1 Vào ngày mồng một tháng hai, năm thứ hai, tính từ ngày Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen tại Lều Hội Kiến trong sa mạc Si-nai: 2-4 "Con và A-rôn hãy xúc tiến việc kiểm tra tất cả nam công dân từ hai mươi tuổi trở lên, những người có thể ra trận chiến đấu, theo thứ tự từng đại tộc và gia đình. Các trưởng tộc sẽ đại diện tông tộc mình để cộng tác với con và A-rôn.
5 Đây là danh sách các trưởng tộc:
Ê-li-xua, con Sê-đô, trưởng tộc Ru-bên;
6 Sê-lu-mi-ên, con Xu-ri-ha-đai, trưởng tộc Si-mê-ôn;
7 Na-sơn, con A-mi-na-đáp, trưởng tộc Giu-đa;
8 Na-tha-na-ên, con Xu-a, trưởng tộc Y-sa-ca;
9 Ê-li-áp, con Hê-lôn, trưởng tộc Sa-bu-luân
10 Ê-li-sa-ma, con A-mi-hút; trưởng tộc Ép-ra-im, Ga-ma-li-ên, con Phê-đa-su, trưởng tộc Ma-na-se;
11 A-bi-đan, con Ghi-đê-ô-ni, trưởng tộc Bên-gia-min;
12 A-hi-ê-xe, con A-mi-sa-đai, trưởng tộc Đan;
13 Pha-ghi-ên, con Ốc-ran, trưởng tộc A-se;
14 Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên, trưởng tộc Gát;
15 A-hi-ra, con Ê-nan, trưởng tộc Nép-ta-li."
16 Các trưởng tộc đều là những người được nhân dân bầu lên.
17-19 Vậy, tại sa mạc Si-nai, vào ngày mồng một tháng hai, Mai-sen, A-rôn và mười hai trưởng tộc triệu tập toàn thể nam công dân từ hai mươi tuổi trở lên để đăng bộ theo thứ tự từng đại tộc và từng gia đình, theo lời Chúa Hằng Hữu dạy bảo Mai-sen.
20 Và sau đây là kết quả cuộc kiểm tra dân số của mỗi đại tộc:
21-46 Ru-bên (con trưởng nam) 46.500
Si-mê-ôn 59.300
Gát 45.650
Giu-đa 74.600
Y-sa-ca 54.400
Sa-bu-luân 57.400
Ép-ra-im (con Giô-sép) 40.500
Ma-na-se (con Giô-sép) 32.200
Bên-gia-min 35.400
Đan 62.700
A-se 41.500
Nép-ta-li 53.400
Tổng số là: 603.550 người.
47-49 Tổng số trên không kể người Lê-vi, vì Chúa Hằng Hữu có bảo Mai-sen đừng trưng dụng và kiểm tra dân số đại tộc Lê-vi. 50 Chúa Hằng Hữu phán bảo Mai-sen: "Con sẽ bổ nhiệm các người Lê-vi coi sóc Đền Chứng Cớ và tất cả khí dụng của nó, cũng như tất cả mọi vật thuộc về Đền; họ sẽ khuân vác Đền và tất cả các khí dụng; họ sẽ phục vụ Đền và cắm trại quanh Đền. 51 Chỉ có người Lê-vi lo việc tháo gỡ, di chuyển, cũng như ráp dựng Đền Chứng Cớ. Ngoài họ ra, người nào đụng đến đều bị xử tử. 52 Các đại tộc Y-sơ-ra-ên sẽ cắm trại theo vị trí ấn định, dưới ngọn cờ của đại tộc mình; 53 Còn người Lê-vi sẽ cắm trại chung quanh Đền Chứng Cớ để ngăn cách Đền với nhân dân, cũng để họ tiện phục vụ trong Đền."
54 Tất cả những điều Chúa Hằng Hữu dạy bảo Mai-sen đều được toàn dân tuân hành.
1,2 Chúa Hằng Hữu phán bảo Mai-sen và A-rôn:
"Toàn dân Y-sơ-ra-ên sẽ cắm trại vòng quanh Lều Hội Kiến, dưới ngọn cờ và huy hiệu của đại tộc mình theo thứ tự sau:
3-9 Về phía đông:
Đại tộc Giu-đa, có 74.600 quân dưới quyền chỉ huy của Na-sơn con A-mi-na-đáp; đại tộc Y-sa-ca, có 54.400 quân, dưới quyền chỉ huy của Na-tha-na-ên con Xu-a, cắm trại kế bên đại tộc Giu-đa; đại tộc Sa-bu-luân, có 57.400 quân, dưới quyền chỉ huy của Ê-li-áp con Hê-lôn, cắm trại kế bên đại tộc Y-sa-ca.
Vậy cánh quân thứ nhất này có đại tộc Giu-đa đứng đầu, gồm 186.400 người. Mỗi khi ra đi, họ đi tiên phong.
10-17 Về phía nam:
Đại tộc Ru-bên, có 46.500 quân, dưới quyền chỉ huy của Ê-li-xua con Sê đô; đại tộc Si-mê-ôn, có 59.300 quân, dưới quyền chỉ huy của Sê-lu-mi-ên con Xu-ri-ha-đai, cắm trại kế bên đại tộc Ru-bên; đại tộc Gát, có 45.650 quân, dưới quyền chỉ huy của Ê-li-a-sáp con Đê-u-ên, cắm trại kế bên đại tộc Si-mê-ôn.
