Dân Y-sơ-ra-ên Bị Áp Bức
1 Sau đây là tên các con trai Gia-cốp đã đem gia đình theo cha vào Ai Cập:
2 Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa,
3 Y-sa-ca, Sa-bu-luân, Bên-gia-min,
4 Đan, Nép-ta-li, Gát và A-se.
5 Tổng số con cháu Gia-cốp theo ông lúc ấy là bảy mươi, còn Giô-sép đã ở Ai Cập từ trước.
6 Giô-sép và các anh em lần lượt qua đời.
7 Nhưng con cháu họ sinh sôi nẩy nở rất nhanh chóng, trở thành một dân tộc lớn mạnh, tràn lan khắp vùng.
8 Lúc đó, Ai Cập có một vua mới. Vua này không biết gì về Giô-sép cả.
9,10 Vua bảo dân: "Người Y-sơ-ra-ên có thể còn đông và mạnh hơn dân ta nữa. Nếu ta không khôn khéo đối phó và chận đứng việc tăng gia dân số của họ, một mai chiến tranh bùng nổ, họ sẽ theo địch chống ta rồi kéo nhau đi hết."
11 Vậy, người Ai Cập đặt ra cấp cai dịch để đốc thúc việc sưu dịch, bắt người Y-sơ-ra-ên làm việc nặng nhọc, xây thành Phi-thông và Ram-se dùng làm kho của Pha-ra-ôn vua Ai Cập.
12-14 Nhưng càng bị hành hạ, họ càng sinh sôi nảy nở. Người Ai Cập lo hoảng, bắt họ làm việc càng thêm nhọc nhằn, làm cho đời họ đắng cay. Trong công việc nhồi đất, nung gạch và mọi việc đồng áng, họ bị đối xử cách cay nghiệt, bạo tàn.
Âm Mưu Diệt Chủng
15,16 Pha-ra-ôn còn căn dặn các cô đỡ của người Hi-bá là Siếp-ra và Phu-a phải giết tất cả các con trai sơ sinh của người Hi-bá, còn con gái thì tha cho sống.
17 Nhưng các cô đỡ kính sợ Thượng Đế, bất tuân lệnh vua, không sát hại các con trai sơ sinh nhưng để
chúng sống cả.
18,19 Vua đòi các cô đỡ đến để cật vấn lý do. Các cô tâu: "Đàn bà Hi-bá sinh nở rất dễ, không như đàn bà Ai Cập; khi chúng tôi đến nơi, họ đã sinh rồi."
20 Thượng Đế ban phước cho các cô đỡ. Còn dân Y-sơ-ra-ên thì cứ gia tăng, ngày càng đông đúc.
21 Và vì các cô đỡ kính sợ Thượng Đế, Ngài cho họ có gia đình phúc hạnh.
22 Sau đó, Pha-ra-ôn truyền lệnh cho toàn dân Ai Cập: "Ném tất cả các con trai sơ sinh của người Hi-bá xuống sông, nhưng tha cho con gái được sống!"
Mai-sen Ra Đời
1,2 Thuở ấy có một chàng trai và một cô gái thuộc đại tộc Lê-vi kết nghĩa vợ chồng. Họ sinh được một con trai. Thấy con mình khôi ngô tuấn tú, người mẹ đem giấu đi suốt ba tháng.
3 Đến khi không thể giấu lâu hơn nữa, người mẹ lấy một cái thúng, đem trát nhựa thông cho khỏi ngấm nước, đặt đứa bé nằm bên trong, rồi đem thúng thả bên bờ sông, trong đám lau sậy.
4 Chị đứa bé đứng xa xa để trông chừng.
5,6 Hôm ấy, công chúa Ai Cập ra sông tắm, trong khi các cô gái hầu dạo chơi dọc bờ sông. Công chúa chợt thấy cái thúng trong đám sậy, liền gọi các cô hầu vớt lên. Mở ra, thấy một chú bé đang khóc, công chúa động lòng thương, nói rằng: "Đây là con của người Hi-bá."
7 Chị đứa bé liền tiến lại đề nghị với công chúa: "Tôi đi tìm một người đàn bà Hi-bá để nuôi em bé này cho công chúa nhá?"
8 Công chúa đáp: "Phải, đi đi." Cô bé chạy đi gọi mẹ.
9 Công chúa bảo bà: "Đem em bé này về nuôi cho tôi, tôi trả công cho." Bà ẵm nó vào lòng, đem về nhà nuôi nấng.
10 Khi nó đã khôn lớn, bà dẫn nó vào cung, công chúa Ai Cập nhận nó làm con, đặt tên là Mai-sen, vì nói rằng đã vớt nó ra khỏi nước.
Mai-sen Trốn Qua Ma-đi-an
11 Thời gian thấm thoắt, Mai-sen đã trưởng thành. Một hôm ông đi thăm các anh em đồng chủng, thấy người Hi-bá phải làm lụng cực nhọc. Ông cũng thấy một người Ai Cập đánh một người Hi-bá, anh em đồng chủng của mình.
12 Nhìn quanh quất chẳng thấy ai, Mai-sen liền giết người Ai Cập rồi đem vùi thây trong cát.
13 Ngày hôm sau ông lại ra thăm. Lần này Mai-sen thấy hai người Hi-bá đánh nhau. Ông nói với người có lỗi: "Đã là anh em, sao còn đánh nhau?"
14 Người đó hỏi vặn: "Ông là người cai trị, xét xử chúng tôi đấy à? Có phải ông định giết tôi như giết người Ai Cập hôm qua không?" Mai-sen biết việc đã lộ, nên lo sợ lắm.
15,16 Việc đến tai Pha-ra-ôn, vua ra lệnh bắt Mai-sen xử tử; nhưng ông trốn qua xứ Ma-đi-an. Đến nơi, ông ngồi bên một cái giếng. Vừa lúc ấy, có bảy cô con gái của thầy tế lễ Ma-đi-an đi đến múc nước đổ vào máng cho bầy gia súc uống.
17 Nhưng có một bọn chăn cừu đến đuổi các cô đi. Mai-sen đứng ra bênh vực, rồi lấy nước cho bầy thú uống giùm các cô.
18 Khi thầy tế lễ Rê-u-ên thấy các con mình về, liền hỏi: "Sao hôm nay các con về sớm vậy?"
19 Các cô thưa: "Có một người Ai Cập giúp chúng con chống bọn chăn cừu, lại còn múc nước cho bầy thú uống nữa."
20 Rê-u-ên hỏi: "Người ấy đâu? Sao các con bỏ đi như vậy? Ra mời anh ấy về ăn cơm đi."
21 Mai-sen đến, nhận lời ở lại với Rê-u-ên. Ông gả một trong bảy con mình là Sê-phô-ra cho Mai-sen làm vợ.
22 Họ sinh được một con trai, đặt tên là Ghẹt-sôn, vì Mai-sen nói: "Tôi ở nơi đất lạ quê người."
23,24 Khi Mai-sen ở Ma-đi-an, vua Ai Cập qua đời. Dân Y-sơ-ra-ên kêu ca ta oán vì cuộc đời nô lệ cực nhục, và khóc than với Thượng Đế. Thượng Đế nghe tiếng kêu cứu của họ, nhớ lại lời Ngài đã hứa với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
25 Thượng Đế đoái xem và thấu triệt hoàn cảnh của con cháu Y-sơ-ra-ên.
Mai-sen và Bụi Gai Cháy
1 Một hôm, trong lúc đang chăn bầy cừu của ông gia là Giê-trô (cũng gọi là Rê-u-ên, thầy tế lễ Ma-đi-an), Mai-sen đi sâu mãi cho đến mé sa mạc, gần Hô-rếp, núi của Thượng Đế.
2 Bỗng, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu hiện ra với ông như một ngọn lửa cháy giữa bụi cây. Mai-sen thấy lửa phát ra từ bụi cây, nhưng bụi cây không bị cháy tàn.
3,4 Ông tự nhủ: "Lạ thật, sao bụi cây vẫn không cháy tàn. Ta lại gần xem thử." Chúa Hằng Hữu gọi: "Mai-sen! Mai-sen!" Ông thưa: "Dạ, con đây."
5,6 Ngài bảo: "Đừng lại gần. Mau cởi giày ra, vì con đang đứng trên đất thánh. Ta là Thượng Đế của tổ tiên con, của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp." Mai-sen liền lấy tay che mặt vì sợ nhìn thấy Thượng Đế.
7 Chúa Hằng Hữu nói: "Ta biết hết nỗi khổ nhục của dân Ta tại Ai Cập, cũng nghe thấu tiếng thở than của họ dưới tay kẻ áp bức bạo tàn.
8 Ta đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, đem họ đến một xứ tốt đẹp, bao la, phì nhiêu, tức là đất của dân Ca-na-an, Hết, A-mo, Phê-rết, Hê-vi và Giê-bu hiện nay.
9 Tiếng kêu van của dân Y-sơ-ra-ên đã thấu tận trời, và Ta đã rõ cách người Ai Cập áp bức dân Ta.
10 Bây giờ Ta sai con đến gặp Pha-ra-ôn, bảo vua ấy để cho dân Ta đi."
11 Mai-sen thưa: "Con là ai mà bảo được Pha-ra-ôn phải để cho dân Y-sơ-ra-ên đi?"
12 Thượng Đế hứa: "Ta sẽ đi với con, và đây là bằng cớ chứng tỏ Ta sai con: Khi con đã đem dân Ta ra khỏi Ai Cập, con sẽ đến thờ lạy Ta trên chính núi này."
13 Mai-sen hỏi lại: "Khi con đến nói với dân Y-sơ-ra-ên: 'Thượng Đế của tổ tiên chúng ta sai tôi đến với anh em,' nếu họ hỏi: 'Tên Ngài là gì?' Thì con sẽ trả lời thế nào?"
14 "Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu," Thượng Đế đáp, "Đấng Tự Hữu đã sai con."
15 Ngài tiếp: "Con nói với họ rằng: 'Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, đã sai tôi đến với anh em.' Chúa Hằng Hữu là tên vĩnh viễn của Ta, tên được ghi tạc qua các thế đại."
16 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: "Con cũng mời các bô lão Y-sơ-ra-ên họp lại và nói với họ: Thượng Đế của tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đã hiện ra với tôi, sai tôi nói với các ông rằng: 'Ta đã viếng thăm Y-sơ-ra-ên, và thấy rõ hoàn cảnh của dân Ta rồi.
17 Ta hứa chắc sẽ đem họ từ cảnh khổ nhục tại Ai Cập đến đất phì nhiêu của dân Ca-na-an, Hết, A-mo, Phê-rết, Hê-vi và Giê-bu.'
18 Họ sẽ nghe theo con. Các bô lão sẽ đi với con đến yết kiến vua Ai Cập và nói với vua rằng: 'Chúa Hằng Hữu, Chúa của người Hi-bá, đã hiện ra với chúng tôi. Vậy, xin cho chúng tôi đi một nơi trong sa mạc, cách đây chừng ba ngày đường, để chúng tôi dâng tế lễ cho Ngài.'
19 Nhưng Ta biết trước, trừ khi bị áp lực phi thường, vua Ai Cập sẽ không để cho dân Y-sơ-ra-ên đi đâu.
20 Vì vậy, Ta sẽ vung tay hành hạ quốc gia này, làm nhiều phép lạ, rồi cuối cùng họ mới để dân Ta đi.
21,22 Ta cũng sẽ khiến người Ai Cập rộng lòng, để khi ra đi, dân Y-sơ-ra-ên chẳng đi tay trắng. Phụ nữ Y-sơ-ra-ên sẽ xin các người láng giềng và các bà chủ Ai Cập các món nữ trang bằng vàng, bằng bạc và áo xống để mặc cho con cái mình. Như vậy, chính người Ai Cập lại bị người Y-sơ-ra-ên bóc lột."
Các Dấu Kỳ Phép Lạ
1 Nhưng Mai-sen nói: "Họ sẽ chẳng tin con, cũng chẳng nghe lời con, và sẽ nói: 'Chúa Hằng Hữu đâu có hiện ra với ông.' "
2 "Con đang cầm gì trong tay đó?" Chúa Hằng Hữu hỏi. "Dạ cây gậy," Mai-sen thưa.
3 Chúa bảo: "Ném gậy xuống đất xem." Mai-sen vâng lời. Gậy liền biến thành con rắn. Mai-sen chạy trốn nó.
4 Chúa Hằng Hữu bảo: "Nắm lấy đuôi nó." ông nắm đuôi rắn, rắn lại thành gậy trong tay ông.
5 Chúa tiếp: "Với phép lạ này, họ sẽ tin Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, đã hiện ra với con."
6 Thượng Đế lại bảo Mai-sen: "Đặt tay vào bụng con xem." Ông vâng lời, khi rút tay ra, thấy phung nổi lên trắng như tuyết.
7 Chúa bảo: "Đặt tay vào bụng lần nữa." Lần này khi rút tay ra, Mai-sen thấy tay mình trở lại bình thường như cũ.
8 Thượng Đế nói: "Nếu họ không tin phép lạ thứ nhất, họ sẽ tin phép lạ thứ hai.
9 Cùng lắm, nếu họ không tin cả hai phép lạ này và không nghe lời con, lúc ấy con hãy lấy nước sông lên tưới đầy mặt đất, nước sẽ hóa ra máu."
10 Mai-sen viện cớ: "Chúa ơi, từ trước đến nay con vốn là người không có tài ăn nói, vì miệng lưỡi con hay ấp a ấp úng."
11 Chúa Hằng Hữu hỏi: "Ai tạo ra miệng? Ai có thể làm cho một người trở nên câm, điếc hoặc mù? Có phải Ta không?"
12 Ngài tiếp: "Bây giờ, cứ vâng lời Ta mà đi, Ta sẽ giúp đỡ mỗi khi con nói và dạy con từng lời."
13 Nhưng Mai-sen thưa: "Lạy Chúa, xin Chúa sai một người nào khác cho xong."
14 Thượng Đế nổi giận nhưng vẫn bảo: "A-rôn anh con là một người có tài ăn nói. Người ấy đang đi tìm con và sẽ mừng lắm khi thấy con.
15 Con sẽ kể lại cho A-rôn mọi điều Ta bảo con. Ta sẽ giúp hai anh em con trong lời ăn tiếng nói, và sẽ dạy con những điều phải làm.
16 A-rôn sẽ thay con nói chuyện với dân, sẽ là phát ngôn viên của con; còn con sẽ như là chúa của A-rôn vậy.
17 Con nhớ cầm theo cây gậy này để làm các phép lạ."
Mai-sen Trở Lại Ai Cập
18 Mai-sen trở về nhà, thưa với ông gia là Giê-trô: "Xin cha cho con trở lại Ai Cập thăm anh em con, chẳng biết họ sống chết ra sao." Giê-trô đáp: "Chúc con đi bình an."
19 Trước khi ông rời Ma-đi-an, Thượng Đế có cho Mai-sen biết rằng: "Về Ai Cập lần này, con đừng sợ gì cả, vì những người tìm giết con đã chết hết rồi."
20 Mai-sen đỡ vợ con lên lưng lừa, lên đường về Ai Cập, cầm trong tay "cây gậy của Thượng Đế."
21 Chúa Hằng Hữu đã cho ông biết trước: "Đến Ai Cập, con sẽ đi gặp Pha-ra-ôn để làm các phép lạ Ta cho, nhưng nên nhớ rằng Ta sẽ làm cho vua Ai Cập cứng lòng, chưa cho dân Ta đi đâu.
22,23 Rồi, con sẽ nói với vua rằng: 'Thượng Đế phán: Y-sơ-ra-ên là con trưởng nam Ta, Ta có bảo nhà ngươi cho nó đi để phụng thờ Ta, nhưng nhà ngươi từ chối. Bây giờ, Ta sẽ giết con trưởng nam của ngươi.' "
24 Dọc đường, khi Mai-sen và gia đình ông dừng chân tại một quán trọ, Thượng Đế hiện ra gặp ông, và rồi định giết ông.
25,26 Sê-phô-ra lấy con dao đá cắt dương bì của con mình, rồi ném dưới chân Mai-sen, la hoảng: "Ông chồng đẫm máu của tôi ơi!" Thượng Đế để cho ông yên nhờ việc cắt bì ấy.
27 Về phần A-rôn, Chúa Hằng Hữu có bảo ông: "Đi vào sa mạc đón Mai-sen." A-rôn vâng lời, đi đến núi của Thượng Đế thì gặp Mai-sen. Hai người mừng rỡ chào hỏi nhau.
28 Mai-sen thuật hết cho A-rôn mọi điều Thượng Đế bảo họ phải làm, cũng cho A-rôn thấy các phép lạ họ sẽ thực hiện.
29 Sau đó, Mai-sen cùng với A-rôn đi triệu tập các bô lão Y-sơ-ra-ên.
30 A-rôn kể cho họ nghe mọi lời Chúa Hằng Hữu đã bảo Mai-sen, và cũng làm các phép lạ cho họ thấy.
31 Họ tin lời ông. Khi nghe rằng Chúa Hằng Hữu đã viếng thăm Y-sơ-ra-ên, thấu rõ nỗi đắng cay của họ, các bô lão liền cúi đầu thờ lạy.
Biện Pháp Gắt Gao của Vua Ai Cập
1 Sau đó, Mai-sen đi với A-rôn đến yết kiến Pha-ra-ôn, thưa rằng: "Chúa Hằng Hữu, Chúa của người Y-sơ-ra-ên, có bảo chúng tôi thưa với vua: 'Hãy để cho dân Ta đi vào sa mạc hành lễ phụng thờ Ta.' "
2 Pha-ra-ôn đáp: "Chúa Hằng Hữu là ai mà ra lệnh cho ta? Ta chẳng biết Chúa Hằng Hữu nào hết, cũng chẳng cho dân Y-sơ-ra-ên đi đâu cả."
3 Mai-sen và A-rôn lại nói: "Thượng Đế của người Hi-bá có gặp chúng tôi thật. Nếu bệ hạ không để cho chúng tôi đi chừng ba ngày đường vào sa mạc dâng tế lễ cho Chúa Hằng Hữu, chúng tôi sẽ bị bệnh dịch hạch hoặc gươm đao tàn sát."
4,5 Pha-ra-ôn gắt: "Các ngươi định xúi cho dân đình công phải không? Thôi, trở về làm việc đi."
6 Ngay hôm ấy, Pha-ra-ôn ra lệnh cho các viên cai dịch và các cấp chỉ huy của họ:
7,8 "Đừng cấp rơm cho người Y-sơ-ra-ên như trước nữa, nhưng bắt chúng phải tự kiếm lấy rơm để làm gạch; đồng thời cứ giữ đúng chỉ tiêu sản xuất gạch như cũ. Đừng để chúng rảnh tay sinh lười, kiếm cớ đòi đi dâng tế lễ cho Thượng Đế của chúng.
9 Cứ bắt chúng làm việc càng nặng nề hơn, để chẳng còn hơi sức đâu mà nghe theo lời xúi giục dối trá."
10,11 Vậy, các viên chỉ huy và cai dịch báo cho người Y-sơ-ra-ên: "Pha-ra-ôn sẽ không cho cấp rơm như trước nữa, mỗi người phải tự lo kiếm lấy. Nhưng lượng gạch sản xuất vẫn phải đủ số như cũ."
12 Mọi người phân tán khắp nơi, kiếm rạ dùng thế cho rơm.
13,14 Trong khi đó các viên cai dịch một mực đốc thúc: "Như trước kia, ngày nào cũng phải làm đủ số gạch ngày đó, không thiếu một viên." Họ lại đánh đập các người Y-sơ-ra-ên mà chính họ đã chỉ định làm trưởng nhóm (trông coi những người Y-sơ-ra-ên khác làm việc). Họ thét: "Chúng bây chẳng được việc gì hết. Cả hôm qua lẫn hôm nay đều không đủ số gạch."
15 Các trưởng nhóm người Y-sơ-ra-ên lên kêu với Pha-ra-ôn: "Sao bệ hạ cư xử ngặt nghèo với tôi tớ của bệ hạ quá.
16 Chúng tôi không được cấp rơm, nhưng lại được lệnh phải sản xuất đủ số gạch như cũ. Chúng tôi bị đòn chỉ vì người của bệ hạ bất công, chứ chúng tôi có lỗi gì?"
17 Vua thản nhiên đáp: "Chỉ vì lười biếng mà các anh đòi đi dâng lễ vật cho Thượng Đế chứ gì?
18 Về làm việc đi. Chẳng ai cấp rơm cho đâu, nhưng gạch vẫn phải làm cho đủ số."
19 Nghe xong những lời đó, các trưởng nhóm người Y-sơ-ra-ên mới ý thức được tình hình vô cùng đen tối của mình.
20,21 Khi lui ra khỏi hoàng cung, họ gặp Mai-sen và A-rôn đang đứng đợi, liền nói: "Xin Thượng Đế xử đoán hai ông, vì hai ông đã làm cho chúng tôi thành ra vật đáng tởm trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. Chính các ông đã trao giáo cho họ đâm chúng tôi."
22 Mai-sen trở về cùng Chúa Hằng Hữu, thưa: "Chúa ơi! Sao Chúa đối xử tàn tệ với dân Ngài thế này? Tại sao Chúa sai con đến đây?
23 Vì từ lúc con đến gặp Pha-ra-ôn nói điều Chúa bảo, vua càng tỏ ra tàn nhẫn với dân Ngài. Thế mà Chúa vẫn không giải cứu dân Chúa."
Thượng Đế Hứa Giải Cứu
1 Chúa Hằng Hữu phán: "Bây giờ con xem Ta ra tay hành hạ Pha-ra-ôn. Ta sẽ ra tay làm cho vua ấy không những để cho dân Ta đi, mà còn sẽ đuổi họ đi gấp nữa."
2,3 Ngài tiếp: "Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp với danh hiệu Thượng Đế Toàn Năng; tuy nhiên, về danh hiệu Chúa Hằng Hữu, Ta không hề cho họ biết.
4 Ta có kết lập giao ước với họ, hứa cho họ xứ Ca-na-an, lúc đó họ còn coi là nơi đất khách quê người.
5 Bây giờ đây, những lời thở than của con cháu Y-sơ-ra-ên trong cảnh nô lệ đọa đày dưới ách Ai Cập nhắc Ta nhớ lại lời hứa mình.
6 Vậy, hãy nói cho con cháu Y-sơ-ra-ên biết rằng: Ta sẽ đưa tay trừng phạt người Ai Cập, giải phóng Y-sơ-ra-ên khỏi sự áp bức, khỏi ách nô lệ.
7 Ta sẽ nhận họ làm dân Ta, và Ta làm Chúa họ. Họ sẽ biết Ta là Chúa Hằng Hữu, Đấng giải phóng họ khỏi tay người Ai Cập.
8 Ta sẽ dẫn họ vào đất Ta hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp; đất ấy sẽ thuộc về họ."
9 Mai-sen nói lại với người Y-sơ-ra-ên mọi lời của Thượng Đế, nhưng họ không nghe, vì tinh thần nặng nề buồn thảm, và thể xác bị hành hạ rạc rời.
10,11 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: "Con đi yết kiến Pha-ra-ôn lần nữa, bảo vua ấy phải để cho dân Y-sơ-ra-ên đi."
12 Nhưng Mai-sen thưa: "Dân Y-sơ-ra-ên đã chẳng nghe con, Pha-ra-ôn lại nghe con sao? Con đâu có tài thuyết phục ai."
13 Lần này, Chúa Hằng Hữu phán với cả Mai-sen lẫn A-rôn, bảo họ phải đi gặp người Y-sơ-ra-ên và Pha-ra-ôn vua Ai Cập, để dàn xếp việc đem người Y-sơ-ra-ên đi.
Gia Phả Ba Đại Tộc Y-sơ-ra-ên
14 Sau đây là danh sách gia trưởng của một số đại tộc Y-sơ-ra-ên:
Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên: Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, Cạt-mi.
15 Các con trai Si-mê-ôn: Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sau-lơ (mẹ ông này là người Ca-na-an).
16 Các con trai Lê-vi, theo thứ tự tuổi tác: Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.
Lê-vi thọ 137 tuổi.
