó sói săn mồi,
Buổi sáng con tiêu diệt kẻ thù,
Đến chiều phân chia chiến lợi phẩm."
28 Đó là những lời Y-sơ-ra-ên chúc cho mười hai con trai, mỗi người một lời chúc riêng biệt.
29,30 Ông dặn bảo họ: "Cha sắp qua đời. Các con hãy chôn cha nơi phần mộ tổ tiên, trong hang đá cánh đồng Mạc-bê-la, gần Mam-rê, xứ Ca-na-an, mà Áp-ra-ham đã mua của Ép-rôn người Hết, để làm nghĩa trang.
31 Người ta đã an táng Áp-ra-ham và Sa-ra, Y-sác và Rê-bê-ca, và cha cũng đã chôn Lê-a tại đó.
32 Cánh đồng và hang đá ấy do con cháu Hết bán lại."
33 Gia-cốp dứt lời, nằm xuống giường và nhắm mắt tắt hơi.
1 Giô-sép cúi xuống mặt cha, vừa hôn vừa khóc.
2,3 Ông bảo các y sĩ phụ tá mình ướp xác cho cha. Họ vâng lệnh, ướp xác Y-sơ-ra-ên bốn mươi ngày, và người Ai Cập than khóc bảy mươi ngày.
4 Kỳ hạn than khóc đã qua, Giô-sép nói với triều đình Ai Cập: "Xin các ông vui lòng tâu vua giúp tôi:
5 Lúc gần chết, cha buộc tôi thề phải chôn người trong phần mộ đã mua tại xứ Ca-na-an. Vậy xin bệ hạ cho phép tôi đi chôn cất cha, rồi trở lại ngay."
6 Vua đáp: "Ngươi hãy lên đó an táng cha đúng theo lời thề."
7 Vậy, Giô-sép đi lên Ca-na-an mai táng cha. Các quan lớn nhỏ trong triều, các trưởng lão trong nước,
8 người nhà Giô-sép, các anh em và cả gia đình đều đi dự đám tang. Chỉ còn trẻ con, bầy cừu, bầy bò ở lại Gô-sen mà thôi.
9 Cũng có đoàn kỵ binh và xe ngựa hộ tống. Đám tang thật đông đảo.
10 Khi đến sân đạp lúa A-tát, bên kia sông Giô-đan, lễ an táng được cử hành long trọng và vĩ đại. Lễ khóc than kéo dài bảy ngày.
11 Dân bản xứ người Ca-na-an thấy việc khóc than, bảo nhau: "Đây là lễ khóc than vĩ đại của người Ai Cập," và gọi nơi ấy là A-bên Mích-ra-im.
12 Các con trai Gia-cốp làm theo lời cha dặn,
13 chôn cha tại xứ Ca-na-an, trong hang đá cánh đồng Mạc-bê-la, gần Mam-rê, mà Áp-ra-ham đã mua của Ép-rôn người Hết để làm mộ địa cho gia đình.
14 Việc chôn cất đã xong, Giô-sép, các anh em và tất cả những người dự đám tang đều trở lại Ai Cập.
15 Các anh Giô-sép thấy cha đã chết, lo sợ bảo nhau: "Có thể Giô-sép còn hằn thù ác cảm với chúng ta, và sẽ thẳng tay báo thù việc ác chúng ta đã làm."
16 Họ sai người đến năn nỉ Giô-sép: "Trước khi qua đời, cha dặn các anh
17 nói lại với em: 'Xin hãy tha tội ác cho các anh con, vì chúng đã hại con.' Bây giờ xin em tha tội cho các anh, là tôi tớ Thượng Đế của cha." Nghe xong, Giô-sép khóc.
18 Các anh đến quỳ trước mặt Giô-sép: "Các anh cũng chỉ là tôi tớ của em."
19 Nhưng Giô-sép trấn an: "Các anh đừng sợ. Tôi không buộc tội các anh đâu.
20 Các anh định hại tôi, nhưng Thượng Đế đã đổi họa ra phúc và đưa tôi đến để cứu bao nhiêu sinh mạng.
21 Vậy các anh đừng sợ, tôi sẽ tiếp tục cấp dưỡng các anh và gia đình." Giô-sép an ủi các anh, dùng lời lẽ thật dịu dàng.
22 Giô-sép và cả gia đình Gia-cốp vẫn sống tại Ai Cập. Giô-sép thọ một trăm mười tuổi,
23 trông thấy con cháu Ép-ra-im đến đời thứ ba, và bồng ẵm các con trai của Mai-kỳ, là cháu nội Ma-na-se.
24 Giô-sép nói với các anh: "Tôi sắp qua đời, nhưng Thượng Đế sẽ đến giúp các anh, đưa các anh ra khỏi Ai Cập, trở về xứ Ngài đã thề hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp."
25 Giô-sép bảo các anh thề: "Khi Thượng Đế cứu giúp các anh, xin hãy dời hài cốt tôi khỏi Ai Cập."
26 Vậy Giô-sép qua đời, thọ một trăm mười tuổi. Người ta ướp xác ông rồi đặt trong quan tài, quàn tại Ai Cập.