Vậy cánh quân thứ hai này có đại tộc Ru-bên đứng đầu, gồm 151.450 người. Họ ra đi sau cánh quân thứ nhất.
Mỗi khi ra đi, đại tộc Lê-vi sẽ đem Lều Hội Kiến đi chính giữa, tức là sau cánh quân thứ hai. Khi ra đi cũng như lúc cắm trại, các đại tộc đều giữ đúng vị trí mình.
18-24 Về phía tây:
Đại tộc Ép-ra-im, có 40.500 quân, dưới quyền chỉ huy của Ê-li-sa-ma con A-mi-hút; đại tộc Ma-na-se, có 32.200 quân, dưới quyền chỉ huy của Ga-ma-liên con Phê-đa-su, cắm trại kế bên đại tộc Ép-ra-im; đại tộc Bên gia min, có 35.400 quân, dưới quyền chỉ huy của A-bi-đan con Ghi-đê-ô-ni, cắm trại kế bên đại tộc Ma-na-se. Cánh quân thứ ba này có đại tộc Ép-ra-im đứng đầu, gồm 108.100 người. Họ ra đi sau cánh quân thứ nhì.
25-31 Về phía bắc:
Đại tộc Đan, có 62.700 quân, dưới quyền chỉ huy của A-hi-ê-xe con A-mi-sa-đai;
Đại tộc A-se, có 41.500 quân, dưới quyền chỉ huy của Pha-ghi-ên con Ốc-ran, cắm trại kế bên đại tộc Đan;
Đại tộc Nép-ta-li, có 53.400 quân, dưới quyền chỉ huy của A-hi-ra con Ê-nan, cắm trại kế bên đại tộc A-se.
Cánh quân thứ tư này có đại tộc Đan đứng đầu, gồm 157.600 người đi hậu tập.
32,33 Vậy, tổng cộng quân số Y-sơ-ra-ên là 603.550. Người Lê-vi không được tính vào số này, theo lời Chúa bảo Mai-sen. 34 Người Y-sơ-ra-ên tuân hành mệnh lệnh Chúa truyền cho Mai-sen, khi cắm trại cũng như lúc ra đi. Họ giữ đúng vị trí mình, dưới ngọn cờ của đại tộc mình.
1 Vào những ngày Chúa Hằng Hữu phán dạy Mai-sen trên núi Si-nai, con cháu của A-rôn và Mai-sen gồm có: 2 con trưởng nam của A-rôn là Na-đáp; các con kế là A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. 3 Họ là những người được xức dầu thánh để giữ chức thầy tế lễ và phục vụ trong Lều Hội Kiến. 4 Vì Na-đáp và A-bi-hu chết trước mặt Chúa khi họ dâng lửa lạ trong sa mạc Si-nai, không để lại con cái, nên Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma được làm thầy tế lễ phụ tá cho A-rôn cha họ.
5 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Hãy triệu tập đại tộc Lê-vi, cho họ trình diện A-rôn để nhận công tác. 6-9 Dưới sự hướng dẫn của A-rôn, họ sẽ thay mặt toàn dân thi hành thánh chức trong Đền Chúa. Họ cũng có nhiệm vụ quản lý và phục dịch trong Đền và bảo trì mọi vật dụng trong Lều Hội Kiến. Con sẽ đặt toàn thể đại tộc Lê-vi dưới quyền A-rôn và các con người, vì người Lê-vi là đại biểu của nhân dân. 10 Còn A-rôn và các con người sẽ thi hành chức vụ tế lễ. Không một ai ngoài họ được xen vào chức vụ này; ai bất tuân sẽ bị xử tử."
11 Chúa Hằng Hữu cũng bảo Mai-sen:
12 "Người Lê-vi thuộc về Ta. Ta chấp nhận họ thay thế cho các con đầu lòng của toàn dân Y-sơ-ra-ên, 13 vì tất cả các con đầu lòng thuộc về Ta. Vào ngày Ta đoán phạt các con đầu lòng Ai Cập, Ta đã dành các con đầu lòng Y-sơ-ra-ên cho Ta, cả người lẫn gia súc. Ta là Chúa Hằng Hữu."
14 Chúa Hằng Hữu cũng có dặn Mai-sen trong sa mạc Si-nai: 15 "Hãy kiểm tra dân số đại tộc Lê-vi theo thứ tự gia đình, tất cả nam giới, từ trẻ sơ sinh một tháng trở lên." 16 Mai-sen vâng lời Chúa, kiểm tra con cháu Lê-vi.
17 Các con trai Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri. 18 Con trai Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-y. 19 Con trai Kê-hát là Am-ram, Y-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên. 20 Con trai Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si. 21 Gia tộc Ghẹt-sôn gồm hai gia đình là Líp-ni và Si-mê-y. 22 Số người từ một tháng trở lên cộng được 7.500. 23,24 Gia tộc Ghẹt-sôn do Ê-li-a-sáp, con La-ên, chỉ huy, cắm trại sau Lều Hội Kiến, về phía tây. 25,26 Họ chịu trách nhiệm về nóc Đền Tạm, tấm màn che cửa Lều Hội Kiến, màn bọc hành lang, màn che cửa hành lang chung quanh Đền Tạm, bàn thờ và các dây thừng buộc Đền Tạm.