17-19 Sau đây là gia phả nhà Lê-vi:
Ghẹt-sôn có hai con trai là Líp-ni và Si-mê-y.
Kê-hát có bốn con trai là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên.
Kê-hát thọ 133 tuổi.
Mê-ra-ri có hai con trai là Mách-li và Mu-si.
20 Am-ram cưới Giô-kê-bết là cô mình, sinh A-rôn và Mai-sen. Am-ram thọ 137 tuổi.
21 Dít-sê-ha có ba con trai: Cô-rê, Nê-phết và Xiếc-ri.
22 U-xi-ên cũng có ba con trai: Mi-sa-ên, Ên-sa-phan và Sít-ri.
23 A-rôn cưới Ê-li-sê-ba (con gái A-mi-na-đáp, em Na-ha-sôn); các con trai họ là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
24 Các con trai của Cô-rê là Át-si, Ên-ca-na và A-bi-a-sáp.
25 Ê-lê-a-sa con A-rôn cưới con gái Phu-ti-ên; một trong những con trai họ tên là Phi-nê-a.
Đó là các trưởng tộc Lê-vi và gia đình họ.
26 Gia phả trên cho ta biết, qua gốc tích A-rôn và Mai-sen, hai người đã nhận lệnh Chúa Hằng Hữu đem toàn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập.
27 Chính họ đã đi yết kiến Pha-ra-ôn vua Ai Cập, để xin cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi.
A-rôn Làm Phát Ngôn Viên Cho Mai-sen
28,29 Chúa Hằng Hữu cũng đã bảo Mai-sen: "Ta là Chúa Hằng Hữu. Hãy đi gặp Pha-ra-ôn, truyền lại cho vua ấy mọi lời Ta đã bảo."
30 Và lúc ấy, Mai-sen có thưa: "Con ăn nói vụng về, làm sao thuyết phục Pha-ra-ôn được?"
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Ta cho con làm chúa của Pha-ra-ôn, còn A-rôn làm phát ngôn viên cho con.
2 Con thuật cho A-rôn mọi lời Ta bảo; A-rôn sẽ nói lại cho Pha-ra-ôn, để vua này cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập.
3 Nhưng Ta sẽ khiến cho Pha-ra-ôn trở nên ương ngạnh, không cho dân Ta đi, nhân đó Ta càng thực hiện nhiều phép lạ hơn trong nước Ai Cập.
4,5 Tuy nhiên, Pha-ra-ôn vẫn tiếp tục ngoan cố, chẳng xiêu lòng. Và Ta sẽ ra tay trừng trị Ai Cập nặng nề, rồi đem dân Ta ra. Lúc ấy, người Ai Cập mới ý thức được rằng Ta chính là Thượng Đế."
6 Mai-sen và A-rôn làm đúng theo lời Chúa Hằng Hữu bảo họ.
7 Lúc yết kiến Pha-ra-ôn, Mai-sen đã được tám mươi tuổi, còn A-rôn tám mươi ba.
Gậy Hóa Rắn
8 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen và A-rôn:
9 "Khi nào Pha-ra-ôn đòi hỏi các con làm phép lạ để chứng tỏ các con được Thượng Đế sai đến, A-rôn sẽ theo lời Mai-sen quăng gậy xuống đất, gậy sẽ hóa ra rắn."
10 Vậy hai ông đi yết kiến Pha-ra-ôn, làm những điều Thượng Đế bảo họ. A-rôn quăng gậy xuống đất trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. Gậy liền biến ra một con rắn.
11 Pha-ra-ôn ra lệnh triệu tập các thầy pháp và các nhà ảo thuật Ai Cập. Họ đến, dùng pháp thuật, cũng làm được điều A-rôn đã làm.
12 Gậy họ cũng biến thành rắn. Nhưng rắn của A-rôn nuốt rắn của họ đi.
13 Với lòng vẫn không lay chuyển, Pha-ra-ôn không nghe lời hai ông, đúng như Thượng Đế đã nói trước với Mai-sen.
Tai Vạ Thứ Nhất: Máu
14 Chúa Hằng Hữu nhắc lại cho Mai-sen: "Pha-ra-ôn ngoan cố, sẽ tiếp tục từ khước không cho dân Ta đi.
15 Nhưng sáng mai, con cứ đi ra bờ sông gặp vua. Đừng quên cầm theo cây gậy đã biến thành rắn.
16 Tại đó, con sẽ nói với Pha-ra-ôn: 'Chúa Hằng Hữu, Chúa của người Hi-bá, có sai tôi bảo với bệ hạ để cho dân Y-sơ-ra-ên đi phụng thờ Ngài trong sa mạc, nhưng vua đã từ chối.
17 'Bây giờ, Ngài bảo: Ngươi sẽ biết chính Ta là Thượng Đế, vì Ta sai Mai-sen lấy gậy đập nước sông, nước sẽ hóa ra máu.
18 Cá sẽ chết, sông sẽ thối, người Ai Cập sẽ kinh tởm khi uống phải.' "
19 Rồi Chúa Hằng Hữu dặn Mai-sen: "Con bảo A-rôn cầm gậy đưa về hướng các sông, suối, hồ, tất cả các nguồn nước của Ai Cập, kể cả nước đã chứa vào vại đất, vào bình đá. Tất cả nước sẽ biến ra máu."
20 Mai-sen và A-rôn tuân hành lệnh Chúa Hằng Hữu. Trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần, A-rôn đưa cao gậy, đập xuống nước sông Ninh, nước sông biến thành máu.
21 Cá chết, nước thối. Người Ai Cập không uống nước sông được nữa. Khắp Ai Cập, đâu cũng thấy máu.
22 Các thầy pháp Ai Cập dùng pháp thuật cũng biến nước thành máu, cho nên Pha-ra-ôn vẫn ương ngạnh không nghe lời Mai-sen và A-rôn, đúng như Chúa Hằng Hữu đã nói.
23 Vua quay về cung, lòng dửng dưng.
24 Người Ai Cập phải đào giếng dọc bờ sông để lấy nước uống, vì không uống nước sông được.
25 Một tuần lễ trôi qua.
Tai Vạ Thứ Nhì: ếch Nhái
1 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: "Con vào cung gặp Pha-ra-ôn, thưa với vua như sau: 'Chúa Hằng Hữu bảo để cho dân ra đi phụng thờ Ngài.
2 Nếu không, Ngài sẽ sai ếch nhái đến, tràn khắp bờ cõi Ai Cập.
3 Sông ngòi sẽ đầy lúc nhúc ếch nhái. Chúng sẽ nhảy vào cung, vào tận phòng ngủ của vua, đầy cả giường. Trong nước Ai Cập, nhà nào cũng sẽ đầy ếch nhái trong lò, trong bếp, trong cả thùng nhồi bột.
4 ếch nhái sẽ bò lên người của mọi công dân Ai Cập, lên cả mình vua.' "
5 Rồi Chúa Hằng Hữu dặn Mai-sen: "Bảo A-rôn đưa gậy hướng về các sông, suối, hồ, để ếch nhái từ các nơi đó tràn lên khắp Ai Cập."
6 A-rôn vâng lời, và ếch nhái tràn lan khắp nơi trong nước.
7 Các thầy pháp dùng pháp thuật cũng làm cho ếch nhái bò lên, chỉ thêm chật đất.
8 Pha-ra-ôn liền cho đòi Mai-sen và A-rôn đến, nói: "Cầu xin Thượng Đế đi, để Ngài cho ếch nhái lánh xa chúng ta, rồi ta sẽ để cho dân Hi-bá đi phụng thờ Ngài."
9 Mai-sen tâu: "Xin bệ hạ vui lòng cho biết bệ hạ muốn lúc nào ếch nhái rời khỏi Ai Cập, để tôi cầu Thượng Đế cho ếch nhái chết đi đúng lúc ấy, chỉ còn lại ở dưới sông mà thôi."
10 Pha-ra-ôn đáp: "Ngày mai." "Thưa vâng," Mai-sen nói. "Như vậy để bệ hạ biết rằng chẳng có ai như Chúa Hằng Hữu, Chúa của chúng tôi.
11 Trừ dưới sông ra, ếch nhái ở những nơi khác đều sẽ chết hết."
12 Rời cung vua, Mai-sen liền cầu xin Chúa Hằng Hữu về việc này.
13 Chúa thực hiện lời Mai-sen xin. ếch nhái chết la liệt từ trong nhà đến tận ngoài đồng.
14 Người ta dồn xác chúng lại thành từng đống lớn, mùi hôi thối xông lên khắp nơi.
15 Còn Pha-ra-ôn, khi thấy mình đã thoát nạn này, liền trở lòng, chai lì, không chịu cho dân Y-sơ-ra-ên đi, đúng như Chúa Hằng Hữu đã báo trước.
Tai Vạ Thứ Ba: Muỗi
16 Chúa Hằng Hữu lại dạy Mai-sen: "Bảo A-rôn lấy gậy đập đất, cho bụi bay lên; bụi sẽ biến thành muỗi dày đặc trong nước Ai Cập.
17 Hai ông vâng lời Chúa; muỗi tràn lan khắp Ai Cập, đậu đầy người các công dân Ai Cập, và bu đầy mình súc vật của họ.
18 Các thầy pháp thử dùng pháp thuật hóa bụi ra muỗi, nhưng không làm được.
19 Họ tâu Pha-ra-ôn: "Đây là ngón tay của Thượng Đế." Nhưng Pha-ra-ôn ngoan cố, không nghe Mai-sen và A-rôn, như lời Chúa Hằng Hữu đã dạy.
Tai Vạ Thứ Tư: Ruồi Nhặng
20 Sau đó, Chúa bảo Mai-sen: "Sáng mai con dậy sớm, đi ra bờ sông gặp Pha-ra-ôn, thưa với vua rằng: Chúa Hằng Hữu bảo vua tha cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, để họ phụng thờ Ngài.
21 Nếu không, Ngài sẽ sai ruồi nhặng đến. Nhà nào cũng đầy ruồi. Ruồi sẽ bu khắp người vua, quần thần và công dân Ai Cập.
22,23 Nhưng đặc biệt đất Gô-sen sẽ không có ruồi, vì là nơi dân Y-sơ-ra-ên ở. Chúa phân biệt dân Ngài với dân vua. Vua sẽ biết rằng Chúa Hằng Hữu là Chúa của mọi lãnh thổ. Ngày mai, việc này sẽ xảy ra."
24 Chúa Hằng Hữu thực hiện lời Ngài phán. Vô số ruồi nhặng đến thành từng đàn, tàn hại đất Ai Cập, bay vào nhà người Ai Cập, từ vua chí dân.
25 Pha-ra-ôn liền cho đòi Mai-sen và A-rôn đến. Vua nói: "Đem người Hi-bá đi dâng tế lễ cho Thượng Đế của họ đi! Nhưng không được ra khỏi Ai Cập."
26 Mai-sen đáp: "Không được. Chúng tôi dâng cho Thượng Đế các lễ vật người Ai Cập ghê tởm. Nếu chúng tôi dâng lễ trước mặt họ, họ sẽ giết chúng tôi sao?
27 Chúng tôi phải đi sâu vào sa mạc chừng ba ngày đường, và dâng lễ cho Chúa Hằng Hữu tại đó, như Ngài đã bảo chúng tôi."
Pha-ra-ôn Hứa Rồi Nuốt Lời
28 Pha-ra-ôn nhượng bộ: "Thôi được, ta cho đi vào sa mạc, nhưng không được đi xa hơn nữa. Cũng nhớ cầu nguyện cho ta với."
29 Mai-sen hứa: "Tôi sẽ xin Chúa Hằng Hữu cho ruồi nhặng rời Ai Cập. Nhưng xin vua đừng đánh lừa chúng tôi như lần trước."
30 Rời cung vua, Mai-sen xin Chúa Hằng Hữu cho ruồi nhặng rút đi hết.
31 Chúa nhậm lời ông, làm cho ruồi đi hết, không còn lại một con.
32 Nhưng lòng của Pha-ra-ôn lại trở nên chai lì, và ông không cho dân đi.
Tai Vạ Thứ Năm: Súc Vật Bị Dịch
1 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: "Con đi gặp Pha-ra-ôn, nói với vua ấy: Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của người Hi-bá, bảo vua phải để cho dân đi phụng thờ Ngài.
2,3 Nếu không, Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho súc vật bị bệnh dịch. Ngựa, lừa, lạc đà, cùng các loài gia súc khác đều phải chết.
4 Nhưng nạn dịch này chỉ giết hại súc vật của người Ai Cập mà thôi, không một con nào của người Y-sơ-ra-ên bị chết cả.
5 Ngày mai, việc này sẽ xảy ra."
6 Đúng như lời Chúa Hằng Hữu, vừa sáng hôm sau, súc vật của người Ai Cập chết la liệt; nhưng súc vật của người Y-sơ-ra-ên không hề hấn gì cả.
7 Pha-ra-ôn sai người đi quan sát, xem thử có phải súc vật của người Y-sơ-ra-ên đều an toàn cả không. Ngay cả khi biết rõ điều ấy là đúng, Pha-ra-ôn vẫn cứ cố chấp, không để cho người Y-sơ-ra-ên đi.
Tai Vạ Thứ Sáu: Ung Nhọt
8-10 Bấy giờ, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen và A-rôn: "Vốc tro trong lò đầy tay, rồi Mai-sen sẽ tung tro lên trời trước mặt Pha-ra-ôn. Tro sẽ là bụi phủ khắp nước Ai Cập, gây nên mụt nhọt lở lói đầy mình, cả người lẫn thú vật." Mai-sen và A-rôn vâng lời, làm đúng như Chúa Hằng Hữu bảo họ. Ung nhọt nổi lên khắp thân thể của người Ai Cập và trên cả thú vật nữa.
11 Các thầy pháp cũng bị lở lói, không còn đứng trước mặt Mai-sen được nữa.
12 Nhưng Chúa Hằng Hữu khiến lòng Pha-ra-ôn chai đá, không chịu nghe lời Mai-sen và A-rôn, như Chúa đã báo trước.
Tai Vạ Thứ Bảy: Mưa Đá
13 Sau đó, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Sáng mai con dậy sớm, đi gặp Pha-ra-ôn, nói rằng: Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của người Hi-bá, bảo vua để cho dân Y-sơ-ra-ên đi để họ phụng thờ Ngài.
14 Ngài nói: Lần này Ta sẽ giáng tai họa hiểm nghèo khiến cho ngươi, quần thần và mọi công dân Ai Cập đều phải nhận thức rằng không có thần nào khác như Ta trên khắp thế giới.
15,16 Ta có thể tiêu diệt người Ai Cập ngay tức khắc, nhưng Ta không ra tay, vì muốn cho ngươi và cả hạ giới biết quyền năng của Ta.
17,18 Nếu ngươi còn dám ra mặt ngăn cản việc ra đi của dân Ta, thì đúng vào giờ này ngày mai, Ta sẽ giáng một trận mưa đá rất lớn; trong lịch sử Ai Cập chưa hề có trận mưa đá nào lớn như vậy.
19 Bây giờ, ngươi nên cho người dắt súc vật ở ngoài đồng về, vì mưa đá sẽ rơi, giết hại cả người lẫn súc vật còn ở ngoài đồng."
20,21 Quần thần Pha-ra-ôn nghe những lời này, có người lo sợ, vội sai gọi đầy tớ đem súc vật về, nhưng cũng có người dửng dưng, không đếm xỉa đến lời Chúa Hằng Hữu, cứ để đầy tớ và súc vật ở ngoài đồng.
22 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Đưa tay lên trời, mưa đá sẽ rơi xuống khắp nước Ai Cập, trên người, thú vật và cây cỏ."
23,24 Mai-sen cầm gậy đưa lên trời. Chúa Hằng Hữu làm cho sấm động vang trời, chớp nhoáng sáng rực và mưa đá trút xuống dữ dội. Thật là một cảnh khủng khiếp chưa hề thấy trong lịch sử Ai Cập.
25 Cả nước Ai Cập bị tàn phá. Người, súc vật, cây cỏ, mùa màng còn lại ngoài đồng đều bị mưa đá hủy hoại,
26 chỉ trừ Gô-sen, đất cư trú của người Y-sơ-ra-ên, là không bị mưa đá hôm ấy.
Pha-ra-ôn Dịu Giọng Nhưng Lại Cứng Lòng
27 Pha-ra-ôn cho mời Mai-sen và A-rôn vào, nói: "Bây giờ ta nhận biết lỗi mình. Chúa Hằng Hữu phải; còn ta với dân ta đều quấy cả.
28 Xin cầu Chúa Hằng Hữu cho ta, để Ngài chấm dứt sấm sét và mưa đá, rồi ta sẽ cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi lập tức."
29 Mai-sen đáp: "Ra khỏi thành, tôi sẽ đưa tay lên hướng về Chúa Hằng Hữu, sấm sét sẽ lặn, mưa đá sẽ tan. Làm thế để bệ hạ ý thức được rằng Chúa Hằng Hữu nắm quyền khắp hoàn vũ.
30 Tuy nhiên, tôi biết bệ hạ và quần thần vẫn chưa thực tâm kính sợ Ngài."
31 Lúc ấy đúng vào mùa lúa mạch và cây gai trổ hoa, nên lúa mạch và cây gai đều bị mưa đá vùi dập.
32 Còn lúa mì và tiểu mạch không bị hại, vì chưa mọc lên.
33 Như thế Mai-sen rời Pha-ra-ôn, ra ngoài thành, đưa tay lên hướng về Thượng Đế. Sấm sét lặn, mưa đá ngừng, mưa cũng dứt.
34 Vừa thấy thế, Pha-ra-ôn và quần thần lại ương ngạnh, một lần nữa phạm tội nuốt lời hứa.
35 Vậy, Pha-ra-ôn không để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, đúng như lời Chúa Hằng Hữu đã báo trước với Mai-sen.
Tai Vạ Thứ Tám: Châu Chấu
1 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: "Con cứ đi yết kiến Pha-ra-ôn lần nữa, nhưng nên nhớ rằng Ta đã làm cho Pha-ra-ôn và quần thần chai lì, nhân đó Ta sẽ làm thêm nhiều phép lạ khác nữa.
2 Như vậy sau này con được dịp kể lại cho con cháu mình nghe những việc kỳ diệu của Ta, cùng cách Ta đối xử với người Ai Cập, để chúng nó biết rằng Ta là Chúa."
3 Vậy Mai-sen và A-rôn đi gặp Pha-ra-ôn, nói: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của người Hi-bá, hỏi: Bao giờ ngươi mới chịu khuất phục Ta? Ngươi nên để cho dân Ta đi phụng thờ Ta.
4,5 Nếu không, ngày mai Ta sẽ sai châu chấu đến, phủ dày trên Ai Cập đến độ không còn thấy đất được nữa. Châu chấu sẽ cắn phá những gì còn sót lại sau trận mưa đá.
6 Châu chấu sẽ tràn vào cung ngươi, nhà của bầy tôi ngươi và nhà của mọi công dân Ai Cập. Đây là một tai nạn chưa hề thấy trong lịch sử nước ngươi." Nói xong, Mai-sen quay mặt đi ra.
7 Quần thần Pha-ra-ôn tâu: "Đến bao giờ người này mới không còn là mối đe dọa cho dân ta? Bệ hạ không thấy đất nước Ai Cập đã trở nên điêu tàn hay sao? Tâu bệ hạ, cứ cho họ đi phục vụ Chúa Hằng Hữu của họ cho khuất mắt."
8 Sau đó, Mai-sen và A-rôn được mời đến. Pha-ra-ôn nói: "Đi phụng thờ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi, đi! Nhưng phải nói cho ta biết thành phần nào trong dân sẽ ra đi."
9 Mai-sen đáp: "Tất cả nam, phụ, lão, ấu đều ra đi, cùng với cả bầy súc vật, vì tất cả chúng tôi đều phải dự lễ của Chúa Hằng Hữu."
10,11 Nghe thấy thế, Pha-ra-ôn liền nói: "Xin Thượng Đế chứng giám, ta không thể nào để cho các ngươi đem theo cả bầu đoàn thê tử như thế được. Ta hiểu rõ âm mưu trong trí các ngươi rồi. Không, chỉ đàn ông được đi phụng thờ Chúa Hằng Hữu mà thôi. Đó là điều các ngươi đã xin." Vậy, họ đuổi Mai-sen và A-rôn ra.
12 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Dang tay con ra trên đất Ai Cập, đem châu chấu đến. Châu chấu sẽ cắn phá những gì mưa đá còn để lại."
13,14 Mai-sen dang tay đưa gậy ra, Chúa Hằng Hữu làm cho gió đông thổi suốt ngày và đêm đó. Qua sáng hôm sau, gió đông đem châu chấu đến đầy dẫy lãnh thổ Ai Cập. Trong lịch sử nước này, chưa hề có nạn châu chấu nào tai hại đến thế, và trong tương lai cũng sẽ không có như vậy.
15 Châu chấu quá nhiều đến nỗi chúng bay phủ mặt đất, bay rợp cả trời, che hết ánh nắng. Chúng cắn hại rau cỏ và cây cối còn sót lại sau trận mưa đá, làm cho không còn cây lá xanh tươi gì nữa.
16 Pha-ra-ôn vội vã mời Mai-sen và A-rôn đến, nói: "Ta có tội với Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi, và cũng có tội với các ngươi nữa.
17 Xin tha lỗi cho ta lần này nữa mà thôi, và cầu giùm với Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi, để Ngài thu tai họa hiểm nghèo này lại."
18 Mai-sen rời Pha-ra-ôn, cầu khẩn Chúa Hằng Hữu.
19 Chúa Hằng Hữu cho gió tây thổi rất mạnh, đùa hết bầy châu chấu xuống Biển Đỏ. Trên khắp đất nước Ai Cập không còn lại một con nào.
20 Nhưng Chúa Hằng Hữu lại làm cho lòng Pha-ra-ôn chai lì, không cho dân Y-sơ-ra-ên đi.
Tai Vạ Thứ Chín: Tối Tăm
21 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Đưa tay con lên trời, Ai Cập sẽ tối tăm."
22 Mai-sen đưa tay lên, bóng tối dày đặc phủ khắp Ai Cập suốt ba ngày.
23 Trong ba ngày ấy, người Ai Cập không đi đâu được cả; nhưng nơi người Y-sơ-ra-ên ở vẫn có ánh sáng như thường.
24 Pha-ra-ôn mời Mai-sen đến, nói: "Đi thờ phụng Chúa Hằng Hữu đi! Các ngươi được phép đem cả trẻ con đi nữa, nhưng phải để bầy súc vật ở lại."
25 Mai-sen đáp: "Bệ hạ phải để cho chúng tôi đem theo các lễ vật và con sinh làm tế lễ thiêu dâng lên cho Chúa Hằng Hữu.
26 Cả bầy súc vật sẽ đi theo chúng tôi, dù một cái móng cũng không thể để lại, vì chúng tôi sẽ dùng chúng làm lễ vật dâng lên Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế chúng tôi. Hiện nay chúng tôi chưa biết con nào sẽ được chọn, chỉ khi đến nơi mới biết được."
27 Vào lúc ấy, Chúa Hằng Hữu lại làm cho lòng Pha-ra-ôn chai đá, vua không cho dân Y-sơ-ra-ên đi.
28 Pha-ra-ôn đuổi Mai-sen: "Đi ra! Đừng bao giờ nhìn mặt ta nữa. Ngày nào ngươi trở lại gặp ta, ngày đó ngươi sẽ chết."
29 Mai-sen đáp: "Đúng! Tôi sẽ chẳng thấy mặt bệ hạ nữa đâu."
Báo Trước Tai Vạ Thứ Mười
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Ta sẽ giáng một tai họa cuối cùng trên Pha-ra-ôn và trên đất nước Ai Cập, rồi Pha-ra-ôn sẽ cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi; thực ra, không phải cho ra đi, mà sẽ đuổi đi gấp.
2 Con dặn bảo dân chúng, cả nam lẫn nữ, đều nhớ xin những người láng giềng Ai Cập các vật phẩm và nữ trang bằng vàng và bằng bạc."
3 Chúa Hằng Hữu làm cho người Ai Cập có cảm tình với người Y-sơ-ra-ên; còn Mai-sen được quốc dân và quần thần Ai Cập xem là một vĩ nhân.