27 Gia tộc Kê-hát gồm bốn gia đình là A-ram, Y-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên. 28 Tổng số người từ một tháng trở lên kiểm tra được là 8.600. 29,30 Gia tộc Kê-hát do Ê-li-sa-phan chỉ huy, cắm trại phía nam Đền Tạm. 31 Họ chịu trách nhiệm về Rương Giao Ước, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, các dụng cụ dùng trong Đền Thánh và bức màn. 32 Các công tác phục vụ trong Đền Thánh này đều do các gia tộc phụ trách và gia trưởng điều khiển, nhưng tất cả đều đặt dưới quyền giám sát của thầy tế lễ Ê-lê-ê-sa, con A-rôn.
33 Gia tộc Mê-ra-ri gồm hai gia đình Mác-li và Mu-si. 34 Số người từ một tháng trở lên cộng được 6.200. 35 Gia tộc Mê-ra-ri do Su-ri-ên chỉ huy, cắm trại phía bắc Lều Hội Kiến. 36,37 Họ chịu trách nhiệm về khung Lều Hội Kiến, thanh ngang, trụ, lỗ trụ và các đồ phụ tùng, trụ chung quanh hành lang, lỗ trụ, móc và dây.
38 Phía đông, tức là phía trước Đền Tạm và Lều Hội Kiến chỉ có Mai-sen, A-rôn và các con người được cắm trại, vì họ có trách nhiệm phục vụ trong Đền Thánh, lo việc tế lễ cho nhân dân. Bất kỳ ai khác đến cắm trại tại khu này sẽ bị xử tử.
39 Tổng kết cuộc kiểm tra đại tộc Lê-vi (do Mai-sen và A-rôn thực hiện theo lời Chúa dạy) là 22.000 người, gồm nam giới từ một tháng trở lên.
40 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: "Bây giờ con kiểm tra tất cả các con trưởng nam của người Y-sơ-ra-ên, từ một tháng trở lên, đăng ký tên từng người. 41 Tuy nhiên, con sẽ lấy người Lê-vi thay thế các con trưởng nam này cho Ta. Súc vật cũng vậy, lấy súc vật của người Lê-vi thay thế cho súc vật đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên." 42 Vậy, Mai-sen kiểm tra các con trưởng nam của người Y-sơ-ra-ên, như Chúa bảo ông. 43 Tổng số con trưởng nam từ một tháng trở lên đăng ký tên từng người là 22.273. 44 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 45 "Người Lê-vi được dành cho Ta, 22.000 người Lê-vi thay cho các con trưởng nam Y-sơ-ra-ên, và súc vật của người Lê-vi thay cho súc vật đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Ta là Chúa Hằng Hữu. 46-48 Đối với số 273 người con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên thặng dư (so với số người Lê-vi), mỗi người phải trả một khoản tiền chuộc là năm lạng bạc, theo cân Nơi Thánh. Con sẽ thu số tiền này rồi đem giao cho A-rôn và các con người." 49-50 Vậy, Mai-sen thu số tiền chuộc của 273 người này, cộng được 1.365 lạng bạca theo cân Nơi Thánh. 51 Theo lời Chúa dạy, Mai-sen đem số tiền này giao cho các con A-rôn.
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen và A-rôn: 2,3 "Kiểm tra các nam đinh từ ba mươi đến năm mươi tuổi của gia tộc Kê-hát, thuộc đại tộc Lê-vi, là những người có khả năng phục vụ trong Lều Hội Kiến. 4 Họ chịu trách nhiệm liên quan đến các vật thánh trong Đền. 5 Trước khi nhân dân ra đi, A-rôn và các con ông sẽ vào, gỡ bức màn phân chia Nơi Thánh xuống, đem phủ trên Rương Giao Ước. 6 Bên trên bức màn, họ sẽ phủ một lớp da, và trên lớp da, một lớp vải xanh. Xong họ xỏ đòn khiêng vào Rương. 7 Họ cũng đậy cái bàn bày bánh trần thiết bằng một lớp vải xanh, và để trên lớp vải dĩa, muỗng, bát, bình đựng rượu và bánh. 8 Rồi họ lấy một tấm vải đỏ trải lên, và trên lớp vải đỏ phủ một lớp da dê. Xong họ xỏ đòn khiêng vào. 9,10 Họ bọc chân đèn, đèn, kéo cắt tim, dĩa đựng tàn và bình đựng dầu bằng một lớp vải xanh, bên trên lớp vải xanh phủ một lớp da dê. Xong họ đặt tất cả trên một cái giá để khiêng đi. 11 Họ bọc bàn thờ bằng vàng với một lớp vải xanh; bên trên lớp vải xanh phủ một lớp da dê. Xong họ xỏ đòn khiêng vào. 12 Họ cũng lấy một tấm vải xanh bọc tất cả các dụng cụ khác trong Nơi Thánh lại, rồi lấy da dê bọc bên ngoài lớp vải xanh. Xong họ đặt tất cả trên một cái giá để khiêng đi. 13 Họ xúc tro ở bàn thờ ra, rồi đậy bàn thờ bằng một lớp vải tím. 14 Bên trên lớp vải tím, họ để các dụng cụ của bàn thờ gồm dĩa đựng than lửa, đinh ba, xuổng, bồn nước; và bên trên phủ một lớp da dê. Xong họ xỏ đòn khiêng vào. 15 Khi A-rôn và các con người sửa soạn xong, các người thuộc gia tộc Kê-hát sẽ đến khiêng các dụng cụ này đi, nhưng không được đụng vào các vật thánh; ai đụng là phải chết. Trách nhiệm của con cháu Kê-hát là di chuyển Lều Hội Kiến trong cuộc hành trình.
16 "Còn Ê-lê-a-sa con A-rôn sẽ chịu trách nhiệm về dầu thắp, hương thơm, ngũ cốc dâng thường xuyên và dầu xức thánh. Ê-lê-a-sa trông coi toàn thể Đền Tạm và mọi dụng cụ trong Nơi Thánh."
17 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen và A-rôn: 18 "Đừng để gia tộc Kê-hát phải bị tiêu diệt. 19 Đây là điều phải làm để giữ cho họ khỏi chết khi vào Nơi Chí Thánh: A-rôn và các con trai sẽ vào nơi đó với họ, chỉ cho mỗi người vật gì họ phải khiêng. 20 Tuyệt đối không ai được vào nơi đó để nhìn các vật thánh, dù chỉ trong giây lát; ai bất tuân đều phải chết."
21 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 22,23 "Kiểm tra người nam từ ba mươi đến năm mươi tuổi của gia tộc Ghẹt-sôn, gồm những người có khả năng phục vụ trong Lều Hội Kiến. 24 Và đây là công việc của họ: 25 Họ sẽ khiêng các bức màn Đền Tạm, Lều Hội Kiến, nóc Lều, tấm da phủ nóc Lều, tấm màn che cửa Lều, 26 các màn quanh hành lang, màn che cửa hành lang (hành lang bao quanh Đền, và bàn thờ), dây thừng và các dụng cụ khác. Những người thuộc gia tộc Ghẹt-sôn có nhiệm vụ di chuyển các vật ấy. 27,28 Gia tộc Ghẹt-sôn được đặt dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Y-tha-ma con A-rôn. Tuy nhiên, A-rôn hay một người con nào của A-rôn cũng có thể phân công khuân vác Đền và các dụng cụ nói trên cho gia tộc này.
29,30 "Nam giới thuộc gia tộc Mê-ra-ri từ ba mươi đến năm mươi tuổi có khả năng phục vụ trong Lều Hội Kiến cũng sẽ được kiểm tra. 31 Họ sẽ khiêng khung Đền, các thanh ngang, trụ và lỗ trụ, 32 trụ hành lang, lỗ trụ, móc, dây và các đồ phụ tùng. Khi phân công người nào khiêng vật gì phải được chỉ định rõ ràng. 33 Gia tộc Mê-ra-ri cũng do Y-tha-ma hướng dẫn."
34 Vậy, Mai-sen, A-rôn và các nhà lãnh đạo nhân dân bắt đầu kiểm tra gia tộc Kê-hát, 35 gồm những người có khả năng phục vụ trong Đền, từ ba mươi đến năm mươi tuổi. 36 Tổng cộng có được 2.750 người. 37 Cuộc kiểm tra này được thực hiện đúng theo lời Chúa dạy Mai-sen. 38-41 Theo cùng một tiêu chuẩn, họ kiểm tra gia tộc Ghẹt-sôn, được 2.630 người; 42-45 và gia tộc Mê-ra-ri, được 3.200 người.
46-48 Tổng kết, Mai-sen, A-rôn và các nhà lãnh đạo nhân dân đã kiểm tra được 8.580 người Lê-vi, trong lứa tuổi từ ba mươi đến năm mươi, có khả năng phục vụ trong Lều Hội Kiến và khuân vác. 49 Cuộc kiểm tra này thực hiện đúng theo lời Chúa dạy Mai-sen.
1 Chúa Hằng Hữu cũng bảo Mai-sen: 2 "Con dạy người Y-sơ-ra-ên phải trục xuất các người phung, người có mụt nhọt ra máu mủ, và người bị ô uế vì đụng vào xác người chết, ra khỏi trại quân. 3 Dù họ là đàn ông hay đàn bà cũng phải trục xuất, để họ không làm ô uế trại quân, vì Ta ở giữa trại dân Ta." 4 Người Y-sơ-ra-ên vâng lời Chúa.
5,6 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen dạy bảo người Y-sơ-ra-ên: "Khi một người - dù đàn ông hay đàn bà - phạm tội mà vi phạm luật Chúa, 7 người ấy phải xưng tội, bồi thường thiệt hại do mình gây ra, cộng thêm một phần năm số ấy cho nạn nhân. 8 Trường hợp nạn nhân không còn ai để nhận bồi thường, số bồi thường phải nộp cho Chúa, và số ấy sẽ thuộc về thầy tế lễ, cộng thêm một con cừu để làm lễ chuộc tội. 9,10 Như vậy, khi người Y-sơ-ra-ên đem dâng cho Chúa vật gì, vật ấy sẽ thuộc về các thầy tế lễ."
11-13 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen dạy người Y-sơ-ra-ên: "Trường hợp một người vợ ngoại tình nhưng không bị bắt quả tang, cũng không có nhân chứng, 14 và nếu người chồng đâm nghi, nổi ghen, 15 thì người ấy nên đưa vợ mình đến gặp thầy tế lễ, cũng đem theo một lễ vật gồm một phần mười giạ bột lúa mạch không pha dầu, không rắc nhủ hương lên trên, vì đây là lễ vật hồi tưởng.