4 Mai-sen nói: "Xin quý vị lắng tai nghe lời Chúa Hằng Hữu: 'Vào quãng giữa đêm nay, Ta sẽ tuần hành Ai Cập.
5 Tất cả con trưởng nam của người Ai Cập sẽ chết, từ thái tử cho đến con của người nô lệ hèn hạ nhất; thậm chí con đầu lòng của súc vật họ cũng chết hết.'
6 Tiếng khóc bi thương ai oán sẽ vang khắp Ai Cập. Từ xưa, việc này chưa xảy ra bao giờ; trong tương lai cũng sẽ chẳng xảy ra nữa.
7 Nhưng người Y-sơ-ra-ên và thú vật của họ đều bình an vô sự, dù chó cũng chẳng lên tiếng sủa, để quí vị thấy rõ rằng Chúa Hằng Hữu phân biệt họ với người Ai Cập."
8 Mai-sen tiếp: "Quần thần của bệ hạ sẽ chạy đến, quỳ lạy van xin tôi: 'Xin các ông đi cho!' Đến lúc ấy, tôi mới đi." Nói xong, Mai-sen đùng đùng bước ra khỏi cung điện Pha-ra-ôn trong cơn nóng giận.
9 Trước đó, Chúa Hằng Hữu có bảo Mai-sen: "Pha-ra-ôn sẽ không chịu nghe lời con, chính vì thế mà Ta có dịp làm thêm nhiều phép lạ trong xứ Ai Cập."
10 Cho nên, dù Mai-sen và A-rôn đã làm nhiều phép lạ ngay trước mắt Pha-ra-ôn, vua vẫn cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, vì Chúa Hằng Hữu càng khiến cho lòng vua chai lì.
Thiết Lập Lễ Vượt Qua
1 Khi Mai-sen và A-rôn còn ở Ai Cập, Chúa Hằng Hữu phán bảo họ:
2 "Từ nay về sau, tháng này sẽ được kể là tháng thứ nhất, tức là tháng giêng trong năm.
3,4 Phải công bố cho toàn dân Y-sơ-ra-ên biết, vào ngày mồng mười tháng này, mỗi gia đình sẽ bắt một con cừu hay một con dê. Nếu gia đình có ít người, sẽ chung với một gia đình ít người khác trong vòng láng giềng, tính thế nào cho có đủ người ăn hết thịt.
5 Con cừu hay con dê này phải là một con đực, một tuổi, hoàn toàn tốt lành.
6,7 Đợi đến chiều tối ngày mười bốn tháng giêng, mỗi gia đình sẽ giết con vật đã chọn, lấy huyết nó bôi lên khung cửa (hai thanh dọc hai bên và thanh ngang bên trên cửa). Vậy, mỗi nhà phải lấy huyết con cừu mình sẽ ăn thịt đem bôi lên khung cửa nhà mình.
8 Đêm ấy, mỗi người sẽ ăn thịt cừu quay với bánh không men và rau đắng.
9 Phải quay nguyên cả con cừu trên lửa, kể cả đầu, chân và bộ lòng. Đừng luộc thịt chín hoặc tái mà ăn.
10 Đừng để dành gì cả. Nếu ăn còn thừa, sáng hôm sau phải đốt đi.
11 Ngày ấy sẽ được gọi là ngày lễ Vượt Qua của Chúa Hằng Hữu. Người ăn lễ phải thắt lưng gọn gàng, tay cầm gậy, chân mang giày, ăn vội vàng.
12 Đêm ấy, Ta sẽ lướt qua Ai Cập; tất cả các con trưởng nam của dân này sẽ bị giết, luôn cả con đầu lòng của thú vật họ. Ta cũng sẽ trừng phạt các thần của Ai Cập, vì Ta là Chúa Hằng Hữu.
13 Huyết bôi trên khung cửa đánh dấu nhà các ngươi ở. Trong cuộc trừng phạt Ai Cập, khi thấy huyết ở trước nhà nào, Ta sẽ bỏ qua nhà ấy.
14 Từ nay trở đi, hằng năm các ngươi phải giữ lễ này để kỷ niệm ngày Chúa Hằng Hữu giải cứu mình.
15 Thời gian hành lễ là bảy ngày. Trong suốt bảy ngày đó, phải ăn bánh không men. Ai ăn bánh có men sẽ bị trục xuất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên.
16 Trong ngày thứ nhất và ngày thứ bảy, sẽ có cuộc hội họp thánh. Không ai được làm việc trong mấy ngày đó, trừ ra việc bếp núc.
17 Vậy, đây là ngày lễ bánh không men các ngươi phải giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác, để kỷ niệm ngày Ta giải thoát các ngươi khỏi Ai Cập.
18 Các ngươi chỉ ăn bánh không men từ tối ngày mười bốn cho đến tối ngày hai mươi mốt tháng giêng.
19 Trong bảy ngày ấy, không ai được giữ bánh có men trong nhà, vì nếu ai ăn bánh có men, dù là người Y-sơ-ra-ên hay người ngoại kiều, sẽ bị trục xuất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên.
20 Vậy, nhớ ăn bánh không men, đừng đụng đến vật gì có men cả."
21 Mai-sen họp các bô lão Y-sơ-ra-ên lại, bảo họ: "Các ông lo chọn một số cừu tùy theo số gia đình, để nhân dân giết cừu hành lễ Vượt Qua.
22 Phải hứng huyết cừu trong chậu, lấy một bó bài hương thảo nhúng vào huyết, đem bôi lên khung cửa (hai thanh dọc và một thanh ngang bên trên cửa). Đêm đó, không ai được ra khỏi nhà.
23 Trong cuộc trừng trị Ai Cập, khi Chúa Hằng Hữu đi ngang qua nhà nào có vết máu bôi trên khung cửa; Ngài sẽ vượt qua, không cho kẻ hủy diệt vào nhà ấy.
24 Việc hành lễ này trở thành một luật vĩnh viễn, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
25,26 Về sau, khi Chúa Hằng Hữu đã cho các ông vào đất hứa, và khi các ông kỷ niệm ngày này, nếu con cháu có hỏi: 'Ý nghĩa của lễ này là gì?'
27 Các ông sẽ đáp: 'Đây là ngày kỷ niệm Chúa Hằng Hữu giải cứu chúng ta. Trong cuộc trừng phạt Ai Cập, Ngài đã bỏ qua nhà của người Y-sơ-ra-ên, không giết hại chúng ta.' Nghe Mai-sen nói xong, họ cúi đầu thờ lạy.
28 Vậy, người Y-sơ-ra-ên làm mọi điều Mai-sen và A-rôn dạy bảo họ theo lệnh Chúa Hằng Hữu.
29 Nửa đêm hôm ấy, Chúa Hằng Hữu đánh phạt các con trưởng nam của người Ai Cập, từ thái tử cho đến con trưởng nam của tù nhân trong ngục tối, luôn cả con đầu lòng của thú vật họ nữa.
30 Pha-ra-ôn, quần thần và mọi công dân Ai Cập đều chợt thức giấc lúc nửa đêm, vì có tiếng khóc than ai oán vang lên khắp nơi; chẳng nhà nào trong cả nước mà không có người chết.
Ra Đi
31 Ngay đêm ấy, Pha-ra-ôn đòi Mai-sen và A-rôn đến, nói rằng: "Xin đi khỏi chúng ta! Tất cả dân Y-sơ-ra-ên cứ đi hết đi, để thờ phụng Chúa Hằng Hữu như các ông đã nói.
32 Cũng đem theo cả bầy súc vật đi nữa, nhưng đừng quên chúc phước lành cho ta."
33 Người Ai Cập hối thúc người Y-sơ-ra-ên phải ra khỏi nước họ lập tức, vì than rằng: "Chúng ta chết cả còn gì!"
34 Người Y-sơ-ra-ên gói luôn cả thùng nhồi bột vào áo, trong thùng còn nguyên cả bột đã nhồi không pha men, rồi vác lên vai đem đi.
35 Họ cũng làm theo lời Mai-sen dặn bảo, xin người Ai Cập các món nữ trang vàng và bạc cùng áo xống.
36 Chúa Hằng Hữu làm cho người Ai Cập rộng lòng, cho người Y-sơ-ra-ên những gì họ xin. Thế là lần này người Ai Cập bị người Y-sơ-ra-ên bóc lột.
37 Vậy dân Y-sơ-ra-ên ra đi, từ Ram-se hướng đến Su-cốt; tổng số độ 600.000, không kể đàn bà và trẻ con; tất cả đều đi bộ.
38 Cũng có nhiều người ngoại tộc cùng đi với họ. Họ dẫn theo vô số súc vật.
39 Dọc đường, họ lấy bột mang theo từ Ai Cập, nướng thành bánh mà ăn. Đó là bột không men họ đã vội vàng bọc theo, khi bị đuổi khỏi Ai Cập, vì lúc ấy không kịp dự bị lương thực gì cả.
40,41 Thời gian người Y-sơ-ra-ên ở Ai Cập là 430 năm. Đúng vào hôm chót của năm thứ 430, toàn thể quân đội của Chúa Hằng Hữu bắt đầu rời Ai Cập.
42 Vào đêm ấy, chính Chúa Hằng Hữu đã giải thoát Y-sơ-ra-ên khỏi Ai Cập. Vậy mỗi năm cứ đến đêm này, dân Y-sơ-ra-ên tổ chức cuộc lễ tri ân Chúa Hằng Hữu.
Quy Tắc Về Lễ Vượt Qua
43 Chúa Hằng Hữu phán dạy Mai-sen và A-rôn rằng: "Đây là các quy tắc về lễ Vượt Qua: Người ngoại tộc không được ăn lễ.
44 Về các người nô lệ dân Y-sơ-ra-ên đã mua, chỉ người nào chịu cắt bì mới được phép ăn lễ.
45 Đầy tớ làm mướn và người ngoại tộc tạm trú không được ăn lễ.
46 Thịt phải ăn nội trong nhà, đừng đem ra ngoài, cũng đừng làm gãy một cái xương nào.
47 Tất cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên đều dự lễ Vượt Qua.
48 Người đàn ông ngoại tộc sống chung trong xã hội Y-sơ-ra-ên muốn dự lễ này thì phải chịu cắt bì, nếu không sẽ không được ăn lễ.
49 Quy tắc này áp dụng chung cho người sinh ra trong đất Y-sơ-ra-ên và cho ngoại kiều tạm trú."
50 Người Y-sơ-ra-ên tuân hành mọi huấn lệnh Chúa Hằng Hữu đã truyền cho Mai-sen và A-rôn.
51 Chính trong ngày đó, Chúa Hằng Hữu dẫn người Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập theo đội ngũ.
Dâng Con Đầu Lòng
1 Chúa Hằng Hữu dạy bảo Mai-sen:
2 "Người Y-sơ-ra-ên phải hiến dâng cho Ta tất cả các con đầu lòng, kể cả con đầu lòng của thú vật, vì chúng nó thuộc về Ta."
3 Sau đó, Mai-sen nói với dân mình: "Chúng ta phải ghi nhớ ngày hôm nay đến muôn đời, vì hôm nay là ngày Chúa Hằng Hữu ra tay toàn năng giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ Ai Cập. Khi kỷ niệm ngày này, không ai được ăn bánh có men.
4,5 Khi Chúa Hằng Hữu đã đem ta vào đất của người Ca-na-an, người Hết, dân A-mo, người Hê-vi và dân Giê-bu rồi (đất này rất phì nhiêu, là đất Chúa Hằng Hữu đã hứa với các tổ tiên), hằng năm phải nhớ kỷ niệm ngày này, là ngày mồng mười tháng giêng.
6,7 Trong bảy ngày, phải ăn bánh không men. Trong toàn lãnh thổ, không ai được giữ men trong nhà mình. Đến ngày thứ bảy, sẽ làm lễ tri ân Chúa Hằng Hữu.
8 Nhân dịp này, nhớ nói cho con cháu biết rằng: 'Ta giữ lễ để ghi nhớ những việc Chúa Hằng Hữu đã làm cho ta khi ra khỏi Ai Cập.'
9 Việc giữ lễ này và việc nhắc nhở luật pháp của Chúa Hằng Hữu sẽ chẳng khác gì dấu ghi trên trán và trên tay, để đừng ai quên rằng chính Chúa Hằng Hữu đã dùng tay toàn năng Ngài đem chúng ta ra khỏi Ai Cập.
10 Vậy, hằng năm, phải nhớ giữ lễ đúng ngày giờ đã ấn định.
11,12 "Khi Chúa Hằng Hữu đã đem toàn dân vào đất Ca-na-an rồi, như lời Ngài đã hứa với các tổ tiên, phải nhớ hiến dâng cho Ngài con trưởng nam và con đực đầu lòng của súc vật mình, vì chúng nó thuộc về Ngài.
13 Phải dùng cừu hoặc dê con để chuộc lại các con lừa đầu lòng; nếu lừa không được chuộc, nó phải bị giết. Dĩ nhiên, ai nấy phải chuộc con trưởng nam mình.
14 Khi nào con cái hỏi cha mẹ: 'Lệ này có ý nghĩa gì?' Thì đáp rằng: 'Chúa Hằng Hữu đã ra tay toàn năng giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ Ai Cập.
15 Khi Pha-ra-ôn ngoan cố không chịu cho chúng ta ra đi, Chúa Hằng Hữu đã đánh phạt các con đầu lòng của Ai Cập, cả con trưởng nam lẫn con đầu lòng của súc vật. Vì thế cho nên ngày nay ta hiến dâng mọi con đầu lòng cho Chúa Hằng Hữu, nhưng ta chuộc con trưởng nam lại.'
16 Lễ này chẳng khác gì dấu ghi trên tay và trên trán để chúng ta nhớ luôn rằng Chúa Hằng Hữu đã dùng tay toàn năng Ngài giải thoát ta ra khỏi Ai Cập."
Đi Ngang Qua Hồng Hải
17,18 Sau khi Pha-ra-ôn để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, Thượng Đế không dẫn họ qua đất Phi-li-tin, là đường ngắn nhất để vào đất hứa. Ngài biết rằng khi gặp chiến tranh, họ có thể đổi ý mà quay về Ai Cập, mặc dù họ đã được vũ trang khi rời Ai Cập. Do đó Chúa dẫn họ qua Hồng Hải, đi vào lối sa mạc.
19 Mai-sen đem hài cốt của Giô-sép theo, vì Giô-sép có buộc con cháu Y-sơ-ra-ên thề hứa dời hài cốt ông khi ông trối: "Chắc chắn Thượng Đế sẽ thăm viếng dân ta, vậy khi ra khỏi Ai Cập, phải nhớ đem hài cốt ta theo."
20 Rời Su-cốt, họ dừng chân đóng trại tại Ê-tam, ven sa mạc.
21 Ban ngày Chúa Hằng Hữu dẫn lối họ bằng một trụ mây; ban đêm bằng một trụ lửa. Như vậy, họ có thể ra đi bất kể đêm ngày.
22 Trụ mây và trụ lửa chẳng bao giờ cách xa họ.
Pha-ra-ôn và Quân Đội Ai Cập Đuổi Theo
1 Lúc ấy, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen:
2 "Ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên quay lại về hướng Phi-ha-hi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, ngang Ba-anh Sê-phôn, rồi đóng trại dọc bờ biển tại đó.
3 Làm như thế để Pha-ra-ôn nghĩ rằng người Y-sơ-ra-ên đã luẩn quẩn, sa mạc mênh mông đã làm họ lạc hướng rồi.
4 Ta sẽ làm cho Pha-ra-ôn lại ngoan cố, đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên. Rồi Ta sẽ rạng danh vì Pha-ra-ôn và quân đội của vua, và toàn dân Ai Cập sẽ biết Ta là Chúa Hằng Hữu." Người Y-sơ-ra-ên làm theo đúng như vậy.
5 Khi hay tin người Y-sơ-ra-ên đã dứt khoát ra đi, Pha-ra-ôn và quần thần liền thay đổi ý kiến đối với dân Y-sơ-ra-ên. Họ hỏi nhau: "Tại sao ta dại dột như thế? Tại sao ta thả cho đám nô lệ ra đi?"
6 Pha-ra-ôn vội lên xe, dẫn quân đuổi theo.
7 Họ huy động sáu trăm chiến xa tốt nhất của Ai Cập, do các sĩ quan điều khiển.
8 Chúa Hằng Hữu làm cho lòng Pha-ra-ôn cứng cỏi, nhất định đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên, trong khi dân này ra đi dưới sự hướng dẫn tối cao.
9 Pha-ra-ôn và quân đội gồm ngựa, xe, lính kỵ, lính bộ đuổi kịp người Y-sơ-ra-ên, gặp họ đang cắm trại dọc bờ biển gần Phi-ha-hi-rốt, ngang Ba-anh Sê-phôn.
10 Trông thấy Pha-ra-ôn dẫn quân đuổi theo gần kịp, người Y-sơ-ra-ên kêu la khiếp đảm, van xin Thượng Đế cứu giúp.
11 Có người quay ra trách móc Mai-sen: "Có phải vì Ai Cập không đủ đất chôn nên ông mới đem chúng tôi vào sa mạc để vùi xác không? Nếu không, tại sao ông bắt chúng tôi bỏ Ai Cập?
12 Lúc còn ở Ai Cập, chúng tôi đã nói trước rằng thà cứ để chúng tôi ở lại làm nô lệ còn hơn ra đi rồi chết trong sa mạc."
13 Nhưng Mai-sen bảo họ: "Đừng sợ! Cứ vững tâm chờ xem Chúa Hằng Hữu hành động. Ngài sẽ ra tay giải cứu chúng ta. Những người Ai Cập hôm nay anh em thấy đó, sẽ không bao giờ thấy lại nữa.
14 Chúa Hằng Hữu sẽ chiến đấu, còn anh em cứ yên lặng."
Rẽ Biển Thành Đường Bộ
15 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Đừng kêu ca nữa, nhưng cứ ra lệnh cho toàn dân tiếp tục đi tới.
16 Rồi con cầm gậy đưa ra trên mặt biển, nước sẽ vạch ra hai bên, chừa lối khô ráo cho người Y-sơ-ra-ên đi qua.
17,18 Ta sẽ làm cho người Ai Cập cứng lòng, một mực đuổi theo Y-sơ-ra-ên xuống biển, và Ta sẽ được hiển vinh chính vì họ, từ Pha-ra-ôn đến quân đội Ai Cập và ngựa xe của họ. Rồi đây toàn dân Ai Cập sẽ biết Ta là Chúa Hằng Hữu."
19 Thiên sứ của Thượng Đế đang đi trước hướng dẫn Y-sơ-ra-ên liền quay lại đi tập hậu; còn trụ mây cũng từ phía trước dời ra sau,
20 đứng án ngữ giữa đôi bên Y-sơ-ra-ên và Ai Cập. Suốt đêm đó, trụ mây đứng che bóng, làm cho người Ai Cập bị tối tăm, nhưng lại rọi sáng cho người Y-sơ-ra-ên. Vì thế hai bên không đến gần nhau được.
21,22 Mai-sen đưa gậy trên biển, Chúa Hằng Hữu liền làm cho nước dồn lại, mở một lối đi băng qua biển. Suốt đêm ấy, gió đông thổi mạnh, đáy biển cạn khô, người Y-sơ-ra-ên đi qua biển như đi trên đất liền. Hai bên lối đi có hai bức thành bằng nước dựng đứng thẳng tắp.
23 Người Ai Cập tiếp tục đuổi theo. Toàn đạo quân Pha-ra-ôn, gồm xe, ngựa, kỵ binh, đều theo lối đi băng biển của người Y-sơ-ra-ên mà tiến tới.
24 Trời gần sáng, từ trong trụ mây và trụ lửa, Chúa Hằng Hữu nhìn xuống quân đội Ai Cập, và làm cho họ rối loạn.
25 Các bánh xe họ bỗng nhiên nặng nề, kẹt cứng. Thấy vậy họ bảo nhau: "Tránh xa người Y-sơ-ra-ên mau lên! Chúa Hằng Hữu thay họ đánh ta!"
Quân Đội Ai Cập Chết Chìm
26 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Bây giờ, con đưa tay trên biển, nước sẽ ào lại chôn vùi người Ai Cập cùng với xe và ngựa của họ."
27 Mai-sen vâng lời và dưới ánh bình minh, nước ào lại, mặt biển trở lại như cũ. Người Ai Cập cố chạy trốn, nhưng đều bị Chúa Hằng Hữu đùa vào lòng biển.
28 Nước nhận chìm người Ai Cập, cùng với ngựa, xe của họ. Trong các quân đoàn của Pha-ra-ôn đuổi theo Y-sơ-ra-ên xuống biển, không một ai sống sót.
29 Nhưng người Y-sơ-ra-ên đã đi qua biển như đi trên cạn, hai bên họ là hai tường thành bằng nước.
30 Vậy, hôm ấy Chúa Hằng Hữu giải cứu người Y-sơ-ra-ên khỏi tay người Ai Cập. Xác người Ai Cập dập dồi dọc bờ biển ngay trước mắt dân Y-sơ-ra-ên.
31 Chứng kiến phép lạ Chúa Hằng Hữu đã làm, người Y-sơ-ra-ên đem lòng kính sợ và tin tưởng nơi Ngài và Mai-sen đầy tớ của Ngài.
Bài Ca Giải Cứu
1 "Ta ca ngợi Chúa Vĩnh Hằng
vì Ngài chiến thắng huy hoàng vẻ vang.
Chúa đưa tay ném vào biển cả
đoàn ngựa chiến lẫn quân k mã.
2 Với ta, Chúa là sức mạnh, bài ca.
Đấng giải cứu là Giê-hô-va.
Chúa là Thượng Đế, ta hằng ca tụng
Là Thượng Đế, tổ tiên ta thờ phụng.
3 Chúa là Danh Tướng anh hùng.
Tự Hữu Hằng Hữu chính là Danh Ngài dùng.
4,5 Ngài ném tướng sĩ và chiến xa xuống biển.
Các sĩ quan Ai Cập tinh luyện
Đều chìm lỉm dưới sóng bạc đầu
Như đá sỏi chìm xuống đáy biển sâu.
6 Lạy Chúa Thánh, cánh tay Ngài vô cùng linh hoạt.
Tay phải Ngài đập quân thù tan nát.
7 Ngài đánh phá địch bằng uy đức vô song.
Lửa giận Ngài thiêu chúng cháy phừng.
8 Nước biển dồn lại
Khí phẫn nộ Ngài thổi nhanh
Khiến nước xây bức thành
Ngay giữa lòng trùng dương man mác.
9 Địch quân nói: 'Ta đuổi theo, đánh giặc
Ta vung gươm chém giết tơi bời,
Chia nhau cướp phá, hả hê cuộc đời.'
10 Nhưng Ngài thổi gió tới.
Chia hàng ngũ quân đội.
Biển vùi lấp họ đi.
Họ chìm nghỉm như chì,
Giữa làn nước mênh mông.
11 Có ai như Chúa Chí Tôn?
Thần nào thánh khiết vô song như Ngài?
Quyền năng, phép tắc vô nhai.
12 Dang tay ra, đất nuốt ngay quân thù.
13 Dân ta được Ngài dắt dẫn,
Lấy lòng thương đưa về đất thánh.
14 Các nước nghe tin đều khiếp kinh.
Hãi hùng xâm chiếm cõi lòng Phân-tin.a
15 Các lãnh tụ Ê-đôm kinh hoảng
Các dũng sĩ Mô-áp cũng run lây
Nhân dân Ca-na-an hồn vía lên mây.
16 Chúa Hằng Hữu ơi, do quyền lực Chúa,
Quân thù đứng trơ như phỗng đá
Khi dân Ngài cứu chuộc đi qua.
17 Được Chúa đem trồng trên Đỉnh Núi
Mà Ngài đã chọn làm nơi ngự.
18 Chúa Hằng Hữu vẫn trị trên ngôi
Cho đến mãi mãi đời đời.
19 Ngựa xe Ai Cập cùng k mã
Đã nằm yên trong lòng biển cả;
Nhưng dân Chúa vẫn kéo quân
Vượt Hồng Hải như qua đất bằng.