16 "Thầy tế lễ sẽ đem nàng đến trước Chúa, 17 đổ nước thánh vào một cái bình bằng đất, bốc bụi dưới sàn Đền Tạm bỏ vào. 18 Thầy tế lễ sẽ bảo nàng đứng trước mặt Chúa, lột trần đầu nàng, đặt lễ vật hồi tưởng vào tay nàng; còn tay thầy tế lễ cầm bình nước đắng nguyền rủa. 19 Thầy tế lễ bảo nàng thề rồi nói: 'Nếu không có ai nằm với bà ngoài chồng bà, thì bà sẽ không chịu ảnh hưởng của nước đắng nguyền rủa này. 20 Nhưng nếu bà đã ngoại tình, 21,22 thì Chúa sẽ làm cho đùi bà rữa nát và bụng bà phình lên; nhân dân sẽ nhắc đến bà mỗi khi họ trù rủa, thề thốt.' Nàng sẽ nói: 'Xin cứ đúng như thế.' 23 Thầy tế lễ viết những lời nguyền rủa này vào sách, rồi rửa sách trong nước đắng. 24 Khi nàng uống nước đắng nguyền rủa, nó sẽ gây nhiều cay đắng trong bụng.
25 "Thầy tế lễ sẽ lấy lễ vật hồi tưởng khỏi tay nàng, đem dâng đưa qua đưa lại trước Chúa, rồi đem lễ vật đến trước bàn thờ, 26 bốc một nắm bột tượng trưng cho toàn thể lễ vật, đem đốt trên bàn thờ, rồi bảo nàng uống nước. 27 Nếu nàng ngoại tình, thì nước sẽ trở nên đắng trong bụng, bụng phình lên, đùi rữa nát, nhân dân sẽ nhắc đến nàng mỗi khi trù rủa, thề thốt; 28 nhưng nếu trong sạch, thì nàng sẽ không bị hại mà vẫn có thể sinh nở.
29,30 "Đó là luật quy định trường hợp một người chồng ghen tương nghi vợ ngoại tình; luật này quy định cách thức thầy tế lễ phải theo khi người vợ được đem đến trước Chúa. 31 Người chồng sẽ không có lỗi, mặc dù hậu quả tai hại xảy ra cho vợ mình, trong trường hợp vợ ngoại tình thật."
1 Chúa bảo Mai-sen dạy người Y-sơ-ra-ên: 2 "Khi một người - dù đàn ông hay đàn bà - có lời khấn nguyện để làm người Na-xi-rê hiến dâng mình đặc biệt cho Chúa, 3,4 người ấy sẽ kiêng uống rượu, rượu hóa dấm, nước nho tươi; cữ ăn trái nho dù tươi hay khô, hoặc một phần nào của cây nho dù là hột hay vỏ, trong suốt thời gian hiến dâng mình cho Chúa.
5 "Trong thời gian ấy, người đã dâng mình cho Chúa là người thánh, nên người ấy không được cạo đầu, phải để cho tóc mọc tự nhiên. 6,7 Cũng không được đến gần xác chết trong suốt thời gian dâng mình cho Chúa, dù người chết là cha, mẹ, anh em hay chị em. Không được vì người chết làm cho mình bị ô uế, vì lời khấn nguyện hiến dâng mình cho Chúa vẫn ở trên đầu người ấy. 8 Suốt thời gian dâng mình, người ấy phải là người thánh cho Chúa.
9 "Nếu có người chết đột ngột bên cạnh làm cho người này bị ô uế, thì bảy ngày sau người ấy sẽ cạo đầu mình và được sạch lại. 10 Ngày thứ tám, người ấy sẽ đem đến cửa Đền Tạm cho thầy tế lễ hai con chim cu đất hoặc hai con bồ câu con. 11,12 Thầy tế lễ dâng một con làm lễ chuộc tội, một con làm lễ thiêu để chuộc tội cho người ấy, vì đã bị xác chết làm ô uế. Cùng trong ngày đó, người ấy sẽ lập lại lời khấn nguyện dâng mình với Chúa, và thời gian trước khi bị ô uế không được tính vào thời gian thâm niên. Người ấy sẽ đem một con cừu đực một tuổi làm lễ chuộc lỗi.
13 "Đến ngày cuối cùng của thời hạn dâng mình cho Chúa, người ấy sẽ đến trước cửa Đền Tạm, 14 dâng lễ vật cho Chúa gồm một con cừu đực một tuổi, không vết tích, để làm lễ thiêu; một con cừu cái một tuổi, không vết tích, làm lễ chuộc tội; một con cừu đực, không vết tích, làm lễ thù ân; 15 một giỏ bánh không men, gồm bánh làm bằng bột mịn pha dầu; bánh kẹp không men tẩm dầu; lễ vật ngũ cốc và rượu. 16,17 Thầy tế lễ sẽ dâng các lễ vật này lên Chúa làm tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu, sau đó dâng con cừu đực, kèm theo giỏ bánh không men, ngũ cốc và rượu, làm tế lễ thù ân. 18 Người Na-xi-rê, tức người có lời khấn nguyện dâng mình đặc biệt cho Chúa, sẽ cạo đầu mình tại cửa Đền Tạm, lấy tóc đốt trong lửa cháy bên dưới lễ vật thù ân. 19 Thầy tế lễ sẽ lấy cái vai cừu (lúc ấy thịt đã chín), một cái bánh không men, một cái bánh kẹp không men, đem đặt vào tay của người Na-xi-rê. 20 Xong, thầy tế lễ lấy lại các món đó để dâng đưa qua lại trước Chúa (các món này cũng như cái ngực dâng đưa qua đưa lại và cái đùi dâng đưa lên, là những vật thánh, về sau sẽ về phần thầy tế lễ). Sau các thủ tục trên, người Na-xi-rê lại được phép uống rượu.
21 "Đó là luật quy định về người Na-xi-rê đã có lời khấn nguyện. Ngoài các lễ vật quy định trên, nếu người ấy có khấn nguyện dâng thêm vật gì lúc ban đầu, thì phải thực hiện đúng như vậy."
22 Chúa Hằng Hữu dạy Mai-sen: 23 "Con bảo A-rôn và các con người chúc phước cho nhân dân Y-sơ-ra-ên như sau: 24,26 Cầu xin Chúa chúc phước và phù hộ anh chị em! Cầu xin vinh quang của diện mạo Ngài soi sáng anh chị em! Cầu xin Ngài tỏ lòng nhân từ với anh chị em, làm ơn và ban bình an cho anh chị em! 27 Vậy, các thầy tế lễ đặt Danh Ta trên dân Y-sơ-ra-ên, và chính Ta sẽ chúc phước cho dân này."
1 Vào ngày dựng xong Đền Tạm, Mai-sen xức dầu và thánh hóa Đền Tạm, bàn thờ, đồ phụ tùng và mọi vật bên trong. 2,3 Vào hôm ấy, các nhà lãnh đạo nhân dân Y-sơ-ra-ên - các trưởng tộc, những người đã điều khiển cuộc kiểm tra dân số - đem lễ vật đến trước Đền Tạm, dâng cho Chúa các lễ vật, gồm có sáu cỗ xe, mười hai con bò kéo; cứ hai tộc trưởng dâng một cỗ xe và mỗi người dâng một con bò.
4 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 5 "Con nhận các xe của họ rồi đem phân phối cho người Lê-vi, để xử dụng cho việc di chuyển Đền Tạm." 6 Mai-sen nhận lễ vật rồi đem phân phối cho người Lê-vi như sau: 7 Gia tộc Ghẹt sôn: hai cỗ xe, bốn con bò; 8 Gia tộc Mê-ra-ri: bốn cỗ xe, tám con bò (gia tộc này đặt dưới quyền điều khiển của Y-tha-ma con A-rôn). 9 Mai-sen không giao cho gia tộc Kê-hát xe cộ gì cả, vì họ có bổn phận khuân vác các vật thánh trên vai. 10 Các trưởng tộc cũng đem lễ vật đến dâng trên bàn thờ trong ngày bàn thờ được xức dầu. 11 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Dành cho mỗi trưởng tộc một ngày để họ dâng lễ vật trong dịp cung hiến bàn thờ."
12 Vậy, vào ngày thứ nhất, Na-sơn con A-mi-na-đáp, tộc trưởng Giu-đa, đem dâng lễ vật. 13 Lễ vật gồm một cái dĩa bạc nặng khoảng một trăm ba mươi lạng, một cái bát bạc nặng bảy mươi lạng, cả cái dĩa và cái bát đều đựng đầy bột mịn trộn dầu - đó là lễ vật ngũ cốc; 14 một cái dĩa vàng nặng mười lạng đựng đầy nhũ hương; 15 một con bò tơ đực, một con cừu đực, một con cừu con một tuổi dùng làm sinh tế thiêu; 16 một con dê đực dùng làm sinh tế chuộc tội; 17 hai con bò, năm cừu đực, năm dê đực, năm cừu con một tuổi - tất cả dùng làm lễ vật thù ân.
18-23 Vào ngày thứ hai, Na-tha-na-ên con Xu-a, tộc trưởng Y-sa-ca, đem dâng lễ vật. Các lễ vật của ông cũng giống như các lễ vật Na-sơn đem dâng hôm trước.
24-29 Vào ngày thứ ba, Ê-li-áp con Hê-lôn, tộc trưởng Sa-bu-luân, đem dâng lễ vật cũng giống như các lễ vật của hai trưởng tộc trên.
30-35 Vào ngày thứ tư, Ê-li-xua, con Sê-đô, tộc trưởng Ru-bên, đem dâng lễ vật cũng giống như các lễ vật của các tộc trưởng trên.
36-41 Vào ngày thứ năm, Sê-lu-mi-ên, con Xu-ri-ha-đai, tộc trưởng Si-mê-ôn, đem dâng lễ vật, cũng giống như các lễ vật của các trưởng tộc trên.
42-47 Vào ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp, con Điểu-ên, tộc trưởng Gát, đem dâng các lễ vật cũng giống như các lễ vật của các trưởng tộc trước.
48-53 Vào ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma, con A-mi-hút, tộc trưởng Ép-ra-im, đem dâng lễ vật cũng giống như lễ vật của các trưởng tộc trước.
54-59 Vào ngày thứ tám, Ga-ma-liên con Phê-đa-su, tộc trưởng Ma-na-se, đem dâng các lễ vật cũng giống như lễ vật của các trưởng tộc trước.
60-65 Vào ngày thứ chín, A-bi-đan, con Ghi-đê-ô-ni, tộc trưởng Bên-gia-min, cũng đem dâng các lễ vật như thế.
66-71 Vào ngày thứ mười, A-hi-ê-xe, con A-mi-sa-đai, tộc trưởng Đan, cũng đem dâng các lễ vật như thế.