Xót thương chinh phụ Aib sầu thảm
Mãi đợi ai về vẫn biệt tăm! "
20 Nữ tiên tri Mỵ-lâm, là chị của A-rôn, đứng ra hướng dẫn các phụ nữ; mỗi người tay cầm trống nhỏ, nhảy múa và ca hát:
21 "Hát lên, ca ngợi Chân Thần
Vì Ngài toàn thắng địch quân bạo tàn
Chiến đoàn k mã kiêu căng
Chôn vùi dưới nước mênh mang Bể Hồng."
Nước Đắng Hóa Ngọt
22 Sau đó, Mai-sen dẫn dân Y-sơ-ra-ên từ Hồng Hải đi đến sa mạc Sua. Trọn ba ngày đường họ không tìm được nước.
23 Khi đến Ma-ra, nước tuy có, nhưng quá đắng không uống được. Chính vì thế mà nơi ấy có tên là Ma-ra (nghĩa là đắng).
24 Dân chúng phàn nàn với Mai-sen: "Chúng tôi lấy gì để uống đây?"
25 Mai-sen kêu cầu Chúa Hằng Hữu. Ngài chỉ cho ông một khúc cây, bảo ông cầm lấy ném vào nước. Nước liền hóa ra ngọt.
Chính tại Ma-ra là nơi Chúa Hằng Hữu đã qui định nguyên tắc sau đây cho dân Y-sơ-ra-ên theo, để thử thách họ:
26 "Nếu các ngươi chuyên tâm lắng nghe tiếng Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế ngươi, thi hành các điều ngay điều phải Ta truyền bảo, tức là dưới mắt Ta vâng giữ điều răn Ta và luật lệ Ta thì các ngươi sẽ không mắc phải một bệnh nào Ta đã giáng trên người Ai Cập, vì Ta là Chúa Hằng Hữu, Đấng chữa bệnh các ngươi."
27 Rồi họ đi đến Ê-lam, là nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là, và đóng trại bên cạnh các suối nước đó.
Bánh Ma-na và Chim Cút
1 Bỏ Ê-lim, toàn dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục lên đường, đến sa mạc Sin (giữa Ê-lim và núi Si-nai) vào ngày mười lăm tháng hai, tính từ ngày ra khỏi Ai Cập.
2 ễ đó, toàn dân Y-sơ-ra-ên lại phàn nàn Mai-sen và A-rôn,
3 nói rằng: "Chẳng thà chúng tôi cứ ở lại Ai Cập mà ăn thịt bánh no nê, rồi dù có bị Chúa Hằng Hữu giết tại đó đi nữa, cũng còn hơn theo hai ông vào giữa sa mạc này để chết đói!"
4 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Ta sẽ làm bánh rơi xuống từ trời như mưa. Ngày ngày, mỗi người sẽ đi ra nhặt bánh; nhưng chỉ nhặt đủ ăn trong ngày. Ta muốn thử xem họ có vâng lời Ta không.
5 Ngày thứ sáu họ phải nhặt gấp đôi số bánh hằng ngày."
6 Vậy, Mai-sen và A-rôn nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên: "Chiều hôm nay, mọi người sẽ nhận biết chính Chúa Hằng Hữu đã dẫn dân ta ra khỏi Ai Cập;
7-9 rồi đến sáng, sẽ chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa Hằng Hữu, vì Ngài có nghe lời phàn nàn oán trách rồi. Thực ra, anh em đã oán trách Chúa Hằng Hữu chứ không phải phàn nàn chúng tôi, vì chúng tôi là ai? Buổi chiều Chúa sẽ cho thịt; buổi sáng cho bánh để mọi người ăn dư dật. Bây giờ, toàn dân hãy đến đây trước mặt Chúa Hằng Hữu"
10 Trong khi A-rôn còn đang nói, bỗng, về phía sa mạc, vinh quang của Chúa Hằng Hữu chói lọi trong áng mây.
11,12 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Ta đã nghe lời họ phàn nàn. Con cho họ hay rằng buổi chiều họ sẽ có thịt, buổi sáng có bánh ăn dư dật để họ biết Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của họ."
13 Chiều hôm ấy, chim cút bay đến vô số, bao phủ cả trại. Đến sáng, chung quanh trại có một lớp sương dày.
14 Lớp sương tan đi, để lại trên mặt cát sa mạc những hạt nhỏ và mịn.
15 Người Y-sơ-ra-ên trông thấy, hỏi nhau: "Vật gì vậy?" Mai-sen nói: "Đó là bánh Chúa Hằng Hữu cho dân ta."
16 Ông tiếp: "Chúa Hằng Hữu dạy mỗi người thu nhặt bánh ấy tùy theo nhu cầu của gia đình mình, chừng một ô-me mỗi đầu người."
17,18 Người Y-sơ-ra-ên bắt đầu đi ra nhặt bánh, ước chừng hai lít cho mỗi người. Nhưng dù có ai nhặt nhiều cũng không thừa; ai nhặt ít cũng không thiếu. Mỗi người nhặt đủ cho mình ăn.
19 Mặc dù Mai-sen có căn dặn: "Đừng ai để dành bánh đến ngày mai,"
20 có người vẫn không vâng lời, để bánh lại đến sáng hôm sau; bánh hóa sâu, hôi hám. Vì thế, Mai-sen giận họ.
21 Cho nên, cứ sáng ra, người ta đi nhặt bánh vừa đủ ăn trong ngày; và khi nắng chiếu nóng mặt đất, bánh liền tan đi.
22 Ngày thứ sáu, người ta nhặt gấp đôi phần bánh ngày thường, mỗi người chừng hai lít. Các bậc huynh trưởng có đến hỏi Mai-sen về việc này,
23 ông đáp: "Theo huấn thị của Chúa Hằng Hữu, ngày mai là ngày Sa-bát thánh dành cho Ngài, mọi người đều nghỉ ngơi. Vậy, hôm nay cứ nấu nướng thừa thãi, để dành một phần cho ngày mai."
24 Phần bánh người ta để dành qua hôm sau theo lời Mai-sen dặn, vẫn tốt lành, không sâu bọ, không hôi hám.
25 Mai-sen nói: "Đó là phần ăn ngày hôm nay, vì hôm nay là ngày Sa-bát của Chúa Hằng Hữu, sẽ không có bánh trên mặt đất.
26 Mọi người sẽ nhặt bánh trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là lễ Sa-bát sẽ không có bánh.
27 Tuy nhiên, cũng có vài người cứ đi nhặt bánh ngày thứ bảy, nhưng chẳng được gì cả.
28 Chúa Hằng Hữu hỏi Mai-sen: "Tại sao những người này không chịu nghe lời Ta?
29 Nên nhớ rằng, Ta cho họ một ngày nghỉ là ngày Sa-bát.
Trong ngày đó, không ai phải ra khỏi nhà làm gì, cứ việc nghỉ ngơi. Vì thế trong ngày thứ sáu, Ta cho lương thực gấp đôi, đủ ăn trong hai ngày."
30 Vậy, người ta đều nghỉ ngơi ngày thứ bảy.
31 Người Y-sơ-ra-ên gọi bánh này là ma-na, nó giống như hạt ngò, sắc trắng, có vị ngọt như bánh mật ong.
32 Mai-sen truyền cho họ lệnh của Chúa Hằng Hữu: "Lấy một ô-mea ma-na để tàng trữ, di lại cho hậu thế thấy thứ bánh Chúa Hằng Hữu dùng để nuôi người Y-sơ-ra-ên trong sa mạc, sau khi rút họ ra khỏi Ai Cập."
33 Vậy, Mai-sen bảo A-rôn lấy một cái bình đổ một ô-me (tức hai lít) ma-na vào, để giữ lại trước mặt Chúa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
34 A-rôn vâng lời, làm theo lệnh Chúa Hằng Hữu truyền cho Mai-sen. Bình ma-na vì thế được để trong "Rương Chứng Cớ."
35 Người Y-sơ-ra-ên ăn ma-na trong suốt bốn mươi năm cho đến khi vào đất Ca-na-an, là nơi họ định cư.
36 Một ô-me bằng một phần mười ê-pha.
Nước Từ Tảng Đá Hô-rếp
1 Người Y-sơ-ra-ên ra đi từng chặng một, theo lệnh của Chúa Hằng Hữu. Từ sa mạc Sin, họ dừng chân đóng trại tại Rê-phi-đim, nhưng ở đây không có nước.
2 Họ gây chuyện với Mai-sen: "Nước đâu cho chúng tôi uống?" Mai-sen hỏi: "Tại sao sinh sự với tôi? Anh chị em muốn thử Chúa Hằng Hữu phải không?"
3 Nhưng vì khát quá, họ lại càu nhàu với Mai-sen: "Tại sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập làm gì? Tại sao ông dẫn chúng tôi, con cái và súc vật chúng tôi đến đây để cùng nhau chết khát?"
4 Mai-sen kêu cầu Chúa Hằng Hữu: "Con phải làm gì đây? Họ gần đến độ lấy đá ném con rồi!"
5,6 Chúa Hằng Hữu bảo ông: "Con đi trước cùng các bô lão, dẫn dân đến Hô-rếp. ở đó, Ta sẽ gặp con tại nơi có một tảng đá lớn. Con sẽ lấy gậy đập tảng đá (gậy này con đã dùng đập nước sông Ninh), và nước sẽ chảy ra cho họ uống." Mai-sen làm đúng lời Chúa bảo, và nước từ tảng đá chảy vọt ra.
7 Ông đặt tên chỗ ấy là Ma-sa và Mê-ri-ba, vì tại nơi này dân Y-sơ-ra-ên đã thử Chúa khi họ nói: "Xem thử Chúa Hằng Hữu có ở với chúng ta không?" Và cũng chính tại đó, họ đã cãi nhau với ông.
Đánh Bại Quân A-ma-léc
8 Lúc ấy, người A-ma-léc kéo quân đến Rê-phi-đim khiêu chiến với Y-sơ-ra-ên.
9 Mai-sen bảo Giô-suê: "Tuyển chọn trong dân một số người ra chiến đấu với quân A-ma-léc. Ngày mai, tôi sẽ cầm gậy Thượng Đế, lên đứng trên đỉnh đồi."
10 Vậy, trong khi Giô-suê dẫn đoàn quân ra chiến đấu với quân A-ma-léc, Mai-sen, A-rôn và Hu-rơ leo lên đỉnh đồi.
11 Suốt thời gian đôi bên giáp trận, hễ khi nào Mai-sen cầm gậy đưa lên, thì Y-sơ-ra-ên thắng thế; nhưng khi ông để tay xuống, bên A-ma-léc lại thắng lợi.
12 Dần dần, tay Mai-sen mỏi. A-rôn và Hu-rơ khuân một tảng đá đến cho ông ngồi, rồi đứng hai bên đỡ tay ông lên cho đến khi mặt trời lặn.
13 Như thế, quân A-ma-léc bị đánh bại dưới lưỡi kiếm Giô-suê.
14 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Con chép việc này vào sách để ghi nhớ, và nói với Giô-suê rằng Ta sẽ tuyệt diệt người A-ma-léc, xóa sạch vết tích của họ dưới trời."
15,16 Mai-sen xây một bàn thờ, đặt tên là "Chúa Hằng Hữu Ni-xi" (nghĩa là "Chúa Hằng Hữu, ngọn cờ của tôi"). Ông bảo: "Giương cao ngọn cờ của Chúa lên! Vì Chúa Hằng Hữu sẽ đánh A-ma-léc từ đời này sang đời khác."
Giê-trô Viếng Thăm Mai-sen
1 Ông gia Mai-sen là Giê-trô, thầy tế lễ tại Ma-đi-an, có nghe về những việc diệu kỳ Thượng Đế đã làm cho Mai-sen và dân Y-sơ-ra-ên, và về cách Ngài đã đem họ ra khỏi Ai Cập.
2-4 Vậy, Giê-trô dẫn vợ Mai-sen là Sê-phô-ra và hai con trai đến (vì trước đó, Mai-sen đã đưa vợ con về nhà ông gia). Đứa con thứ nhất tên là Ghẹt-sôn (vì lúc sinh, Mai-sen nói: "Tôi ở nơi đất khách quê người"), đứa thứ hai tên là Ê-li-ê-se (vì Mai-sen nói: "Thượng Đế của tổ tiên tôi đã giúp đỡ và cứu tôi thoát khỏi lưỡi kiếm Pha-ra-ôn").
5,6 Giê-trô, ông gia Mai-sen, đem Sê-phô-ra và hai cháu đến nơi, khi dân Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại núi Thượng Đế. Giê-trô sai người báo tin cho Mai-sen: "Có ông gia và vợ con anh đến."
7 Mai-sen ra đón ông gia mình, cung kính cúi đầu chào và hôn ông. Họ hỏi thăm nhau sức khỏe rồi cùng nhau vào trại.
8 Mai-sen kể cho ông gia mình nghe mọi việc Chúa Hằng Hữu đã làm cho Pha-ra-ôn và người Ai Cập để cứu người Y-sơ-ra-ên, cũng như tất cả các nỗi khó khăn dọc đường, và cách Chúa đã cứu giúp họ trong mỗi trường hợp.
9 Sau khi nghe nói về những việc Chúa Hằng Hữu đã làm cho Y-sơ-ra-ên, và về việc Ngài giải phóng họ khỏi bạo quyền Ai Cập, lòng Giê-trô hân hoan phấn khởi.
10 Ông nói với con rể: "Cảm tạ Chúa Hằng Hữu, vì Ngài đã cứu con và toàn dân Y-sơ-ra-ên khỏi quyền lực của Pha-ra-ôn và người Ai Cập.
11 Bây giờ cha biết rằng Chúa Hằng Hữu vĩ đại hơn tất cả các thần, vì đã giải thoát dân Ngài khỏi thế lực kiêu cường Ai Cập."
12 Giê-trô dâng lên Thượng Đế các lễ vật và một tế lễ thiêu. Sau đó, họ cùng dùng bữa trước mặt Thượng Đế, có cả A-rôn và các bô lão Y-sơ-ra-ên tham dự.
Giê-trô Góp Ý Kiến
13 Ngày hôm sau, Mai-sen ra ngồi xét xử dân từ sáng đến chiều tối.
14 Giê-trô thấy thế, hỏi Mai-sen: "Con làm gì mà ngồi một mình, còn dân phải đứng đợi từ sáng đến tối thế?"
15,16 Mai-sen đáp: "Trong dân, nếu ai có điều gì thắc mắc, thì đến xin thỉnh ý Thượng Đế; còn nếu ai có việc tranh chấp, con sẽ phân xử đôi bên căn cứ theo luật Thượng Đế, và đồng thời dạy dỗ họ theo đường lối Ngài."
17 Nhưng Giê-trô nói: "Con làm như thế không tiện.
18 Công việc nặng nề quá, một mình con làm sao nổi? Con sẽ kiệt quệ và dân cũng mỏi mòn.
19,20 Cầu xin Chúa Hằng Hữu phù hộ con, và xin con nghe cha khuyên một lời: Con là người đại diện của dân trước mặt Thượng Đế. Con sẽ trình lên cho Ngài mọi việc khó khăn họ gặp để thỉnh ý Ngài. Rồi con sẽ cho họ biết ý Ngài, và dạy dỗ họ dựa trên các nguyên tắc, luật lệ của Thượng Đế, để họ theo đúng đường lối Ngài.
21 Nhưng con nên chọn những người có khả năng, kính sợ Thượng Đế, chân thật, ghét hối lộ; rồi bổ nhiệm họ vào các cấp lãnh đạo, trông coi hàng ngàn, hàng trăm, hàng năm mươi và hàng mười người.
22 Họ sẽ lấy công lý xử dân hằng ngày. Trừ những việc quan trọng họ trình lên con, còn các việc thông thường, họ sẽ xử lấy. Như thế họ san xẻ gánh nặng với con.
23 Nếu con nghe lời cha khuyên và nếu Thượng Đế cho phép, con mới kham nổi trọng trách và dân mới an lòng, đi đến nơi đến chốn."
24 Mai-sen nghe theo lời bàn của ông gia.
25 Ông chọn trong những người có khả năng, chỉ định họ trông coi hàng ngàn, hàng trăm, hàng năm mươi và hàng mười người.
26 Hằng ngày, họ xử lý những việc thông thường; còn việc trọng đại, họ trình lên cho Mai-sen quyết định.
27 Sau đó ít lâu, Giê-trô từ giã Mai-sen trở về xứ mình.
Đến Sa Mạc Si-nai
1 Từ Ai Cập ra đi đúng ba tháng, dân Y-sơ-ra-ên đến sa mạc Si-nai.
2 Họ đi từ Rê-phi-đim đến sa mạc Si-nai, rồi cắm trại đối diện núi.
3 Từ trên núi, Chúa Hằng Hữu gọi Mai-sen; ông liền lên gặp Ngài. Chúa Hằng Hữu bảo ông: "Con lặp lại cho dân Y-sơ-ra-ên nghe những lời này:
4 Các ngươi đã thấy việc Ta làm cho người Ai Cập, cũng đã biết Ta đem các ngươi đến với Ta bằng cách nào, chẳng khác gì dùng cánh đại bàng chở các ngươi.
5 Vậy, nếu các ngươi vâng lời Ta và giữ lời giao ước Ta, các ngươi sẽ là dân riêng của Ta giữa vòng muôn dân trên thế giới, vì cả thế giới đều thuộc về Ta.
6 Các ngươi sẽ là dân thánh, phụ trách việc tế lễ cho Ta. Đó là lời con phải nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên."
7 Mai-sen về, mời các bô lão đến, lặp lại cho họ nghe mọi lời Chúa Hằng Hữu đã dặn.
8 Họ đồng thanh đáp: "Chúng tôi xin làm mọi điều Chúa Hằng Hữu đã dạy bảo." Mai-sen trình lại các lời đó lên Chúa Hằng Hữu.
9 Ngài hứa với Mai-sen: "Ta sẽ đến cùng con trong đám mây dày đặc, để dân sẽ nghe Ta nói với con, và sẽ tin tưởng nơi con mãi mãi.
10,11 Bây giờ con về, bảo dân phải giặt áo xống, giữ mình thanh sạch hôm nay và ngày mai, đến ngày thứ ba phải sẵn sàng để chiêm ngưỡng Ta khi Ta giáng lâm tại núi Si-nai.
12 Con cũng phải vạch đường ranh giới chung quanh núi, cấm không ai được vượt qua, và căn dặn dân: Phải cẩn thận, tuyệt đối không được leo lên núi. Người nào dù chỉ chạm đến chân núi cũng phải tội chết.
13 Đừng ai đụng đến người ấy, nhưng phải ném đá hoặc bắn tên cho chết; dù thú vật cũng phải chết như vậy. Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi, mọi người mới có phép đến gần chân núi."
14 Vậy, Mai-sen xuống núi, bảo dân giữ mình thanh sạch, giặt áo xống.
15 Ông căn dặn họ: "Phải giữ mình thanh sạch từ hôm nay cho đến ngày thứ ba, đừng gần đàn bà."
Thượng Đế Giáng Lâm
16 Đến sáng hôm thứ ba, chớp nhoáng sấm sét nổi lên, một đám mây dày đặc trùm lấy núi, tiếng kèn thổi vang động làm cho mọi người run sợ.
17 Mai-sen dẫn dân ra khỏi trại nghênh đón Thượng Đế. Họ đứng lại dưới chân núi.
18 Khắp núi Si-nai đều có khói phủ kín, bay lên như từ lò lửa hực, vì Chúa Hằng Hữu giáng lâm trên núi như lửa cháy. Cả hòn núi rung động dữ dội.
19 Trong khi tiếng kèn càng lúc càng vang động, Mai-sen bắt đầu nói, và Thượng Đế đáp lại, tiếng vang như sấm.
20 Như vậy, Chúa Hằng Hữu giáng lâm trên đỉnh núi Si-nai, gọi Mai-sen và ông liền lên chầu Ngài.
21 Sau đó, Chúa Hằng Hữu bảo ông: "Con xuống núi nghiêm cấm dân không được vượt ranh giới lên núi tìm xem Thượng Đế, vì như thế họ phải chết.
22 Ngay các thầy tế lễ muốn đến gần Chúa cũng phải giữ mình thanh sạch, nếu không cũng phải chết."
23 Mai-sen thưa: "Chẳng có ai dám lên núi đâu, vì Chúa đã bảo con vạch ranh giới chung quanh núi để phân định vùng đất thánh."
24 Chúa Hằng Hữu bảo: "Con xuống đem A-rôn lên đây. Đồng thời căn dặn các thầy tế lễ và toàn dân không ai được lên núi. Nếu ai bất tuân, thì phải chết."
25 Mai-sen xuống núi căn dặn mọi người theo lời Thượng Đế.
Mười Điều Răn
1 Thượng Đế tuyên bố:
2 "Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của các ngươi, đã giải phóng các ngươi khỏi ách nô lệ Ai Cập.
3 "Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Ta.
4 "Không được làm cho mình tượng của các thú vật bay trên trời, đi trên đất hay lội dưới nước.
5 Không được quỳ lạy hoặc phụng thờ các tượng ấy, vì Ta, Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi, rất k tà. Người nào ghét Ta, Ta sẽ trừng phạt họ, và luôn cả con cháu họ cho đến ba bốn thế hệ.
6 Nhưng người nào yêu kính Ta và tuân giữ điều răn Ta, Ta sẽ thương yêu săn sóc người ấy và con cháu họ cho đến ngàn đời.
7 "Không được dùng tên của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi, một cách bất kính, vì Ta sẽ không tha người làm điều ấy.
8 "Phải giữ ngày Sa-bát làm ngày thánh.
9 Ngươi có sáu ngày để làm công việc,
10 nhưng ngày thứ bảy là ngày thánh dành cho Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế ngươi. Trong ngày ấy, ngươi cũng như con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, súc vật, luôn cả khách trong nhà ngươi, đều không được làm việc gì cả.
11 Vì trong sáu ngày, Chúa Hằng Hữu tạo dựng trời, đất, biển và muôn vật trong đó; đến ngày thứ bảy, Ngài nghỉ. Vậy, Chúa Hằng Hữu chúc phước cho ngày Sa-bát và làm nên ngày thánh.
12 "Phải hiếu kính cha mẹ, như vậy ngươi mới được sống lâu trên đất mà Chúa Hằng Hữu Thượng Đế ban cho.
13 "Không được giết người.
14 "Không được tà dâm.
15 "Không được trộm cướp.
16 "Không được làm chứng dối.
17 "Không được tham muốn nhà cửa, vợ, tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hoặc vật gì khác của người láng giềng."
18 Toàn dân khi nghe tiếng sấm sét, tiếng kèn vang dội, và thấy chớp nhoáng với khói bốc lên từ núi thì run rẩy sợ sệt.
19 Họ đứng tận đàng xa và nói với Mai-sen: "Xin ông cứ bảo lại cho chúng tôi những gì Thượng Đế nói, chúng tôi sẽ vâng lời. Xin Thượng Đế đừng phán trực tiếp với chúng tôi kẻo chúng tôi chết mất!"
20 Mai-sen ân cần đáp: "Anh chị em đừng sợ! Thượng Đế đến đây để chứng tỏ uy quyền của Ngài, để anh chị em không dám phạm tội với Ngài nữa."
21 Khi dân vẫn còn đứng đàng xa, Mai-sen đi khuất vào trong đám mây dày đặc là nơi Thượng Đế ngự.
Mệnh Lệnh về Hình Tượng và Bàn Thờ
22 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen nói lại với dân Y-sơ-ra-ên như sau: "Các ngươi đã nghe thấy rõ ràng Ta nói vọng xuống với các ngươi từ trên trời.
23 Vậy, đừng làm cho mình tượng bằng vàng hay bằng bạc để thờ.
24 Nhưng phải làm một bàn thờ bằng đất để dâng lên cho Ta của lễ thiêu và của lễ tri ân, dùng bò hoặc cừu làm sinh tế.
25 Nếu các ngươi muốn làm bàn thờ bằng đá, phải dùng đá nguyên tảng, vì khi ngươi dùng các dụng cụ để đẽo đá, đá sẽ không còn tinh khiết nữa.
26 Không được leo bậc thang đi lên bàn thờ để cơ thể ngươi không bị lộ liễu.
Luật Về Nô Lệ
1 "Sau đây là những luật lệ khác các ngươi phải tuân giữ:
2 "Nếu ai mua một người Hi-bá làm nô lệ, người nô lệ sẽ phục vụ trong sáu năm; đến năm thứ bảy sẽ được tự do, không cần đóng tiền chuộc.
3 Nếu lúc bắt đầu làm nô lệ người ấy còn độc thân, lúc ra sẽ ra một mình; nhưng nếu đã có vợ từ trước, cả hai vợ chồng đều được tự do.
4 Nếu người nô lệ được chủ cưới vợ cho và nếu họ có con cái, vợ con ông sẽ thuộc về chủ, chỉ có ông được tự do.
5 Nhưng nếu người ấy công nhiên nói rằng: 'Tôi thương chủ và vợ con tôi, thà ở lại còn hơn ra đi tự do.'
6 Người chủ sẽ đem người nô lệ đến trước mặt các thẩm phán, rồi dùng dùi xỏ tai người ấy; người ấy sẽ làm nô lệ trọn đời.
7 "Nếu có người bán con gái mình làm nô tỳ, đến năm thứ bảy, người nữ tỳ sẽ không được tự do.
8 Nếu người chủ đã cưới nàng, sau lại không yêu thích nàng nữa, phải để cho người nhà nàng chuộc lại, chứ không được bán nàng cho người nước ngoài, vì chính chủ đã không trung thành với nàng.
9 Nếu chủ cưới người nữ tỳ cho con trai mình, chủ phải coi nàng như con gái mình vậy.
10 Nếu chủ đã cưới một người nữ tỳ, sau lại cưới vợ khác nữa, chủ không được giảm thức ăn, y phục và tình nghĩa vợ chồng với người vợ thứ nhất.
11 Nếu không làm theo ba điều này, chủ phải để cho nàng đi tự do, không cần đóng tiền chuộc.
12 "Nếu ai ra tay đánh chết người khác, sẽ bị xử tử.
13 Nhưng nếu tai nạn là do Thượng Đế cho xảy ra, chứ không phải do kẻ sát nhân dự mưu, thì Ta có dự liệu một nơi cho kẻ sát nhân ẩn náu.
14 Nếu kẻ sát nhân có dự mưu giết người, thì dù có trốn nơi bàn thờ Ta, Ta cũng bắt ra xử tử.
15 "Ai đánh cha hay mẹ mình phải bị xử tử.
16 "Ai bắt cóc một người, hoặc đem bán đi hoặc giữ lại, phải bị xử tử.
17 "Ai chửi rủa cha mẹ phải bị xử tử.
18 "Nếu hai người cãi nhau và một người lấy đá hay dùng tay đánh, làm người kia tuy không chết nhưng bị thương, phải nằm liệt giường,
19 nếu nạn nhân đứng dậy chống gậy đi ra ngoài được, thì người gây thương tích sẽ được tha, nhưng phải bồi thường thiệt hại, vì nạn nhân không làm việc được trong lúc đau ốm, cùng bồi thường mọi phí khoản khác cho đến khi nạn nhân lành mạnh.
20 "Nếu một người chủ dùng gậy đánh người nô lệ nam hay nữ mình, và người nô lệ chết ngay tại chỗ, thì chủ phải bị trừng phạt.
21 Nhưng nếu người nô lệ còn sống vài ngày sau khi bị đánh, thì chủ khỏi bị trừng phạt, vì người nô lệ thuộc quyền sở hữu của chủ.
22 "Nếu hai người trong lúc đánh nhau, vô tình gây thương tích cho một phụ nữ có mang khiến hư thai, nhưng không gây thiệt hại gì khác, thì người gây thương tích phải bồi thường theo mức chồng phụ nữ này ấn định và được thẩm phán chấp thuận.
23 Nhưng nếu phụ nữ này còn bị thiệt thòi gì khác, thì luật sau đây được áp dụng:
Mạng đền mạng,
24 Mắt đền mắt,
Răng đền răng,
Tay đền tay,
Chân đền chân,
25 Phỏng đền phỏng,
Thương tích đền thương tích,
Vết đòn đền vết đòn.
26 "Nếu chủ đánh mù mắt một người nô lệ, dù nam hay nữ, thì người nô lệ sẽ được tự do vì mắt bị mù.
27 Nếu chủ đánh gãy răng một người nô lệ, dù nam hay nữ, thì người nô lệ sẽ được tự do vì răng bị gãy.
28 "Nếu một con bò báng chết người, dù đàn ông hay đàn bà, thì con bò sẽ bị ném đá cho chết; còn người chủ sẽ được tha.
29 Nhưng nếu con bò có tật hay báng và chủ đã bị cảnh cáo nhưng vẫn không chịu nhốt bò lại, nếu bò này đi báng chết người, dù đàn ông hay đàn bà, thì con bò sẽ bị ném đá cho chết, và chủ bò sẽ bị xử tử.
30 Nếu thân nhân của người chết thuận cho chủ bò chuộc mạng, chủ bò phải chuộc theo giá thân nhân định.
31 Luật trên cũng được áp dụng nếu bò báng chết một vị thành niên trai hay gái.
32 Nếu bò báng chết một người nô lệ, dù nam hay nữ, thì chủ bò phải trả cho chủ người nô lệ ba mươi miếng bạc, và con bò sẽ bị ném đá cho chết.
33 "Nếu ai đào một cái hầm mà không đậy lại, và nếu có con bò hay lừa ngã xuống đó,
34 thì chủ hầm phải trả tiền bồi thường cho chủ súc vật, và con vật chết sẽ thuộc về chủ hầm.
35 "Nếu bò người này báng chết bò người khác, thì hai người chủ sẽ bán con bò sống chia tiền, và chia nhau con bò chết.
36 Nhưng nếu ai đã biết bò mình có tật hay báng mà vẫn không nhốt nó lại, thì người này phải đem bò đền bò, và được giữ con bò chết.
Trách Nhiệm Về Tài Sản
1-4 "Người nào bắt trộm bò, cừu của người khác rồi đem giết hoặc bán đi, thì phải bồi thường. Nếu là bò, một thường năm; nếu là cừu, một thường bốn. Nếu kẻ trộm còn giữ con vật và nó còn sống, dù là bò, lừa hay cừu, thì chỉ phải thường gấp đôi. Nếu kẻ trộm không có gì để bồi thường, thì phải bán mình, vì đã phạm tội trộm.
"Nếu kẻ trộm đang bẻ khóa, cạy cửa xông vào nhà và bị giết chết, thì người giết không có tội. Nhưng nếu việc xảy ra giữa ban ngày, thì người giết phải mang tội sát nhân.
5 "Người nào thả thú vật cắn phá hoa quả mùa màng, làm hư hại đồng ruộng hay vườn nho người khác, thì phải lấy hoa lợi tốt nhất trong đồng ruộng hay vườn nho mình để bồi thường.
6 "Người nào nổi lửa trong đồng ruộng, đốt bụi gai rồi lửa cháy lan sang ruộng người khác, tàn hại mùa màng, dù đã gặt hay chưa gặt, thì phải bồi thường mọi thiệt hại.
7 "Người nào giao tiền bạc hay đồ vật cho người khác giữ, chẳng may bị trộm và tên trộm bị bắt, thì nó phải thường gấp đôi.
8 Nhưng nếu không bắt được kẻ trộm, thì người giữ của phải được dẫn đến trước các thẩm phán để phán định về việc người này có lấy của mình giữ hay không.
9 "Nếu có một người bị mất vật gì - dù là bò, lừa, cừu, áo xống hay bất cứ vật gì khác - và nếu người này quyết đoán rằng một người khác đã lấy, thì phải dẫn cả hai bên đến trước các thẩm phán; người bị phán định là có tội phải bồi thường người kia gấp đôi.
10 "Người nào giao lừa, bò, cừu hay bất kỳ thú vật gì cho người khác giữ, nếu con thú chết, bị thương hoặc chạy mất, và không có ai chứng kiến việc xảy ra như thế nào,
11 thì người giữ con vật phải thề trước Chúa Hằng Hữu rằng mình không chiếm hữu hoặc gây thiệt hại cho thú vật người kia. Như thế, sở hữu chủ phải nhận lời thề đó, và không được đòi bồi thường.
12 Nhưng nếu con vật bị mất trộm, thì người giữ phải bồi thường cho sở hữu chủ.
13 Nếu con vật bị thú rừng cắn xé, thì người giữ phải đem con vật bị xé ra làm bằng chứng và không phải bồi thường.
14 "Người nào mượn một con vật của người khác, chẳng may vật bị thương hoặc chết trong lúc sở hữu chủ không có mặt tại đó, thì người mượn phải bồi thường.
15 Nhưng nếu có mặt sở hữu chủ tại đó, thì người mượn không phải bồi thường. Trường hợp con vật được cho mướn, thì tiền mướn được kể là tiền bồi thường.
Trách Nhiệm Xã Hội
16 "Người nào quyến dụ một người con gái còn trinh chưa kết hôn với ai, và nằm với nàng, thì người ấy phải nộp sính lễ và cưới nàng làm vợ.
17 Nếu cha nàng nhất định từ chối việc hôn nhân này, thì người ấy phải trả một số tiền tương đương với giá trị của sính lễ.
18 "Người nào làm phù thủy phải bị xử tử.
19 "Người nào nằm với một con vật phải bị xử tử.
20 "Người nào dâng tế lễ cho một thần nào khác ngoài Chúa Hằng Hữu phải bị xử tử.
21 "Đừng áp bức ngoại kiều, phải nhớ rằng các ngươi đã là ngoại kiều tại Ai Cập.
22 "Đừng áp bức các góa phụ và trẻ mồ côi.
23,24 Nếu bị áp bức, họ sẽ kêu đến Ta. Khi nghe họ kêu ca, lửa giận Ta sẽ nổi lên, Ta sẽ sai gươm đao diệt các ngươi, như vậy vợ các ngươi sẽ thành góa phụ, con các ngươi thành mồ côi.
25 "Người nào cho một đồng bào nghèo vay tiền, thì không được theo thói cho vay lấy lãi.
26 Nếu ngươi cầm áo xống của người nghèo làm của thế chân, thì phải trả áo lại trước khi mặt trời lặn.
27 Nếu đó là áo duy nhất của người ấy, thì lấy gì để người ấy che thân lúc ngủ? Nếu người ấy kêu đến Ta, thì Ta sẽ động lòng thương, nghe tiếng kêu xin.
28 "Đừng nói xúc phạm đến Thượng Đế, cũng đừng rủa các nhà lãnh đạo nhân dân.
29 "Đừng trì hoãn việc dâng cho Ta một phần mười hoa lợi ngũ cốc và rượu nho. Phải phú dâng cho Thượng Đế con trưởng nam của mình.
30 Con đầu lòng của cừu và bò cũng phải được dâng cho Ta vào ngày thứ tám, sau khi đã để cho ở với mẹ nó bảy ngày.
31 "Vì các ngươi đã dâng hiến đời mình cho Ta,a nên không được ăn thịt của một con vật bị thú rừng cắn xé; thịt ấy phải đem cho chó ăn.
Công Lý Cho Mọi Người
1 "Đừng báo cáo sai sự thực. Đừng hùa theo kẻ ác để làm chứng gian.
2 "Đừng phụ họa theo số đông để làm việc ác. Khi làm nhân chứng trong một vụ kiện, ngươi không được hùa theo số đông đi nghịch công lý;
3 cũng không được thiên vị người nghèo.
4 "Nếu ai gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, thì phải dẫn nó về cho chủ nó.
5 Nếu ai thấy lừa chở nặng phải ngã qu, dù đó là lừa của một kẻ ghét mình, thì phải đỡ lừa dậy, không được làm ngơ.
6 "Trong các vụ kiện liên hệ đến người nghèo, đừng bẻ cong công lý.
7 "Không được cáo gian, đừng để cho người vô tội chịu án tử hình, vì Ta không dung tha việc gian ác đâu.
8 "Đừng nhận hối lộ. Của hối lộ làm mờ mắt người tinh tường, đánh đổ lý lẽ của người ngay.
9 "Đừng áp bức ngoại kiều; các ngươi biết rõ tâm trạng họ như thế nào, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở Ai Cập.
10 "Cứ gieo và gặt trong sáu năm,
11 nhưng qua năm thứ bảy, phải hưu canh, để đất nghỉ. Trong thời gian ấy, các đồng bào nghèo khổ của ngươi sẽ thu nhặt mà sống, còn lại thú đồng được hưởng. Lệ này cũng áp dụng cho các vườn nho và vườn ô-liu.
12 "Các ngươi có sáu ngày để làm việc; qua ngày thứ bảy là ngày nghỉ. Như thế, bò và lừa của các ngươi, cùng với mọi người khác trong nhà, kể cả người làm, kiều dân và nô tỳ, cũng được nghỉ.
13 "Phải tuân theo mọi điều Ta đã dạy bảo. Nhớ không được nhắc đến tên của các thần khác.
Ba Kỳ Lễ Trong Năm
14 "Mỗi năm ba kỳ, các ngươi phải giữ lễ kính Ta:
15 Phải giữ Lễ Bánh Không Men vào tháng giêng, kỷ niệm ngày các ngươi thoát khỏi Ai Cập. Phải ăn bánh không men trong bảy ngày như Ta đã dặn. Mỗi người phải mang một lễ vật dâng cho Ta.
16 "Phải giữ Lễ Gặt Hái.c Các ngươi sẽ dâng hiến các hoa quả đầu mùa của công lao mình.
"Phải giữ Lễ Thu Hoạchd vào cuối năm, sau mùa gặt.
17 Hằng năm trong ba kỳ lễ này, các nam công dân phải đến hầu Thượng Đế.
18 "Không được dâng huyết sinh tế cho Ta chung với bánh có men. Không được dâng mỡ sinh vật đã để qua đêm.
19 "Hãy nhớ đem đến Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu Thượng Đế ngươi, các hoa quả đầu mùa chọn lọc.
"Đừng nấu dê con trong sữa mẹ nó.
Thiên Sứ của Thượng Đế
20 "Đây, Ta sai một Thiên Sứ đi trước các ngươi, để phù hộ các ngươi lúc đi đường, và đưa các ngươi vào nơi Ta đã dự bị.
21 Phải kính trọng và vâng lời Thiên Sứ. Không được phản động chống đối. Thiên Sứ sẽ không bỏ qua tội ngươi đâu, vì Vị này là Đại Diện của Ta.
22 Nhưng nếu các ngươi hết lòng nghe lời thiên sứ, làm mọi điều Ta dặn bảo, thì Ta sẽ nghịch thù kẻ thù nghịch ngươi, chống đối kẻ chống đối ngươi.
23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước, đưa các ngươi vào đất của dân A-mo, dân Hết, dân Phê-rết, dân Ca-na-an, dân Hê-vi và dân Giê-bu; còn Ta sẽ tiêu diệt các dân ấy.
24 "Các ngươi không được thờ lạy và phục vụ thần của các dân ấy, không được bắt chước những điều họ làm. Phải nhất quyết đạp đổ và đập tan thần tượng của họ.
25 Chỉ phục vụ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế ngươi mà thôi, rồi Ta sẽ chúc phước lành cho của ăn nước uống, làm cho bệnh tật lánh xa ngươi.
26 Trong cả nước sẽ không thấy có phụ nữ son sẻ hoặc hư thai; người người vui hưởng trường thọ.
27 "Ta sẽ làm cho các dân tộc trước mặt ngươi kinh hãi, dân các nước thù sẽ quay đầu chạy trốn.
28 Ta sẽ sai ong vò vẽ đánh đuổi dân Hê-vi, dân Ca-na-an, dân Hết khỏi trước mặt ngươi.
29 "Nhưng Ta sẽ không đuổi họ khỏi xứ trong thời hạn một năm đâu. Nếu như thế, đất sẽ thành hoang phế, thú rừng sẽ trở nên quá đông, ngươi không kiểm soát nổi.
30 Ta sẽ đuổi họ từ từ, cho đến khi dân Y-sơ-ra-ên tăng gia đủ để choán đất.
31 Biên giới nước ngươi sẽ chạy từ Hồng Hải tới biển Phi-li-tin, từ sa mạc đến Phát-giang. Ta sẽ nạp các dân sống trong phần đất này vào tay ngươi, và ngươi sẽ đuổi họ ra.
32 "Đừng lập ước với các dân đó hoặc dính líu gì đến các thần của họ.
33 Họ sẽ không được ở trong nước với ngươi, vì sống chung với họ, ngươi sẽ bị nhiễm tội, phụng thờ tà thần của họ và bị họ lừa bẫy."
Chấp Nhận Giao Ước
1 Bấy giờ, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Con đem A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão Y-sơ-ra-ên lên núi, rồi để họ đứng đàng xa thờ lạy.
2 Chỉ một mình con sẽ đến gần Ta. Ngoài ra, không một ai trong dân được lên núi."
3 Khi Mai-sen tuyên cáo với quốc dân các luật lệ Chúa Hằng Hữu truyền cho ông, toàn dân đồng thanh đáp: "Chúng tôi sẽ tuân theo mọi điều."
4 Mai-sen ghi lại tất cả các điều luật đó. Sáng hôm sau ông dậy sớm, dựng một bàn thờ dưới chân núi. Ông cũng dựng mười hai trụ, tượng trưng cho mười hai đại tộc Y-sơ-ra-ên.
5 Ông chỉ định một số thanh niên đi dâng của lễ thiêu và của lễ tri ân cho Chúa Hằng Hữu.
6 Rồi Mai-sen lấy phân nửa huyết của các sinh vật đổ vào một cái chậu; phân nửa kia ông đem rảy trên bàn thờ.
7 Ông cầm Sách Giao Ước đọc cho toàn dân nghe. Họ đáp: "Chúng tôi sẽ tuân theo mọi điều luật của Chúa Hằng Hữu."
8 Mai-sen lấy huyết trong chậu rảy trên dân và nói: "Đây là huyết giao ước Chúa Hằng Hữu đã lập với các ngươi khi Ngài ban bố luật này."
9 Xong rồi, Mai-sen đi cùng với A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão Y-sơ-ra-ên lên núi.
10 Họ được chiêm ngưỡng Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài như có cái bệ bằng ngọc xa-phia, trong như trời xanh.
11 Dù đã thấy Thượng Đế, các nhân vật Y-sơ-ra-ên không bị tiêu diệt, mà lại còn được ăn uống tự nhiên.
12 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Lên đây với Ta và đợi cho đến khi Ta giao cho bảng đá ghi khắc các luật lệ và điều răn để con dùng giáo hóa nhân dân."
13 Vậy Mai-sen cùng với người phụ tá là Giô-suê leo lên núi Thượng Đế.
14 Ông nói với các bô lão: "Các ông ở đây đợi chúng tôi trở lại. Nếu có điều gì, xin cứ hỏi hai ông A-rôn và Hu-rơ đây."
15 Rồi, Mai-sen lên núi, đi khuất vào đám mây.
16 Hào quang của Chúa Hằng Hữu phát ra khắp núi Si-nai. Trong suốt sáu ngày, mây che phủ núi. Ngày thứ bảy, Chúa Hằng Hữu gọi Mai-sen từ trong đám mây.
17 Dân chúng đứng dưới núi nhìn lên, thấy hào quang sáng chói của Chúa Hằng Hữu chẳng khác gì một ngọn lửa hực trên đỉnh núi.
18 Mai-sen vào khuất trong đám mây che đỉnh núi và ở trong đó suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm.
Dâng Hiến Để Làm Đền Tạm
1-7 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Con cho dân Y-sơ-ra-ên biết, nếu ai muốn dâng lễ vật cho Ta, người ấy có thể dâng: vàng, bạc, đồng, chỉ xanh, tím, đỏ, vải gai mịn, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê, gỗ keo, dầu thắp, chất liệu dùng làm dầu xức và hương thơm, bạch ngọc và các thứ ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực.
8 Họ sẽ làm cho Ta một Đền Thánh, và Ta sẽ ở giữa họ.
9 Sau đây, Ta sẽ cho con kiểu mẫu Lều Hội Kiến và các vật dụng trong Đền để con theo đó mà làm.
Rương Giao Ước
10 "Hãy đóng một cái Rương bằng gỗ keo, dài hai thước rưỡi, rộng một thước rưỡi, cao một thước rưỡi.
11 Lấy vàng ròng bọc bên ngoài, lót bên trong và viền chung quanh Rương.
12 Đúc bốn khoen vàng gắn vào bốn góc Rương, mỗi bên hai cái.
13,14 Làm hai cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng, rồi xỏ đòn vào khoen hai bên Rương dùng làm đòn khiêng.
15 Cứ giữ các đòn khiêng trong khoen của Rương, đừng lấy ra.
16 Con sẽ cất trong Rương các bảng Giao Ước Ta sẽ cho con.
17 "Hãy làm một Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng dài hai thước rưỡi, rộng một thước rưỡi.
18,19 Làm hai chê-ru-bim (thiên thần) bằng vàng dát dính liền với Nắp Chuộc Tội, mỗi thiên thần đứng trên một đầu Nắp.
20 Hai thiên thần đứng đối diện nhau, nhìn xuống Nắp Chuộc Tội, xòe cánh che trên Nắp.
21 Đặt Nắp Chuộc Tội trên Rương, trong Rương có để các bảng Giao Ước Ta sẽ cho con.
22 Đây là nơi Ta sẽ gặp con: trên Nắp Chuộc Tội, giữa hai thiên thần, trên Rương Giao Ước. Tại đó Ta sẽ truyền cho con mọi giới luật áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên.
Bàn Bánh Trần Thiết
23 "Hãy đóng một cái bàn bằng gỗ keo, dài hai thước, rộng một thước, cao một thước rưỡi.
24 Dùng vàng ròng bọc bàn và viền chung quanh.
25 Đóng khung chung quanh mặt bàn. Bề rộng của khung bằng một bàn tay. Viền vàng quanh khung.
26,27 Làm bốn khoen vàng đính vào bốn chân, gần khung của mặt bàn, ở bốn góc. Các khoen này dùng để giữ đòn khiêng.
28 Đòn khiêng làm bằng gỗ keo bọc vàng.
29 Cũng làm đĩa, muỗng, bát và bình bằng vàng.
30 Phải luôn luôn có bánh trần thiết trên bàn trước mặt Ta.
Chân Đèn
31 "Hãy làm một chân đèn bằng vàng dát, từ chân cho đến thân. Đài, bầu và hoa của đèn đều dính liền nhau.
32,33 Từ thân mọc ra sáu cành, mỗi bên ba cành. Mỗi cành mang ba hoa hạnh nhân.
34 Thân của chân đèn mang bốn hoa hạnh nhân.
35 Làm một cái đài bên dưới; mỗi hai cành mọc ra từ thân
36 Đài và cành dính liền nhau, làm bằng vàng dát nguyên miếng.
37 Làm bảy cái đèn, đem đặt trên chân đèn thế nào cho ánh sáng chiếu ra đằng trước.
38 Kéo cắt tàn tim đèn và đĩa đựng tàn cũng làm bằng vàng ròng.
39 Một ta-lâng vàng đủ để làm chân đèn và đồ phụ tùng.
40 "Con nhớ làm mọi thứ đúng theo kiểu mẫu Ta cho con xem trên núi này.
Đền Tạm
1,2 "Con hãy dùng mười tấm màn vải gai mịn làm Đền Tạm. Trên màn có thêu hình thiên thần bằng chỉ xanh, tím và đỏ một cách tinh vi khéo léo. Mỗi tấm màn dài hai mươi tám thước, rộng bốn thước.
3 Nối năm tấm màn lại với nhau thành một tấm lớn. Vậy, trại gồm hai tấm lớn, mỗi tấm một bên.
4,5 Kết vòng chỉ xanh dọc theo đường biên của hai tấm lớn, mỗi bên năm mươi vòng, đối diện nhau.
6 Làm năm mươi cái móc bằng vàng để cài vào các vòng. Như vậy, hai tấm lớn được kết lại thành một cái trại làm Đền Tạm.
7 "Nóc Đền Tạm lợp bằng mười một tấm màn lông dê.