72-77 Vào ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên, con Ốc-ran, tộc trưởng A-se, cũng đem dâng các lễ vật như thế.
78-83 Vào ngày thứ mười hai, A-hi-ra, con Ê-nan, tộc trưởng Nép-ta-li, cũng đem dâng các lễ vật như thế.
84-86 Vậy trong ngày bàn thờ được xức dầu, tổng số các lễ vật của các trưởng tộc hiến dâng là:
Mười hai dĩa bạc, mỗi cái nặng một trăm ba mươi lạng; mười hai bát bạc, mỗi cái nặng bảy mươi lạng, (tổng số trọng lượng bạc 2.400 lạng), theo cân Nơi Thánh; mười hai dĩa vàng, mỗi cái nặng mười lạng, đựng đầy nhũ hương (tổng số trọng lượng vàng là một trăm hai mươi lạng). 87 Ngoài ra, họ còn dâng mười hai bò đực, mười hai cừu đực, mười hai cừu con một tuổi làm sinh tế thiêu, dâng chung với lễ vật ngũ cốc; mười hai dê đực làm sinh tế chuộc tội; 88 hai mươi bốn bò tơ đực, sáu mươi cừu đực, sáu mươi dê đực, sáu mươi cừu con một tuổi làm lễ vật thù ân.
89 Khi Mai-sen vào Lều Hội Kiến thưa chuyện với Chúa, ông nghe tiếng Chúa phán dạy vang ra từ trên Nắp Chuộc Tội, trên Rương Giao Ước, giữa hai chê-ru-bim.
1,2 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen dặn A-rôn: "Con hãy sắp xếp bảy ngọn đèn trên chân đèn thế nào cho ánh sáng chiếu thẳng ra đằng trước." 3 A-rôn vâng lời, xếp cho đèn chiếu thẳng ra. 4 Chân đèn làm bằng vàng dát, từ đế cho đến hoa, theo kiểu mẫu Chúa cho Mai-sen xem.
5 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: 6,7 "Hãy biệt riêng người Lê-vi ra khỏi nhân dân, lấy nước thanh tẩy rảy trên họ, rồi bảo họ tự cạo sạch mình mẩy và giặt sạch áo xống. 8 Con bảo họ đem dâng một con bò tơ đực và lễ vật ngũ cốc bột mịn trộn dầu, cùng với một con bò tơ đực khác làm sinh tế chuộc tội. 9 Sau đó, hãy dẫn người Lê-vi đến cửa Lều Hội Kiến trước sự chứng kiến của toàn dân. 10 Con sẽ trình diện người Lê-vi cho Chúa Hằng Hữu; và nhân dân Y-sơ-ra-ên sẽ đặt tay trên họ. 11 A-rôn sẽ dâng người Lê-vi cho Chúa như một lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng lên, để thay dân phục vụ Chúa. 12 Người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con bò: một con làm sinh tế chuộc tội, một con làm sinh tế thiêu, dâng lên Chúa để chuộc tội cho họ. 13 Xong rồi, người Lê-vi sẽ được giao cho A-rôn và các con A-rôn, giống như một lễ vật dâng lên Chúa theo lối đưa qua đưa lại; sau khi dâng, lễ vật thuộc về thầy tế lễ.
14 "Như thế, con phân biệt người Lê-vi với những người Y-sơ-ra-ên khác, vì người Lê-vi thuộc về Ta.
15 "Sau khi được làm lễ thanh tẩy và hiến dâng, người Lê-vi sẽ vào Lều Hội Kiến hầu việc Ta. 16 Họ được dâng cho Ta để thay thế các con trưởng nam Y-sơ-ra-ên, và Ta chấp nhận họ. 17 Vì vào hôm Ta đoán phạt các con đầu lòng Ai Cập, Ta đã dành cho Ta tất cả con đầu lòng Y-sơ-ra-ên, cả người lẫn gia súc. 18 Và bây giờ, Ta nhận người Lê-vi thay cho các con trưởng nam Y-sơ-ra-ên. 19 Ta sẽ giao người Lê-vi cho A-rôn và các con trai (như một món quà tặng), để họ phục vụ trong Lều Hội Kiến thay cho người Y-sơ-ra-ên, và làm lễ chuộc tội cho người Y-sơ-ra-ên; nhờ đó người Y-sơ-ra-ên sẽ không bị tai họa. Vì nếu ai trong nhân dân Y-sơ-ra-ên vào Nơi Thánh, thì người ấy phải mang tai họa."
20 Mai-sen, A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên thực hiện mọi lời Chúa dạy Mai-sen về người Lê-vi. 21 Người Lê-vi tẩy sạch mình, giặt áo xống, và A-rôn dâng họ cũng như dâng một lễ vật cho Chúa. A-rôn cũng làm lễ chuộc tội cho họ được thánh sạch. 22 Sau đó, họ vào Lều Hội Kiến giúp A-rôn và các con A-rôn. Mọi việc đều thực hiện đúng theo lời Chúa dạy Mai-sen.
23 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 24 "Mỗi người Lê-vi sẽ bắt đầu cuộc đời công vụ trong Lều Hội Kiến từ tuổi hai mươi lăm; 25,26 đến tuổi năm mươi, họ sẽ mãn nhiệm vụ, nhưng vẫn có thể ra vào Lều Hội Kiến phụ giúp công việc."