8 Mỗi tấm dài ba mươi thước, rộng bốn thước.
9 Nối năm tấm màn lông dê lại với nhau; còn lại sáu tấm cũng nối lại. Riêng tấm thứ sáu được gập đôi lại, phân nửa cho phủ xuống trước Đền.
10,11 Kết năm mươi vòng dọc theo đường biên của hai tấm lông dê lớn. Nối hai tấm này lại với nhau bằng năm mươi móc đồng.
12 Nửa tấm màn lông dê còn dư lại sẽ cho phủ xuống phía sau Đền.
13 Chiều dài thặng dư của các tấm màn lông dê sẽ phủ xuống hai bên hông Đền, mỗi bên một thước.
14 Phủ lên trên nóc trại một lớp da cừu nhuộm đỏ. Bên trên lớp này lại có một lớp da dê.
15,16 "Vách Đền Tạm làm bằng ván cây keo. Mỗi tấm ván dài mười thước, rộng một thước rưỡi, dựng thẳng đứng.
17 Mỗi tấm sẽ có hai cái mộng để ghép vào các lỗ mộng.
18,19 "Dùng hai mươi tấm ván làm vách phía nam Đền Tạm. Dưới mỗi tấm ván, làm hai lỗ mộng bằng bạc. Vậy, phía nam có bốn mươi lỗ mộng.
20,21 Vách phía bắc cũng gồm hai mươi tấm ván. Dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng bạc, cộng bốn mươi lỗ mộng.
22 Vách phía bắc cũng gồm sáu tấm ván.
23 Tại góc của vách phía sau này, dựng thêm hai tấm ván nữa.
24 Hai tấm này sẽ được ghép vào nhau bằng móc cài ở dưới và ở trên.
25 Vậy, vách phía sau có tất cả tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bạc, mỗi tấm hai lỗ.
26,27 "Làm thanh ngang cho vách Đền Tạm cũng bằng gỗ keo, mỗi phía có năm thanh ngang; phía sau, về hướng tây cũng có năm thanh ngang.
28 Thanh chính giữa nằm ngay giữa vách, chạy dài từ đầu này chí đầu kia của Đền.
29 Bọc vàng các tấm ván vách và các thanh ngang. Làm các vòng vàng để xỏ thanh ngang.
30 "Vậy, con cứ theo kiểu mẫu Ta cho xem trên núi này mà dựng Đền Tạm.
31 "May một bức màn bằng vải gai mịn. Dùng chỉ xanh, tím và đỏ thêu hình chê-ru-bim trên màn một cách tinh vi khéo léo.
32 Treo màn này trong Đền. Trên bốn trụ gỗ keo bọc vàng có bốn móc vàng. Trụ được dựng trên bốn lỗ trụ bằng bạc.
33 Màn được móc vào các móc vàng. Phía trong màn là nơi đặt Rương Giao Ước. Màn sẽ phân chia Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh.
34 Rương Giao Ước có Nắp Chuộc Tội đậy bên trên được đặt ở Nơi Chí Thánh.
35 Bên ngoài màn, đặt cái bàn và chân đèn đối diện nhau, bàn về phía bắc, chân đèn về phía nam.
36 "Bức màn cửa Đền may bằng vải gai mịn, dùng chỉ xanh, tím và đỏ thêu tinh vi khéo léo.
37 Màn được treo bằng năm móc vàng trên năm trụ cây keo bọc vàng, trụ được dựng trên lỗ trụ bằng đồng.
Bàn Thờ Tế Lễ Thiêu
1 "Đóng một cái bàn thờ hình vuông bằng gỗ keo, mỗi bề năm thước, cao ba thước.
2 Bốn góc có bốn sừng được gắn dính liền với bàn thờ. Bọc đồng chung quanh bàn thờ và sừng.
3 Thùng đựng tro, xuổng, bồn chứa nước, đinh ba và đĩa đựng than lửa đều làm bằng đồng.
4 Làm một cái rá giữ than bằng lưới đồng, bốn góc rá có bốn khoen đồng.
5 Đặt rá vào bàn thờ, mép nhô ra bên trong bàn thờ sẽ giữ rá cao đến phân nửa bàn thờ.
6,7 Làm đòn khiêng bàn thờ bằng gỗ keo bọc đồng. Xỏ đòn vào các khoen hai bên bàn thờ để khiêng.
8 Bàn thờ được đóng bằng ván, rỗng ở giữa, như kiểu mẫu Ta cho con xem trên núi này.
9,10 "Chung quanh Đền Tạm sẽ có hành lang bao bọc. Hành lang được làm bằng màn vải gai mịn treo trên các trụ đồng. Trụ đồng có các móc bằng bạc và các đai cũng bằng bạc. Hành lang phía nam, dài một trăm thước, có hai mươi trụ đồng dựng trên hai mươi lỗ trụ cũng bằng đồng.
11 Hành lang phía bắc cũng được làm như ở phía nam.
12 Hành lang phía tây dài năm mươi thước, màn được treo trên mười trụ dựng trên mười lỗ trụ.
13 Hành lang phía đông cũng dài năm mươi thước.
14,15 "Hai bên cửa Đền Tạm có hai bức màn, mỗi bức rộng mười lăm thước, treo trên ba trụ dựng trên ba lỗ trụ.
16 "Cửa vào hành lang có một bức màn dài hai mươi thước bằng vải gai mịn thêu chỉ xanh, tím và đỏ. Màn được treo trên bốn trụ dựng trên bốn lỗ trụ.
17 Tất cả các trụ chung quanh hành lang được viền bằng bạc, có móc bằng bạc và lỗ trụ bằng đồng.
18 Vậy, chiều dài của hành lang là một trăm thước, chiều rộng năm mươi thước và chiều cao năm thước, bao bọc bằng vải gai mịn.
19 "Tất cả các dụng cụ dùng trong Đền Tạm, kể cả các cái móc, đều làm bằng đồng.
20 "Con truyền cho dân đem dầu ô-liu nguyên chất đến để đốt đèn trong Đền, đèn này phải cháy sáng luôn.
21 A-rôn và các con trai người phải lo chăm sóc đèn cho sáng luôn cả đêm lẫn ngày trong Lều Hội Kiến, bên ngoài bức màn, trước mặt Chúa Hằng Hữu. Đây là một qui lệ người Y-sơ-ra-ên phải giữ mãi mãi.
Chức Vụ Thầy Tế Lễ
1 "Con đứng ra tấn phong A-rôn anh con, và các con trai A-rôn - Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, Y-tha-ma - làm chức thầy tế lễ để họ phụng thờ Ta.
2,3 Cũng bảo những người được Ta phú cho tài năng và sự khéo léo may áo lễ lịch sự trang trọng cho A-rôn, để mặc trong khi thi hành chức vụ thánh.
4 Bộ áo lễ này gồm có bảng đeo ngực, ê-phót, áo dài, áo lót ngắn tay có kẻ ô vuông, khăn đội đầu và dây thắt lưng. Họ cũng sẽ may áo lễ cho các con trai A-rôn nữa.
Ê-phót
5,6 "Ê-phót được may bằng vải gai mịn, thêu kim tuyến và chỉ xanh, tím, đỏ, một cách tinh vi khéo léo.
7 Ê-phót gồm hai vạt, nối liền nhau bằng hai dải đeo vai.
8 Dây để thắt ê-phót cũng được may bằng vải gai mịn, thêu bằng các loại chỉ dùng để thêu ê-phót.
9 Lấy hai viên bạch ngọc khắc tên của các con trai Y-sơ-ra-ên trên đó,
10 mỗi viên khắc sáu tên, theo thứ tự ngày sinh.
11 Khắc các tên này theo lối khắc con dấu, rồi đem nhận hai viên bạch ngọc vào hai khung vàng.
12 Gắn hai viên ngọc này trên hai vai ê-phót để làm ngọc tưởng niệm các con Y-sơ-ra-ên. A-rôn sẽ mang tên họ làm kỷ niệm trước mặt Chúa Hằng Hữu.
13,14 Làm hai sợi dây chuyền bằng vàng ròng xoắn hình trôn ốc, đem nối vào các khung vàng (trên vai ê-phót).
Bảng Đeo Ngực
15 "Bảng đeo ngực "Công Lý" cũng được làm bằng vải gai mịn thêu kim tuyến và chỉ xanh, tím, đỏ một cách tinh vi khéo léo, như cách làm ê-phót vậy.
16 Bảng này hình vuông, mỗi cạnh một gang tay, may bằng hai lớp vải.
17 Gắn bốn hàng ngọc trên bảng. Hàng thứ nhất: hồng mã não, hoàng ngọc, hồng ngọc;
18 hàng thứ hai: bích ngọc, lam ngọc, kim cương;
19 hàng thứ ba: ngọc phong tín, ngọc mã não, ngọc tím;
20 hàng thứ tư: lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc. Các ngọc này đều được nhận vào khung vàng.
21 Vậy, mười hai viên ngọc tượng trưng cho mười hai đại tộc Y-sơ-ra-ên. Tên của các đại tộc được khắc trên ngọc theo lối khắc con dấu.
22-24 "Hai sợi dây chuyền bằng vàng ròng xoắn hình trôn ốc sẽ nối bảng đeo ngực với ê-phót. Mỗi dây chuyền có một đầu nối với hai khoen vàng gắn ở góc ngoài trên đầu bảng đeo ngực,
25 và một đầu nối với góc ngoài của hai khung vàng có nhận hai viên bạch ngọc trên vai ê-phót.
26,27 Làm thêm bốn khoen vàng, hai khoen gắn ở góc trong, bên dưới của bảng đeo ngực; hai khoen gắn ở đàng trước, phần dưới của dải đeo vai ê-phót, gần chỗ nối với vạt trước, bên trên thắt lưng.
28 Dùng dây màu xanh buộc bảng đeo ngực vào ê-phót tại các khoen vàng vừa kể, để cho bảng đeo ngực sẽ không rời khỏi ê-phót.
29 Như vậy, khi vào Nơi Thánh, A-rôn sẽ mang trước ngực tên các đại tộc Y-sơ-ra-ên (trên bảng đeo ngực "Công Lý"), để làm một kỷ niệm thường xuyên trước mặt Chúa Hằng Hữu.
30 Phải gắn U-rim và Thu-mim vào bảng đeo ngực, để A-rôn đeo trước ngực mình mỗi khi vào Nơi Thánh, trước mặt Chúa Hằng Hữu. Vậy, A-rôn sẽ luôn luôn mang công lý cho dân Y-sơ-ra-ên mỗi khi vào cầu hỏi Chúa Hằng Hữu.
Các Áo Lễ Khác
31 "May áo khoác ngoài ê-phót bằng vải xanh.
32 Giữa áo có một lỗ để tròng đầu vào như cổ của áo giáp, phải viền cổ kỹ càng cho khỏi xơ, rách.
33,34 Dùng chỉ xanh, tím, đỏ thắt trái lựu kết dọc theo gấu áo, xen kẽ với chuông vàng.
35 A-rôn sẽ mặc áo đó mỗi khi vào Nơi Thánh hầu việc Chúa Hằng Hữu. Tiếng chuông vàng sẽ khua khi người ra vào trước mặt Chúa Hằng Hữu; nếu không, người sẽ chết.
36 "Làm một thẻ bằng vàng ròng và khắc trên thẻ theo lối khắc con dấu như sau: 'Thánh cho Chúa Hằng Hữu.'
37,38 Dùng dây màu xanh buộc thẻ trước khăn đội đầu của A-rôn. Vậy, A-rôn sẽ luôn luôn mang thẻ ngay trước trán mình, và như thế người sẽ mang lấy trên mình những tội của người Y-sơ-ra-ên khi họ dâng lễ vật để chuộc lỗi. Lễ vật được nhận, tội được tha, khi A-rôn mang thẻ trên trán lúc người ở trước mặt Chúa Hằng Hữu.
39 "Dệt một áo lót ngắn tay bằng chỉ gai mịn, có kẻ ô vuông. Cũng làm một khăn đội đầu bằng vải gai mịn và một dây thắt lưng thêu.
40 "Cũng may cho các con trai A-rôn áo dài, dây thắt lưng và khăn đội đầu cho trang trọng, lịch sự.
41 Sau khi lấy các bộ áo đó mặc cho A-rôn và các con trai người, con phải làm lễ xức dầu, tấn phong chức tế lễ thánh cho họ để họ phục vụ Ta.
42 Cũng nhớ may quần lót bằng vải gai để họ mặc sát vào người từ bụng đến đùi.
43 A-rôn và các con trai người phải mặc quần này mỗi khi vào Lều Hội Kiến hoặc đến gần bàn thờ trong Đền Thánh; nếu không, họ sẽ mang tội và chết. Đây là một qui lệ áp dụng cho A-rôn và con cháu người mãi mãi.
Tấn Phong Các Thầy Tế Lễ
1 "Sau đây là thủ tục lễ tấn phong chức thầy tế lễ thánh cho A-rôn và các con trai người:
Bắt một con bò tơ đực và hai con cừu đực không tì tích.
2 Lấy bột mì làm bánh lạt không men, bánh ngọt pha dầu không men và bánh kẹp tẩm dầu không men.
3,4 Để các bánh đó trong một cái giỏ, đem đến cửa Đền Tạm cùng với con bò và hai con cừu.
Tại cửa Đền Tạm, lấy nước tắm rửa cho A-rôn và các con trai người sạch sẽ.
5 Lấy bộ áo lễ gồm có áo dài, áo lót ngắn tay, ê-phót, bảng đeo ngực, dây thắt lưng mặc cho A-rôn.
6 Đội khăn lên đầu người, trên khăn có buộc thẻ vàng.
7 Lấy dầu thánh đổ lên đầu, xức cho người.
8,9 Cũng mặc áo dài cho các con trai A-rôn, thắt lưng và đội khăn lên đầu cho họ.
Họ sẽ làm chức thầy tế lễ thánh trọn đời. Đó là thủ tục tấn phong A-rôn và các con trai người.
10,11 "Dắt con bò tơ đực đến để A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó, rồi giết con bò trước mặt Chúa Hằng Hữu tại cửa Đền Tạm.
12 Lấy ngón tay nhúng vào huyết bò, bôi lên sừng bàn thờ; phần huyết còn lại phải đem đổ dưới chân bàn thờ.
13 Lấy tất cả mỡ bọc ruột, túi mật và hai trái bồ dục cùng với mỡ trên bồ dục đem đốt trên bàn thờ.
14 Thịt, da và phân bò đều phải đem ra ngoài trại đốt đi. Đó là của lễ chuộc tội.
15 "Dắt con cừu đực thứ nhất đến để A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó.
16 Con sẽ giết cừu đó, lấy huyết rảy khắp chung quanh bàn thờ;
17 còn thịt nó đem cắt ra từng miếng. Rửa sạch bộ lòng và chân, rồi đem để chung với thịt và đầu.
18 Đem đốt tất cả các phần đó trên bàn thờ. Đó là của lễ thiêu, dùng lửa dâng hương vị lên Chúa Hằng Hữu.
19 "Dắt con cừu đực thứ hai đến để A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó.
20 Con sẽ giết cừu đó, lấy huyết bôi trên trái tai bên phải của A-rôn và các con trai người, trên ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của họ; phần huyết còn lại đem rảy khắp chung quanh bàn thờ.
21 "Lấy một ít huyết trên bàn thờ trộn với dầu xức, đem rảy trên A-rôn và các con trai người, cùng trên áo họ. A-rôn, các con trai và áo xống họ sẽ nên thánh.
22 "Vì đây là con cừu dùng để tấn phong A-rôn và các con trai người, nên con phải lấy mỡ cừu - gồm cả mỡ đuôi, mỡ bọc ruột, cùng túi mật, hai trái bồ dục và mỡ trên bồ dục - với cái đùi phải của con cừu;
23 cũng lấy một ổ bánh, một bánh ngọt pha dầu và một bánh kẹp từ trong giỏ đựng bánh không men ở trước mặt Chúa Hằng Hữu;
24 đem đặt các món này vào tay A-rôn và các con trai người, để họ nâng tay dâng lên trước Chúa Hằng Hữu.
25 Rồi lấy lại các món ấy trong tay họ, đem đốt trên bàn thờ, dùng lửa dâng hương vị lên Chúa Hằng Hữu.
26 "Lấy cái ức của con cừu dùng để tấn phong A-rôn, nâng tay dâng lên trước Chúa Hằng Hữu, sau đó phần này thuộc về con.
27,28 Về sau, khi người Y-sơ-ra-ên dâng lễ vật tri ân cho Chúa Hằng Hữu, cứ theo lệ này dành cái ức và cái đùi cho A-rôn và các con trai người, đó là những phần của con cừu được họ nâng tay dâng lên.
29,30 "Bộ áo thánh của A-rôn sẽ được truyền lại cho con cháu, người kế vị sẽ mặc bộ áo đó trong lễ tấn phong và lễ xức dầu thánh. Người ấy phải mặc bộ áo bảy ngày trước khi vào Nơi Thánh của Lều Hội Kiến để thi hành chức vụ.
31 "Nấu con cừu dùng để tấn phong tại một Nơi Thánh.
32 A-rôn và các con trai người sẽ ăn thịt cừu với bánh trong giỏ tại cửa Lều Hội Kiến.
33 Họ ăn những thức dùng để chuộc tội cho mình trong cuộc lễ tấn phong. Ngoài họ ra, không ai được ăn những thức đó, vì là thức ăn thánh.
34 Nếu thịt và bánh còn thừa lại đến sáng hôm sau, đừng ăn nhưng phải đem đốt đi, vì là thức ăn thánh.
35 "Đó là những thủ tục con phải theo để tấn phong A-rôn và các con trai người. Lễ tấn phong sẽ kéo dài trong bảy ngày.
36 Mỗi ngày phải dâng một con bò tơ đực làm lễ chuộc tội. Phải lau chùi bàn thờ cho sạch sẽ, làm lễ chuộc tội cho bàn thờ và xức dầu thánh, để thánh hóa bàn thờ.
37 Trong bảy ngày liên tiếp, con làm lễ chuộc tội và hiến dâng bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu; bàn thờ sẽ trở nên rất thánh, vật gì đụng đến bàn thờ sẽ được thánh hóa.
Tế Lễ Dâng Hàng Ngày
38 "Mỗi ngày phải dâng trên bàn thờ hai con cừu một tuổi;
39 một con dâng vào buổi sáng, một con vào buổi tối.
40 Cùng với con cừu thứ nhất, dâng ba lít rưỡi bột mịn trộn với một lít rưỡi dầu épa và một lít rưỡi rượu nho dùng để làm lễ quán.
41 Con cừu thứ hai dâng vào buổi tối cùng với bột và dầu làm lễ chay, và rượu nho làm lễ quán. Giống như của lễ buổi sáng, dùng lửa dâng hương vị lên Chúa Hằng Hữu.
42 "Tế lễ hằng ngày này phải được dâng liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác, tại cửa Lều Hội Kiến trước mặt Chúa Hằng Hữu, là nơi Ta sẽ gặp con và nói chuyện với con.
43 Tại đó Ta cũng sẽ gặp dân Y-sơ-ra-ên, và vinh quang của Ta sẽ làm cho nơi này nên thánh.
44 Ta sẽ làm cho Lều Hội Kiến và bàn thờ nên thánh; A-rôn và các con trai người cũng được nên thánh, để làm chức tế lễ phụng thờ Ta.
45 Ta sẽ ở giữa dân Y-sơ-ra-ên, làm Thượng Đế của họ.
46 Họ sẽ biết rằng Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của họ. Ta đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để ở với họ. Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của họ.
Bàn Thờ Xông Hương
1 "Đóng một bàn thờ xông hương bằng gỗ keo.
2 Mặt bàn vuông, mỗi bề một thước, cao hai thước, có các sừng được gắn liền với bàn thờ.
3 Lấy vàng ròng bọc mặt bàn, cạnh bàn, các sừng và viền khắp chung quanh bàn.
4 Làm mỗi bên hai khoen vàng gắn ngay bên dưới đường viền, để giữ đòn khiêng.
5 Đòn khiêng được làm bằng gỗ keo bọc vàng.
6 Bàn thờ này được đặt ở trước bức màn che Rương Giao Ước và Nắp Chuộc Tội, là nơi Ta gặp con.
7 "Mỗi buổi sáng, lúc A-rôn sửa soạn đèn, người sẽ đốt hương thơm trên bàn thờ;
8 và mỗi buổi tối, khi A-rôn đốt đèn, người cũng sẽ đốt hương. Như vậy, hương sẽ được đốt liên tục trước mặt Chúa Hằng Hữu, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
9 Trên bàn thờ này không được đốt hương lạ, cũng không dâng của lễ thiêu, lễ chay hay lễ quán.
10 "Hằng năm, A-rôn sẽ làm lễ chuộc tội bàn thờ, lấy huyết con sinh tế chuộc tội bôi trên sừng bàn thờ. Lễ này phải làm mỗi năm, từ thế hệ này sang thế hệ khác, vì đây là một bàn thờ Chúa Hằng Hữu rất thánh."
Thuế Chuộc Tội
11 Chúa Hằng Hữu dạy Mai-sen:
12 "Khi nào con kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên, mỗi công dân được kiểm tra phải nộp cho Ta một món tiền đền mạng, như thế họ sẽ không bị tai nạn gì trong cuộc kiểm tra này.
13 Mỗi người phải nộp nửa đồng bạc theo tiêu chuẩn tiền tệ của Nơi Thánh.
14 Các công dân từ hai mươi tuổi trở lên sẽ được kiểm tra và nộp tiền này cho Chúa Hằng Hữu.
15 Người giàu không nộp hơn, nghèo không nộp kém, vì đây là một lễ vật mỗi người dâng cho Chúa Hằng Hữu để chuộc tội cho chính mình.
16 Dùng tiền này vào công việc Lều Hội Kiến, trước mặt Chúa Hằng Hữu, để Ta lưu ý và tha tội cho họ."
Bồn Bằng Đồng
17 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen:
18 "Làm một bồn tắm bằng đồng có chân cũng bằng đồng. Đặt bồn giữa Lều Hội Kiến và bàn thờ, rồi đổ nước vào bồn.
19 A-rôn và các con trai người sẽ rửa tay, rửa chân tại đó.
20,21 Họ phải rửa tay và chân mình trước khi vào Lều Hội Kiến hoặc đến gần bàn thờ để dâng tế lễ thiêu cho Chúa Hằng Hữu, nếu không họ sẽ chết. Lệ này áp dụng cho A-rôn và con cháu người, từ thế hệ này sang thế hệ khác."
Dầu Thánh
22-24 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen sưu tầm các hương liệu thượng hạng, gồm có: 500 lạng nhựa thơm nguyên chất, 250 lạng đan quế, 500 lạng quế bì, theo cân Nơi Thánh, cùng với sáu lít dầu ô-liu.
25 Dùng các hương liệu này chế ra một thứ dầu xức thánh, theo phép hòa hương.
26 Dùng dầu này xức lên Lều Hội Kiến, Rương Giao Ước,
27 bàn và dụng cụ của bàn, chân đèn và dụng cụ đốt đèn, bàn thờ xông hương,
28 bàn thờ dâng tế lễ thiêu và dụng cụ của bàn thờ, bồn tắm và chân bồn.
29 Như vậy, các vật này sẽ được thánh hoá, được dành riêng cho Chúa Hằng Hữu, bất kỳ vật gì đụng đến chúng cũng đều được thánh hóa.
30 "Con cũng xức dầu đó cho A-rôn và các con trai người, đặc cử họ làm chức tế lễ thánh phục vụ Ta.
31,32 Bảo cho người Y-sơ-ra-ên biết rằng dầu này là dầu xức thánh của Ta mãi mãi. Không được dùng dầu này xức cho một người thường, cũng không ai được chế dầu theo công thức này để dùng, vì đó là dầu thánh của Ta, cũng là dầu thánh của các ngươi.
33 Người nào chế dầu theo công thức này hoặc dùng dầu này xức cho một người thường sẽ bị trục xuất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên."
Hương Thánh
34 Chúa Hằng Hữu lại dạy Mai-sen: "Dùng các hương liệu gồm có tô hợp hương, loa yểm hương, phong tử hương và nhũ hương nguyên chất, phân lượng bằng nhau;
35 theo phép hòa hợp hương liệu, chế ra một thứ hương để đốt có pha muối. Hương này sẽ là thuần chất và thánh.
36 Đem một ít hương này nghiền ra bột, để một ít bột hương trước Rương Giao Ước, nơi Ta gặp con trong Lều Hội Kiến. Hương này rất thánh.
37 Không ai được làm hương theo công thức này để dùng, vì đây là hương thánh của Chúa Hằng Hữu, cũng là hương thánh của các ngươi.
38 Ai làm hương này cho mình sẽ bị trục xuất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên."
Lựa Chọn Bê-sa-lê và Ô-hô-li-áp
1,2 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Ta đã chọn Bê-sa-lê (con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc đại tộc Giu-đa),
3 cho người này đầy dẫy Thần Linh của Thượng Đế, có trí khôn, khả năng và khéo tay
4 để vẽ kiểu và chế tạo các vật bằng vàng, bạc và đồng,
5 để cắt ngọc, chạm gỗ, và làm mọi công tác nghệ thuật khác.
6 Ta cũng chọn Ô-hô-li-áp (con trai A-hi-sa-mạc, thuộc đại tộc Đan) làm phụ tá cho Bê-sa-lê.
Ngoài ra, Ta còn phú tài năng khéo léo cho một số người khác để họ thực hiện các công tác Ta dặn con làm,
7 gồm có Lều Hội Kiến, Rương Giao Ước, Nắp Chuộc Tội và mọi dụng cụ khác trong Lều Hội Kiến,
8 bàn thờ và đồ phụ tùng, chân đèn bằng vàng ròng và dụng cụ đốt đèn, bàn thờ xông hương,
9 bàn thờ dâng của lễ thiêu và đồ phụ tùng, bồn tắm và chân bồn,
10 bộ áo lễ thánh của thầy tế lễ A-rôn và áo lễ của các con trai người để họ mặc hành chức tế lễ,
11 dầu xức thánh và hương thơm dùng trong Nơi Thánh. Họ phải theo đúng những chỉ thị Ta đã dạy con."
Luật Ngày Sa-bát
12,13 Chúa Hằng Hữu lại dạy bảo Mai-sen: "Bảo dân Y-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát của Ta, vì đây là một dấu hiệu của quy ước giữa Ta và các ngươi, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ giữ ngày này, các ngươi sẽ ý thức được rằng Ta, Chúa Hằng Hữu, đã dành riêng các ngươi cho Ta.c 14- 16 Phải giữ ngày Sa-bát vì là ngày thánh. Làm việc trong sáu ngày, nhưng nghỉ ngày thứ bảy. Ai bất tuân, phải chết: ai làm việc trong ngày Sa-bát sẽ bị xử tử. Vậy, người Y-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát, ngày thánh của Chúa Hằng Hữu. Phải tôn trọng quy tắc này mãi mãi, từ thế hệ này sang thế hệ khác. 17 Đây là một dấu hiệu vĩnh viễn của quy ước giữa Ta và dân Y-sơ-ra-ên. Vì Chúa Hằng Hữu đã sáng tạo trời đất trong sáu ngày; nhưng ngày thứ bảy Ngài nghỉ ngơi và tĩnh dưỡng."
18 Ở trên núi Si-nai, sau khi đã dặn bảo Mai-sen mọi điều, Chúa Hằng Hữu trao cho ông hai bảng "Chứng Cớ," tức là hai bảng đá, trên đó Thượng Đế đã dùng ngón tay Ngài viết các điều răn luật lệ.
Bò Con Vàng
1 Ở dưới núi đợi mãi không thấy Mai-sen xuống, dân chúng mới kéo nhau đến gặp A-rôn và nói: "Xin ông tạo ra một vị thần để hướng dẫn chúng ta vì ông Mai-sen, người đã đem chúng ta ra khỏi Ai Cập, nay chẳng biết ra sao."
2 A-rôn bảo họ: "Anh em tháo các vòng vàng đeo tai của vợ con rồi đem đến đây cho tôi."
3 Vậy, họ đem đến cho ông các vòng đeo tai bằng vàng.
4 A-rôn làm khuôn, nấu vàng và đúc tượng một bò con. Dân chúng thấy tượng bò con liền reo lên: "Y-sơ-ra-ên ơi! Đây là vị thần đã đem chúng ta ra khỏi Ai Cập."
5 Thấy thế, A-rôn liền lập một bàn thờ trước tượng bò con, rồi tuyên bố: "Ngày mai chúng ta ăn lễ mừng Chúa Hằng Hữu."
6 Hôm sau họ dậy sớm, dâng của lễ thiêu và lễ vật tri ân, rồi ngồi xuống ăn uống, và cùng nhau đứng dậy chơi đùa.
7 Vào lúc ấy, Chúa Hằng Hữu phán dạy Mai-sen: "Bây giờ con phải xuống núi, vì đám dân con dẫn ra khỏi Ai Cập nay đã hư hỏng rồi.
8 Họ đã vội rời bỏ đường lối Ta dạy bảo, đúc một tượng bò con, thờ lạy và dâng tế lễ cho nó, mà nói: "Y-sơ-ra-ên ơi! Đây là vị thần đã đem chúng ta ra khỏi Ai Cập."
9 Chúa Hằng Hữu lại nói: "Ta đã rõ dân này lắm, chúng chỉ là một dân cứng đầu cứng cổ.
10 Vậy, con để mặc Ta tiêu diệt họ trong một trận lôi đình, rồi Ta sẽ cho con cháu con thành ra một dân tộc lớn."
11 Nhưng Mai-sen khẩn cầu Thượng Đế: "Lạy Chúa Hằng Hữu, vì đâu trận lôi đình của Ngài lại nổi lên tiêu diệt chính dân Chúa, là dân mà Chúa đã đưa tay toàn năng dẫn dắt ra khỏi xứ Ai Cập?
12 Sao để cho người Ai Cập nói được rằng Chúa cố tình đem họ đi để tiêu diệt họ khỏi mặt đất? Vậy, xin Chúa nguôi giận và bỏ ý định trừng phạt dân Chúa.
13 Xin Chúa nghĩ đến các đầy tớ Chúa là Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên; Chúa có chỉ chính mình mà thề với họ rằng: 'Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi đông như sao trời, Ta sẽ cho chúng nó tất cả đất này là đất Ta đã hứa, và chúng nó sẽ hưởng đất này làm sản nghiệp mãi mãi.' "
14 Chúa Hằng Hữu liền đổi ý, không trừng phạt họ như Ngài đã nói.
15,16 Mai-sen xuống núi, trên tay cầm hai bảng "Chứng Cớ" có viết cả hai mặt. Chính tay Thượng Đế đã viết trên hai bảng đó.
17 Khi Giô-suê nghe tiếng huyên náo, liền thưa với Mai-sen: "Có tiếng quân giao chiến trong trại."
18 Nhưng Mai-sen đáp: "Đó không phải là tiếng reo hò chiến thắng, cũng chẳng phải là tiếng rên la chiến bại, mà là tiếng hát xướng."
19 Khi họ đến gần trại, Mai-sen thấy tượng bò con và cảnh nhảy múa, liền nổi giận, ném hai bảng đá vào chân núi vỡ tan tành.
20 Ông lấy tượng bò con đốt trong lửa, xong đem nghiền nát ra thành bột, rắc trên nước, bắt dân Y-sơ-ra-ên uống.
21 Ông hỏi A-rôn: "Dân này đã làm gì anh mà anh khiến họ mang tội nặng nề thế này?"
22 A-rôn đáp: "Xin ngài nguôi giận, ngài biết dân này rõ quá, họ chỉ chuyên làm điều ác.
23 Họ bảo tôi: Tạo một vị thần hướng dẫn chúng tôi, vì Mai-sen, người đem chúng ta ra khỏi Ai Cập, nay chẳng biết ra sao.
24 Tôi mới bảo họ: Ai có vòng vàng, tháo ra. Vậy họ đưa vàng cho tôi, tôi bỏ vào lửa, mới thành ra con bò con này."
25 Khi Mai-sen thấy dân chúng phóng đãng (vì A-rôn đã để cho họ như vậy, tạo cơ hội cho quân thù chế giễu),
26 liền ra đứng ở cửa trại, kêu gọi: "Ai thuộc về Chúa Hằng Hữu, đến đây với ta!" Tất cả người Lê-vi đều tập họp bên ông.
27 Ông nói với họ: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, bảo: Mỗi người phải đeo kiếm vào, đi đi lại lại từ cửa này đến cửa kia trong trại, và giết sạch mọi người, bất luận anh em ruột, người thân thích, láng giềng."
28 Người Lê-vi vâng lời, và hôm ấy có chừng ba ngàn người chết.
29 Mai-sen bảo người Lê-vi: "Hôm nay anh em đã hiến thân phục vụ Chúa Hằng Hữu, chẳng sá chi đến cả con cái, anh em ruột mình; vậy Chúa sẽ giáng phúc cho anh em."
30 Ngày hôm sau, Mai-sen bảo nhân dân: "Anh chị em đã phạm tội nặng nề. Nhưng bây giờ tôi sẽ lên núi cầu khẩn Chúa Hằng Hữu, mong Ngài tha tội cho anh chị em."
31 Vậy, Mai-sen trở lên gặp Chúa Hằng Hữu, thưa rằng: "Chúa ôi! Dân này đã phạm tội rất nặng, đã tạo cho mình thần bằng vàng.
32 Nhưng xin Chúa tha tội cho họ; nếu không, xin xóa tên con trong sách của Ngài đi."
33 Chúa Hằng Hữu đáp lời Mai-sen: "Người nào phạm tội với Ta, tên người ấy sẽ bị xóa khỏi sách Ta.
34 Còn hiện giờ, con phải dẫn dân đến nơi Ta đã bảo con. Có thiên sứ của Ta đi trước con. Tuy nhiên, đến ngày hình phạt, Ta sẽ phạt tội dân này."
35 Thế rồi Chúa Hằng Hữu giáng tai họa trên dân Y-sơ-ra-ên, vì họ đã thờ lạy tượng bò con A-rôn làm ra.
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Con hãy rời bỏ nơi đây, đem dân này là dân mà con đã dẫn ra khỏi Ai Cập, đi đến đất Ta đã hứa với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp sẽ cho con cháu họ.
2 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước, đuổi dân Ca-na-an, dân A-mo, dân Hết, dân Phê-rết, dân Hê-vi và dân Giê-bu đi.
3 Đây là một vùng đất rất phì nhiêu. Tuy nhiên, Ta sẽ không cùng đi với dân này; e có thể tiêu diệt họ dọc đường, vì họ là một dân ương ngạnh."
4 Khi nghe Mai-sen thuật lại những lời nghiêm khắc này, toàn dân đều than khóc, tháo hết đồ trang sức đang đeo ra.
5 Vì Chúa Hằng Hữu có bảo Mai-sen nói với họ: "Các ngươi là một dân rất ương ngạnh. Nếu Ta đi với các ngươi chỉ một thời gian ngắn, e Ta phải tiêu diệt các ngươi mất. Bây giờ, tháo hết đồ trang sức ra, đợi xem Ta phải quyết định số phận các ngươi thế nào."
6 Thế nên, từ núi Hô-rếp trở đi, dân Y-sơ-ra-ên không còn đeo đồ trang sức nữa.
Lều Hội Kiến
7 Mai-sen dựng một Lều ở bên ngoài và cách xa trại của dân, ông gọi Lều này là Lều Hội Kiến. Trong dân, nếu có ai muốn thỉnh ý Thượng Đế, thì đến nơi này.
8 Mỗi khi Mai-sen đi ra Lều này, mọi người đều đứng lên, từ cửa trại mình nhìn theo cho đến khi ông vào khuất trong Lều.
9 Ngay lúc ông bước vào Lều, trụ mây hạ xuống trước cửa trong khi Chúa Hằng Hữu nói với ông.
10 Khi thấy trụ mây trước cửa Lều, toàn dân đều thờ lạy từ cửa trại mình.
Chúa Hằng Hữu Nói Chuyện với Mai-sen
11 Chúa Hằng Hữu đối diện nói chuyện với Mai-sen như một người nói chuyện với bạn thân. Khi Mai-sen rời Lều về trại, Giô-suê con trai Nun, phụ tá của ông, vẫn ở lại trong Lều.
12,13 Mai-sen thưa với Chúa Hằng Hữu: "Chúa bảo con dẫn dân này đi, nhưng không cho con biết Chúa sẽ sai ai đi với con, tuy Chúa có nói rằng Chúa biết rõ cá nhân con và con được Chúa đoái hoài. Nếu đúng vậy, con cầu xin Chúa hướng dẫn đường đi nước bước, cho con hiểu Ngài và luôn tìm được ân huệ Chúa. Cũng xin Chúa coi dân này là dân của Ngài."
14 Chúa Hằng Hữu đáp: "Chính Ta sẽ đi với con, và cho con được nghỉ ngơi thanh thản nhẹ nhàng."
15 Mai-sen thưa: "Nếu Chúa không đi cùng, xin đừng cho chúng con đi nữa.
16 Làm sao người ta biết được rằng con và dân này được Chúa đoái hoài? Nhưng khi có Chúa đi cùng, con và dân của Ngài sẽ khác hẳn mọi dân tộc khác trên thế giới."
17 Chúa Hằng Hữu đáp: "Ta sẽ làm theo điều con xin, vì cá nhân con được Ta thấu rõ và chiếu cố."
18 Mai-sen lại thưa: "Xin cho con được thấy vinh quang Chúa."
19 Chúa Hằng Hữu đáp: "Ta sẽ phát hiện lòng nhân ái trước mặt con, tuyên hô danh 'Chúa Hằng Hữu' trước con. Ta tỏ lòng từ ái với người Ta muốn từ ái, tỏ lòng thương xót với người Ta muốn thương xót.
20 Nhưng con sẽ không thấy được vinh quang của diện mạo Ta, vì không ai thấy mặt Ta mà còn sống.
21 Tuy nhiên, con hãy đứng lên tảng đá này cạnh Ta.
22 Khi vinh quang Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt con vào khe đá, và lấy tay che con. Cho đến khi Ta qua rồi,
23 Ta sẽ thu tay lại, và con sẽ thấy sau lưng Ta chứ không thấy mặt Ta."
Mai-sen Làm Hai Bảng Đá Mới
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Con đục hai bảng đá như hai bảng trước. Ta sẽ viết lại những lời đã viết trên hai bảng con đập vỡ.
2 Chuẩn bị sẵn sàng để sáng mai lên núi Si-nai, gặp Ta tại đỉnh núi.
3 Không một người nào được đi theo con; cũng không ai được lảng vảng quanh núi. Không được thả thú vật ăn cỏ gần núi."
4 Vậy, Mai-sen đục hai bảng đá như hai bảng trước. Hôm sau ông dậy sớm, lên núi Si-nai như Chúa Hằng Hữu đã dặn, cầm theo hai bảng đá.
5,6 Chúa Hằng Hữu giáng xuống trong đám mây, đứng bên Mai-sen, đi qua trước mặt ông, tuyên hô danh hiệu "Chúa Hằng Hữu: Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế có lòng thương xót, từ ái, chậm giận, đầy bác ái và chân thành.
7 Ta giữ lòng bác ái hàng ngàn đời, tha thứ sự bất chính, vi phạm và tội lỗi; nhưng không để kẻ phạm tội thoát hình phạt, và phạt con cháu họ đến ba bốn đời vì tội cha ông."
8 Mai-sen vội vàng dập đầu xuống đất thờ lạy.
9 Ông thưa với Chúa: "Lạy Chúa Hằng Hữu, nếu con được Chúa đoái hoài, xin Chúa cùng đi với chúng con, dù dân này ương ngạnh. Xin Chúa thứ tha sự bất chính và tội lỗi chúng con, và chấp nhận chúng con làm dân của Chúa."
10 Chúa Hằng Hữu đáp: "Đây, Ta kết ước với con: Trước mắt dân này, Ta sẽ làm những phép lạ chưa hề thấy trên mặt đất; toàn dân Y-sơ-ra-ên sẽ thấy công việc Ta làm cho họ - đó là những việc khủng khiếp.
11 Nhưng mọi người phải nhớ tuân theo những điều Ta truyền dạy đây, rồi Ta sẽ đuổi các dân A-mo, Ca-na-an, Hết, Phê-rết, Hê-vi và Giê-bu, làm họ chạy dài trước mặt các ngươi.
12 "Phải thận trọng, không được kết ước với các dân bản xứ, vì nếu làm vậy, họ sẽ sống chung và trở thành cạm bẫy dỗ dành các ngươi phạm tội.
13 Nhưng phải đập nát bàn thờ, trụ thờ và thần tượng của họ.
14 Các ngươi không được thờ thần nào khác, vì Chúa Hằng Hữu k tà.
15 Tuyệt đối không được kết ước với dân bản xứ, vì khi họ phóng đãng chạy theo tà thần mình, cúng tế lễ vật, sẽ mời các ngươi ăn của cúng thần tượng.
16 Cũng đừng cưới con gái họ cho con trai mình, vì con gái họ vốn phóng đãng, chạy theo các tà thần của họ, và sẽ xúi con trai các ngươi thờ lạy các thần ấy.
17 Các ngươi không được đúc thần tượng.
18 "Phải giữ lễ Bánh Không Men trong bảy ngày như Ta đã dạy con, vào những ngày đã định trong tháng giêng, là tháng Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập.
19 "Phải dâng các con đầu lòng cho Ta. Về thú vật như bò, cừu, dâng con đực đầu lòng.
20 Nếu là lừa, dâng một con cừu con để thay thế; nhưng nếu không thay thế, phải bẻ gãy cổ con lừa. Về con trưởng nam của các ngươi, tất cả phải được chuộc. Không ai ra mắt Ta với hai tay trắng.
21 "Phải nghỉ ngày Sa-bát, dù trong lúc đi cày hay trong mùa gặt; chỉ được làm việc sáu ngày một tuần.
22 "Phải giữ lễ Các Tuần, lễ Gặt Hái đầu mùa và lễ Thu Hoạch vào cuối năm.
23 Vậy, mỗi năm ba lần, toàn nam phái Y-sơ-ra-ên phải đến ra mắt Chúa Hằng Hữu.
24 Sẽ không có ai tranh chiếm đất đai các ngươi trong dịp ra mắt Chúa Hằng Hữu hằng năm ba lần như thế, vì Ta sẽ đuổi các dân tộc khác đi, mở rộng bờ cõi lãnh thổ các ngươi.
25 "Không được dâng bánh có men chung với sinh tế cho Ta; cũng không được để thịt sinh tế lễ Vượt Qua lại cho đến hôm sau.
26 Phải đem dâng vào nhà Ta các hoa quả đầu mùa chọn lọc. Không được nấu thịt dê con trong sữa mẹ nó."
27 Rồi Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Ghi lại những điều Ta vừa ban bố, vì dựa trên những điều này, Ta lập giao ước với con và với Y-sơ-ra-ên."
28 Mai-sen ở trên núi với Chúa Hằng Hữu trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Suốt thời gian này, ông không ăn cũng không uống. Chúa Hằng Hữu viết các qui ước, tức là mười điều răn, vào bảng đá.
Mai-sen Đem Hai Bảng Đá Xuống Núi
29 Sau đó, Mai-sen xuống núi Si-nai, tay cầm hai bảng đá, không biết rằng mặt ông sáng rực vì đã hầu chuyện Thượng Đế.
30 Khi thấy mặt ông sáng như vậy, A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên sợ không dám đến gần.
31 Mai-sen phải gọi A-rôn và các bậc lãnh tụ nhân dân, họ mới dám đến nói chuyện với ông.
32 Sau đó, toàn dân Y-sơ-ra-ên cũng đến gần. Ông truyền lại cho họ các lệnh Chúa Hằng Hữu đã ban bố trên núi Si-nai.
33 Khi đã truyền xong mọi điều, Mai-sen lấy màn che mặt mình lại.
34 Nhưng mỗi khi đi hầu chuyện Chúa Hằng Hữu, ông tháo màn đeo mặt cho đến khi ông trở ra, và truyền lại cho dân những điều Chúa Hằng Hữu dạy bảo.
35 Vì dân Y-sơ-ra-ên thấy mặt ông sáng rực, nên Mai-sen phải lấy màn che mặt cho đến khi trở lại hầu chuyện Chúa Hằng Hữu.
Luật Ngày Sa-bát
1 Mai-sen triệu tập toàn dân họp lại và tuyên bố: "Đây là mệnh lệnh Chúa Hằng Hữu truyền cho chúng ta vâng giữ:
2 Mọi người chỉ được làm việc trong sáu ngày; ngày thứ bảy là ngày thánh, một ngày long trọng, phải nghỉ việc để thờ Chúa. Ai làm việc trong ngày ấy phải bị xử tử.
3 Ngay cả lửa cũng không được nhóm lên trong ngày Sa-bát."
Vật Liệu Để Thiết Lập Đền Tạm
4 Mai-sen tiếp: "Chúa Hằng Hữu cũng truyền rằng:
5 Mỗi người tùy tâm, trích ra trong tài sản mình có, đem dâng cho Chúa Hằng Hữu vàng, bạc, đồng;
6 chỉ xanh, tím, đỏ; vải gai mịn, lông dê,
7 da cừu nhuộm đỏ, da dê, gỗ keo,
8 dầu thắp, chất liệu dùng làm dầu xức và chế hương,
9 bạch ngọc và các thứ ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực.
10 "Ai là người khéo tay trong dân, phải đến làm Đền Tạm theo như Chúa Hằng Hữu đã bảo:
11 Trại và nóc Trại, móc, khung, thanh ngang, trụ và lỗ trụ,
12 Rương Giao Ước và đòn khiêng, Nắp Chuộc Tội, màn che Nơi Thánh,
13 cái bàn và đòn khiêng cùng với đồ phụ tùng, bánh trần thiết,
14 chân đèn, đèn và dầu thắp,
15 bàn thờ xông hương và đòn khiêng, dầu xức thánh, hương thơm, màn che cửa Đền Tạm,
16 bàn thờ dâng của lễ thiêu và rá đồng, đòn khiêng cùng đồ phụ tùng, bồn nước và chân bồn;
17 màn che hành lang, trụ và lỗ trụ, màn che cửa hành lang,
18 móc và dây trong hành lang Đền Tạm,
19 bộ áo lễ của các thầy tế lễ A-rôn và các con trai người mặc trong lúc thi hành chức vụ trong Nơi Thánh."
20 Nghe xong, ai nấy cáo từ Mai-sen để về trại mình.
21 Những người được cảm động, liền tự nguyện trở lại, mang theo lễ vật dâng hiến cho Chúa Hằng Hữu để dùng cất Lều Hội Kiến, làm dụng cụ và may áo thánh.
22 Họ kéo nhau đến, cả nam lẫn nữ, với lòng tự nguyện, dâng lên Chúa Hằng Hữu các món nữ trang bằng vàng như hoa tai, nhẫn, kiềng;
23 những người khác mang đến chỉ xanh, tím, đỏ, chỉ gai mịn, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê;
24 người khác lại đem dâng Chúa Hằng Hữu bạc, đồng; người thì dâng gỗ keo, tùy theo khả năng mình.
25 Các phụ nữ khéo tay kéo chỉ xanh, tím, đỏ và dệt vải gai mịn;
26 các bà khác tình nguyện dệt lông dê, theo khả năng mình.
27 Các nhà lãnh đạo nhân dân đem dâng bạch ngọc và các thứ ngọc khác để gắn ê-phót và bảng đeo ngực;
28 họ cũng dâng hương liệu để chế dầu xức thánh và hương thơm cùng với dầu thắp.
29 Vậy trong toàn dân Y-sơ-ra-ên, dù nam hay nữ, tất cả những người sẵn lòng đóng góp để thực hiện công tác Chúa Hằng Hữu truyền bảo Mai-sen, đều tự nguyện mang lễ vật đến dâng cho Ngài.
Bê-sa-lê và Ô-hô-li-áp
30 Mai-sen bảo mọi người: "Chúa Hằng Hữu đã chỉ định đích danh Bê-sa-lê (con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc đại tộc Giu-đa)
31 làm thợ chính, vì Ngài đã cho người này đầy Thánh Linh, có tài năng, thông minh, kiến thức,
32 để dùng vàng, bạc, đồng làm ra các vật dụng tinh vi đẹp đẽ,
33 để cắt và khảm ngọc, để chạm gỗ, chung qui để làm mọi công việc nghệ thuật khéo léo.
34 Còn một người thứ hai là Ô-hô-li-áp (con trai A-hi-sa-mạc, thuộc đại tộc Đan), cũng có tài để dạy lại cho người khác kiến thức của mình như Bê-sa-lê vậy.
35 Chúa Hằng Hữu phú cho hai người này lắm tài năng, gồm mọi ngành thợ bạc, thợ cắt ngọc, chạm trổ, thêu thùa (dùng chỉ xanh, tím, đỏ), dệt sợi (dùng các sợi gai mịn) và các công việc nghệ thuật cần thiết khác.
1 "Bê-sa-lê và Ô-hô-li-áp sẽ cộng tác với những người khác được Chúa Hằng Hữu phú cho tài năng và sự thông minh, để thực hiện công tác xây cất Đền Tạm, và chế tạo các dụng cụ như Chúa Hằng Hữu đã dạy bảo."
Dâng Hiến Rộng Rãi
2 Vậy, Mai-sen gọi Bê-sa-lê, Ô-hô-li-áp và tất cả các nhân tài khác đến làm việc.
3-7 Mai-sen trao cho họ các vật liệu nhân dân hiến dâng.
Dân chúng vẫn cứ tiếp tục đến dâng thêm vào mỗi buổi sáng, nhiều đến độ các người thợ phải tạm ngưng công việc, lên gặp Mai-sen và báo cáo: "Các vật liệu người ta đem dâng để thực hiện công tác Chúa Hằng Hữu ấn định thặng dư nhiều quá!" Mai-sen sai người đi báo cho toàn dân hay rằng, không ai được đem dâng vật liệu làm Đền Tạm nữa. Đến lúc bị cấm như vậy, người ta mới thôi.
Dựng Đền Tạm
8 Một số thợ khéo trong nhóm xây dựng Đền Tạm bắt đầu dệt mười bức màn bằng chỉ gai mịn, dùng chỉ xanh, tím và đỏ, thêu hình chê-ru-bim cực kỳ tinh vi.
9 Mười bức màn đều bằng nhau, dài hai mươi tám thước, rộng bốn thước.
10 Họ nối từng năm bức màn lại với nhau thành hai tấm lớn.
11,12 Họ dùng chỉ xanh kết các vòng dọc theo đường biên của hai tấm lớn, năm mươi vòng mỗi bên, đối diện nhau.
13 Người ta làm năm mươi cái móc bằng vàng, cài vào các vòng chỉ, như vậy hai tấm lớn được kết lại thành nóc Đền Tạm.
14 Họ cũng dệt mười một bức màn bằng lông dê để phủ lên trên nóc Đền.
15 Mười một bức màn này đều bằng nhau, dài ba mươi thước, rộng bốn thước.
16 Năm bức màn lông dê nối lại thành một tấm lớn; còn lại sáu bức kia nối thành một tấm lớn thứ hai.
17,18 Người ta làm năm mươi cái vòng dọc theo đường biên của mỗi tấm lớn, và dùng năm mươi cái móc đồng nối hai tấm lớn lại với nhau.
19 Lớp trên cùng của nóc Đền làm bằng da cừu nhuộm đỏ và da dê.
20 Gỗ keo được dùng để làm vách Đền Tạm, dựng thẳng đứng.
21,22 Mỗi tấm ván dài mười thước, rộng một thước rưỡi, có hai cái mộng để ghép vào các lỗ mộng.
23,24 Vách phía nam gồm hai mươi tấm ván; dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng bằng bạc, cộng bốn mươi lỗ mộng.
25,26 Vách phía bắc cũng gồm hai mươi tấm ván; dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng bạc, cộng bốn mươi lỗ mộng.
27 Vách phía tây tức là phía sau Đền Tạm gồm sáu tấm ván;
28 thêm vào hai tấm nữa ở hai góc phía sau Đền Tạm này.
29 Các tấm ván này sẽ được ghép vào nhau bằng móc cài cả dưới lẫn trên.
30 Vậy, vách phía tây có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, hai lỗ mỗi tấm.
31-33 Họ cũng dùng gỗ keo làm thanh ngang cho vách Đền Tạm, mỗi phía năm thanh, vách phía tây cũng có năm thanh. Thanh chính giữa nằm giữa vách, chạy dài từ đầu này chí đầu kia của Đền.
34 Người ta bọc vàng các tấm ván vách và các thanh ngang, làm các vòng vàng để xỏ thanh ngang.
35 Người ta may một bức màn bằng vải gai mịn, rồi dùng chỉ xanh, tím, đỏ thêu hình chê-ru-bim cực kỳ tinh vi.
36 Màn được móc vào bốn móc vàng của bốn trụ gỗ keo bọc vàng, trụ được dựng trên lỗ trụ bằng bạc.
37 Người ta cũng làm một bức màn che cửa Đền Tạm bằng vải gai mịn, thêu chỉ xanh, tím và đỏ rất tinh vi.
38 Màn này được treo bằng năm móc vàng trên năm trụ cây keo bọc vàng, các lỗ trụ này đều bằng đồng.
Đóng Rương Giao Ước
1 Bê-sa-lê đóng một cái Rương bằng gỗ keo dài hai thước rưỡi, rộng một thước rưỡi, cao một thước rưỡi.
2 Ông lấy vàng ròng bọc bên ngoài, lót bên trong và viền chung quanh Rương.
3 Ông làm bốn cái khoen bằng vàng gắn vào bốn góc Rương, mỗi bên hai cái.
4 Ông cũng làm đòn khiên bằng cây keo bọc vàng,
5 và xỏ đòn vào các khoen ở hai bên để khiêng Rương đi.
6 Bê-sa-lê cũng làm Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, dài hai thước rưỡi, rộng một thước rưỡi.
7,8 Ông làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát dính liền với Nắp Chuộc Tội, mỗi chê-ru-bim đứng trên một đầu nắp.
9 Hai chê-ru-bim đứng đối diện nhau, xòe cánh che trên Nắp Chuộc Tội, mặt nhìn xuống nắp.
Bàn Bánh Trần Thiết
10,11 Bê-sa-lê lại đóng một cái bàn bằng gỗ keo, dài hai thước, rộng một thước, cao một thước rưỡi, rồi lấy vàng ròng bọc bàn và viền chung quanh.
12 Ông đóng khung chung quanh mặt bàn, bề rộng của khung bằng một bàn tay, rồi viền vàng chung quanh khung.
13,14 Ông làm bốn cái khoen bằng vàng, đính vào bốn chân ở gần khung của mặt bàn để xỏ đòn khiêng.
15 Đòn khiêng làm bàng gỗ keo bọc vàng.
16 Ông cũng lấy vàng ròng làm các dụng cụ để trên bàn: đĩa, muỗng, bát và bình.
Chân Đèn
17 Bê-sa-lê làm một chân đèn bằng vàng dát, từ chân cho đến thân, đài, bầu và hoa của đèn đều dính liền nhau.
18,19 Từ thân mọc ra sáu cành, mỗi bên ba cành. Mỗi cành có ba cái hoa hình hạnh nhân.
20 Thân của chân đèn có bốn hoa hình hạnh nhân.
21 Cứ mỗi hai cành mọc ra từ thân, ông làm một cái đài bên dưới.
22 Đài và cành được làm dính liền nhau bằng vàng dát nguyên miếng.
23 Ông cũng làm bảy cái đèn, kéo cắt tim và đĩa đựng tàn bằng vàng.
24 Ông dùng hết một ta-lâng vàng để làm chân đèn và đồ phụ tùng;
Bàn Thờ Xông Hương, Dầu và Hương Thánh
25 Ông đóng một bàn thờ xông hương bằng gỗ keo. Bàn thờ hình vuông, mỗi bề một thước, cao hai thước. Các sừng của bàn thờ được gắn liền với bàn thờ.
26 Ông lấy vàng lót mặt bàn, bọc cạnh bàn và các sừng, và viền chung quanh bàn.
27 Ông làm hai khoen vàng, gắn bên dưới đường viền của bàn, mỗi bên một cái, dùng xỏ đòn khiêng.
28 Đòn khiêng được làm bằng gỗ keo bọc vàng.
29 Ông cũng chế dầu xức thánh và hương thơm thuần túy theo đúng phương pháp hòa hợp hương liệu.
Bàn Thờ Tế Lễ Thiêu
1 Bàn thờ dâng tế lễ thiêu cũng được làm bằng gỗ keo, hình vuông, năm thước mỗi bề, cao ba thước.
2 Ông làm sừng ở bốn góc, dính liền với bàn thờ, rồi lấy đồng bọc bàn thờ và sừng.
3 Ông cũng làm các đồ phụ tùng bàn thờ toàn bằng đồng: thùng đựng tro, xuổng, bồn chứa nước, đinh ba và đĩa đựng than lửa.
4 Sau đó, ông làm một cái rá giữ than bằng đồng, đặt trong bàn thờ trên mép nhô ra; rá cao đến phân nửa bề cao bàn thờ.
5 Ông làm bốn khoen đồng ở bốn góc rá để giữ đòn khiêng
6 Đòn khiêng được làm bằng gỗ keo bọc đồng.
7 Ông xỏ đòn khiêng vào các khoen đồng hai bên bàn thờ để khiêng đi. Bàn thờ được đóng bằng ván, rỗng ở giữa.
Thùng Bằng Đồng
8 Ông cũng lấy mấy tấm gương soi bằng đồng do các phụ nữ hội họp tại cửa Lều Hội Kiến dâng lên, để làm ra bồn tắm và chân bồn.
Hành Lang Đền Tạm
9 Sau đó, ông làm hành lang Đền Tạm. Hành lang phía nam dài một trăm thước, bao bọc bằng vải gai mịn;
10 có hai mươi trụ với hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai để gắn vào trụ bằng bạc.
11 Hành lang phía bắc cũng dài một trăm thước, có hai mươi trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng, các móc và đai bằng bạc.
12 Hành lang phía tây dài năm mươi thước, bao bọc bằng vải gai mịn, có mười trụ và mười lỗ trụ bằng đồng, các móc và đai bằng bạc.
13 Hành lang phía đông cũng dài năm mươi thước.
14,15 Hai bên cửa Đền Tạm có hai bức màn, mỗi bức rộng mười lăm thước, treo trên ba trụ được dựng trên ba lỗ trụ.
16,17 Chung quanh hành lang, tất cả các bức màn đều làm bằng vải gai mịn; các lỗ trụ bằng đồng; các móc và đai trụ bằng bạc; các trụ đều viền bạc, đầu trụ bọc bạc.
18 Bức màn che cửa hành lang bằng vải gai mịn thêu xanh, tím và đỏ, dài hai mươi thước, rộng năm thước, tương xứng với màn bao bọc hành lang.
19 Màn được treo trên bốn trụ có bốn lỗ trụ làm bằng đồng, các móc bằng bạc; các trụ viền bạc, đầu trụ bọc bạc.
20 Đinh dùng cho Đền Tạm và hành lang đều làm bằng đồng.
Tổng Kết Vật Dụng
21 Sau đây là một vài con số tổng kết các vật dụng xây cất Đền Tạm, Trại Chứng Cớ, do tay các con cháu Lê-vi thực hiện, dưới quyền quản đốc của Y-tha-ma (con thầy tế lễ A-rôn), theo lệnh truyền của Mai-sen.
22,23 Thợ chính là Bê-sa-lê (con U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc đại tộc Giu-đa) và Ô-hô-li-áp (con A-hi-sa-mạc, thuộc đại tộc Đan), là những người nhiều tài năng, gồm tài chạm trổ, điêu khắc, thêu thùa, dệt chỉ xanh, tím, đỏ và chỉ gai mịn. Họ làm được tất cả mọi việc Chúa Hằng Hữu truyền bảo Mai-sen.
24 Tổng số vàng sử dụng trong công cuộc xây cất Đền Tạm là 986 kí-lô và 730 lạng, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Số vàng này do mọi người hiến dâng.
25,26 Tổng số bạc là 3.400 kí-loc và 1.775 lạng, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Số bạc này thu được trong cuộc kiểm tra dân số, theo nguyên tắc nửa lạng bạc mỗi đầu người. Nam công dân từ hai mươi tuổi trở lên gồm có 603.550 người.
27 Bạc dùng làm các lỗ mộng của khung Đền Tạm và lỗ mộng các trụ của màn; một trăm lỗ mộng tốn một trăm ta-lâng, mỗi lỗ mộng một ta-lâng.
28 Số bạc còn lại (1.775 lạng) dùng làm móc, đai và dùng bọc đầu trụ.
29 Tổng số đồng dâng lên là 2.380 kí-lô và 2.400 lạng.
30,31 Số đồng này dùng làm lỗ trụ cửa ra vào Lều Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng, rá của bàn thờ này và các đồ phụ tùng khác, các lỗ trụ hành lang, các lỗ trụ cổng hành lang và tất cả đinh dùng trong Đền Tạm và hành lang.
Áo Lễ của A-rôn
1 Bộ áo lễ thánh của A-rôn mặc trong lúc thừa hành chức vụ tại Nơi Thánh được các tay thợ khéo may đúng theo kiểu mẫu Chúa Hằng Hữu truyền cho Mai-sen, đủ các màu sắc xanh, tím và đỏ.
Ê-phót
2,3 Họ cán mỏng vàng, cắt thành sợi để thêu dặm vào với chỉ xanh, tím và đỏ trên vải gai mịn, và như thế, họ chế tạo ê-phót một cách cực kỳ tinh vi.
4,5 Ê-phót được nối liền nhau ở bên trên bằng hai dải đeo vai, bên dưới có dây thắt lưng. Thắt lưng cũng được may bằng vải gai mịn, thêu kim tuyến, chỉ xanh, tím và đỏ cực kỳ tinh vi cũng như ê-phót, đúng theo kiễu mẫu Chúa Hằng Hữu truyền cho Mai-sen.
6,7 Họ cắt các viên bạch ngọc, khắc tên các con trai Y-sơ-ra-ên lên theo lối khắc con dấu để tưởng niệm con cháu Y-sơ-ra-ên; rồi đem khảm trong khung vàng, đính nơi dải đeo vai của ê-phót các viên ngọc đúng theo điều Chúa Hằng Hữu đã dặn bảo Mai-sen.
Bảng Đeo Ngực và Các Áo Lễ Khác
8 Bảng đeo ngực cũng như ê-phót được may bằng vải gai mịn thêu kim tuyến, chỉ xanh, tím và đỏ cực kỳ tinh vi.
9 Bảng này hình vuông, mỗi cạnh một gang tay, may bằng hai lớp vải.
10 Trên bảng đeo ngực có gắn bốn hàng ngọc. Hàng thứ nhất: hồng mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc.
11 Hàng thứ hai: bích ngọc, lam ngọc, kim cương.
12 Hàng thứ ba: ngọc phong tín, ngọc mã não, ngọc tím.
13 Hàng thứ tư: lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc.
14 Trên mười hai viên ngọc này họ khắc tên mười hai đại tộc Y-sơ-ra-ên theo lối khắc con dấu.
15-18 Họ làm hai sợi dây chuyền xoắn trôn ốc bằng vàng ròng để nối bảng đeo ngực với ê-phót. Mỗi dây chuyền có một đầu nối với hai khoen vàng gắn trên đầu bảng đeo ngực; đầu kia nối với hai khung vàng trên dải đeo vai ê-phót.
19,20 Họ làm thêm bốn khoen vàng nữa, hai khoen gắn ở góc trong bên dưới bảng đeo ngực, gần ê-phót; hai khoen kia gắn vào phần dưới của dải đeo vai ê-phót, về phía trước, gần chỗ nối với vạt trước ê-phót, bên trên thắt lưng.
21 Họ dùng dây màu xanh nối các khoen này với nhau, như vậy bảng đeo ngực sẽ nằm bên trên dây thắt lưng đã được dệt một cách tinh vi đẹp đẽ, và sẽ không rời khỏi ê-phót, đúng theo điều Chúa Hằng Hữu dặn bảo Mai-sen.
22 Áo khoác ngoài ê-phót được dệt toàn màu xanh.
23 Giữa áo có một lỗ để tròng đầu, giống như cổ của áo giáp, quanh cổ được viền cẩn thận cho khỏi rách.
24 Họ dùng chỉ xanh, tím, đỏ và chỉ gai thắt trái lựu, kết dọc theo gấu áo này.
25,26 Họ cũng làm chuông nhỏ bằng vàng ròng, kết xen kẽ với trái lựu trên gấu áo. Áo này sẽ được A-rôn mặc khi phụng sự Chúa Hằng Hữu, theo điều Ngài dạy Mai-sen.
27,28 Họ cũng dùng sợi gai mịn dệt áo dài cho A-rôn và các con trai người. Họ còn dệt khăn, mũ, quần cụt lót, toàn bằng sợi gai mịn.
29 Dây thắt lưng bằng vải gai mịn được thêu xanh, tím và đỏ, như Chúa Hằng Hữu đã dặn Mai-sen.
30 Họ làm một thẻ vàng ròng, và khắc trên thẻ này theo lối khắc con dấu dòng chữ: "Thánh cho Chúa Hằng Hữu."
31 Họ dùng dây màu xanh buộc thẻ vào khăn đội đầu, như điều Chúa Hằng Hữu dặn Mai-sen.
32-40 Vậy, công việc Đền Tạm và Lều Hội Kiến hoàn tất đúng theo mọi điều Chúa Hằng Hữu dặn bảo Mai-sen. Họ đem tất cả mọi thứ đến cho Mai-sen: Lều và đồ phụ tùng, móc, khung, thanh ngang, trụ và lỗ trụ, lớp da cừu nhuộm đỏ và da dê che nóc Lều, các bức màn; Rương Giao Ước với đòn khiêng, Nắp Chuộc Tội, bàn và đồ phụ tùng, bánh trần thiết; chân đèn bằng vàng, đèn, đồ phụ tùng và dầu thắp; bàn thờ bằng vàng; dầu xức thánh và hương thơm; bức màn che cửa Đền; bàn thờ bằng đồng, rá đồng, đòn khiêng và đồ phụ tùng; bồn tắm và chân bồn; các bức màn che quanh hành lang, dây và đinh, cùng với tất cả các đồ phụ tùng dùng trong công việc Đền Tạm và Lều Hội Kiến.
41 Họ cũng đem cho Mai-sen các bộ áo lễ may dệt khéo léo, để thầy tế lễ A-rôn và các con trai A-rôn mặc trong lúc thi hành chức vụ tại Nơi Thánh.
42 Người Y-sơ-ra-ên thực hiện hết mọi điều gì Chúa Hằng Hữu đã dặn bảo Mai-sen.
43 Sau khi xem xét kiểm điểm lại mọi vật, Mai-sen thấy họ làm đúng theo lời Chúa Hằng Hữu đã dạy, nên chúc phước cho họ.
Thiết Lập Xong Đền Tạm
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen:
2 "Vào ngày mồng một tháng giêng, con phải lo dựng Đền Tạm.
3 Con sẽ đặt Rương Giao Ước trong Đền, rồi dùng bức màn ngăn nơi để Rương lại.
4 Đem cái bàn vào, xếp các đồ phụ tùng trên bàn. Đem chân đèn vào, thắp đèn lên.
5 Đặt bàn thờ xông hương bằng vàng trước Rương Giao Ước. Treo bức màn che cửa Đền Tạm lên.
6 Đặt bàn thờ dâng của lễ thiêu trước cửa Đền Tạm.
7 Đặt bồn tắm giữa Đền Tạm và bàn thờ, đổ nước vào bồn.
8 Dựng hành lang chung quanh Đền Tạm và treo bức màn che cửa hành lang lên.
9 Con lấy dầu thánh xức cho Đền Tạm và mọi vật ở trong Đền, hiến dâng Đền và mọi vật ở trong Đền, như vậy Đền Tạm sẽ được thánh hóa.
10 Con cũng xức dầu thánh cho bàn thờ dâng tế lễ thiêu và đồ phụ tùng, hiến dâng bàn thờ, bàn thờ sẽ nên rất thánh.
11 Xức dầu cho bồn tắm và chân bồn rồi hiến dâng bồn.
12 Sau đó, con đem A-rôn và các con trai người đến trước cửa Lều Hội Kiến, lấy nước tắm rửa họ.
13 Mặc bộ áo lễ thánh vào cho A-rôn, xức dầu cho người và hiến dâng người, để người làm tế lễ phục vụ Ta.
14 Cũng đem các con trai A-rôn đến, mặc áo dài cho họ;
15 xức dầu cho họ cũng như con đã xức dầu cho cha họ, để họ cũng làm thầy tế lễ phục vụ Ta. Lễ xức dầu thánh này có hiệu lực vĩnh viễn, con cháu họ sẽ làm thầy tế lễ phục vụ Ta đời đời."
16 Mai-sen vâng lời, làm tất cả mọi điều Chúa Hằng Hữu bảo ông.
17 Vậy, vào ngày đầu của tháng thứ nhất, năm thứ hai, Đền Tạm được dựng lên.
18 Mai-sen dựng Đền Tạm bằng cách đặt các lỗ trụ, dựng khung, đặt thanh ngang và dựng các trụ.
19 Ông chăng vải trại lên trên, phủ các lớp kia bên trên vải trại, theo điều Chúa Hằng Hữu đã bảo ông.
20 Mai-sen để các bảng "Chứng Cớ" vào Rương Giao Ước, xỏ đòn khiêng, và đặt Nắp Chuộc Tội lên trên Rương.
21 Ông đem Rương vào Đền Tạm, rồi dùng bức màn ngăn ra Nơi Chí Thánh để đặt Rương, như lời Chúa Hằng Hữu đã dạy bảo.
22 Ông đặt cái bàn về phía bắc, bên ngoài bức màn;
23 rồi để bánh trần thiết trên bàn trước mặt Chúa Hằng Hữu, như lời Ngài đã bảo.
24 Ông để chân đèn đối diện với cái bàn, về phía nam;
25 thắp đèn lên trước mặt Chúa Hằng Hữu, như Ngài đã dặn ông.
26 Ông đặt bàn thờ bằng vàng trong Đền, đằng trước bức màn;
27 đốt hương trên bàn thờ này, như Ngài đã dặn ông.
28 Mai-sen treo bức màn che cửa Đền Tạm lên;
29 rồi đặt bàn thờ dâng tế lễ thiêu trước cửa ra vào Lều Hội Kiến, và dâng lên bàn thờ này một của lễ thiêu và của lễ chay, theo lời Chúa Hằng Hữu bảo ông.
30,31 Ông đặt bồn tắm khoảng giữa Lều Hội Kiến và bàn thờ, rồi đổ nước vào. Tại đây Mai-sen, A-rôn và các con trai A-rôn rửa tay chân.
32 Mỗi khi vào Lều Hội Kiến hay đến gần bàn thờ, họ rửa ráy sạch sẽ theo lời Chúa Hằng Hữu dạy Mai-sen.
33 Mai-sen dựng hành lang chung quanh Đền Tạm và bàn thờ, treo bức màn che cửa hành lang lên. Vậy, Mai-sen hoàn tất mọi việc.
34 Có một đám mây kéo đến bao bọc Lều Hội Kiến, và vinh quang của Chúa Hằng Hữu tràn ngập Lều.
35 Mai-sen không vào Lều Hội Kiến được, vì đám mây dày đặc và vinh quang của Chúa Hằng Hữu đầy dẫy trong Lều.
36 Trong cuộc hành trình của người Y-sơ-ra-ên, mỗi khi thấy trụ mây bay lên từ nóc Đền Tạm, họ ra đi.
37 Nếu không thấy trụ mây bay lên, họ cứ ở lại cho đến khi trụ mây rời chỗ.
38 Và trong suốt cuộc hành trình này, ban ngày có trụ mây ở trên Đền Tạm; ban đêm có lửa trong mây chiếu sáng cho toàn dân Y-sơ-ra-ên.