1 Khi dân Y-sơ-ra-ên còn ở trong sa mạc Si-nai, vào tháng giêng, năm thứ hai tính từ ngày họ rời đất Ai Cập, Chúa Hằng Hữu có bảo Mai-sen như sau:
2,3 "Người Y-sơ-ra-ên sẽ ăn lễ Vượt Qua hằng năm vào tối ngày mười bốn tháng này, theo đúng thủ tục Ta truyền dạy." 4 Vậy, Mai-sen thông báo lễ Vượt Qua cho toàn dân. 5 Lễ Vượt Qua được cử hành bắt đầu tối ngày mười bốn tháng giêng ngay tại sa mạc Si-nai, như lời Chúa dạy.
6,7 Nhưng có mấy người đụng vào xác chết, bị ô uế, nên không được dự lễ. Những người này đến xin Mai-sen và A-rôn giải thích vì sao họ bị ô uế, và khiếu nại về việc họ bị cấm dâng sinh tế cho Chúa trong ngày đã định, là ngày toàn dân phải dự lễ. 8 Mai-sen cho họ biết là ông sẽ thỉnh ý Chúa về việc này. 9 Chúa trả lời cho Mai-sen: 10,11 "Từ nay về sau, nếu có một người Y-sơ-ra-ên nào vì đụng vào người chết mà bị ô uế, hay phải đi xa nhà trong ngày lễ, thì người ấy sẽ ăn lễ Vượt Qua vào tối ngày mười bốn tháng hai. 12 Họ cũng ăn bánh không men và rau đắng với thịt cừu. Họ không được để dành món gì đến sáng hôm sau, không được bẻ gãy một cái xương cừu nào, và họ phải theo đúng mọi chỉ thị khác về lễ Vượt Qua. 13 Còn người nào dù không bị ô uế, hay không phải đi xa nhà, nhưng không chịu dự lễ, sẽ phải bị trục xuất khỏi cộng đồng nhân dân, vì đã không dâng sinh tế cho Chúa trong thời gian ấn định; người ấy phải mang tội mình. 14 Nếu có người ngoại quốc tạm trú muốn dự lễ Vượt Qua với người Y-sơ-ra-ên và dâng sinh tế cho Chúa, thì người ấy cũng phải theo đúng mọi chỉ thị về lễ này, cùng một quy luật áp dụng cho cả người Y-sơ-ra-ên và người ngoại quốc."
15 Vào ngày Đền Tạm được dựng lên, Đám Mây che phủ Đền. Đến tối, trên Đền như có lửa cháy rực cho đến sáng hôm sau. 16 Và cứ thế, Mây che phủ Đền ban ngày, và Lửa xuất hiện ban đêm. 17 Mỗi khi Đám Mây bay lên khỏi nóc Đền, người Y-sơ-ra-ên ra đi; đến nơi nào Đám Mây dừng lại, họ cắm trại tại nơi ấy. 18 Như vậy, lúc ra đi cũng như lúc dừng lại, họ đều tuân lệnh Chúa. Và khi nào Đám Mây còn dừng lại trên nóc Đền, họ còn được nghỉ chân trong trại mình. 19,20 Nếu Đám Mây tiếp tục dừng lại trên nóc Đền lâu ngày, họ dừng chân lâu ngày; nếu Đám Mây chỉ dừng lại vài ngày, họ cũng dừng chân vài ngày rồi lại ra đi, nhất nhất đều theo lệnh Chúa. 21 Có khi Đám Mây dừng lại vào buổi tối và sáng hôm sau đã bay lên, họ phải lập tức ra đi; và dù Đám Mây bay lên ban đêm hay ban ngày, họ cũng vẫn ra đi. 22 Nếu Đám Mây dừng lại trên nóc Đền vài ngày, một tháng hay một năm, thời gian ấy người Y-sơ-ra-ên cũng dừng chân đóng trại. Nhưng bất kỳ lúc nào Đám Mây bay lên, họ liền ra đi. 23 Vậy, theo lệnh Chúa họ cắm trại; theo lệnh Chúa họ ra đi; họ tuân theo mọi điều Chúa dạy bảo Mai-sen.
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 2 "Con hãy làm hai chiếc kèn bằng bạc dát mỏng, dùng để triệu tập nhân dân hội họp và báo hiệu tháo trại lên đường.
3 "Khi muốn triệu tập toàn dân tại cửa Lều Hội Kiến, thì thổi cả hai kèn. 4-7 Lúc triệu tập, không được thổi kèn vang động dồn dập. Thổi kèn vang động dồn dập là hiệu lệnh xuất quân. Khi thổi kèn vang động dồn dập lần thứ nhất, đó là hiệu lệnh cho trại phía đông ra đi. Khi kèn thổi vang động lần thứ hai, trại phía nam ra đi. 8 Người thổi kèn là các thầy tế lễ con A-rôn. Đây là một định lệ có tính cách vĩnh viễn, áp dụng qua các thế hệ.
9 "Khi các ngươi vào lãnh thổ mình rồi, mỗi khi xuất quân chống quân thù xâm lăng, phải thổi kèn vang động dồn dập; Chúa sẽ nghe và cứu các ngươi khỏi quân thù. 10 Cũng được thổi kèn trong những ngày vui mừng, những kỳ lễ, ngày đầu tháng, lúc dâng lễ thiêu và lễ thù ân. Tiếng kèn sẽ nhắc nhở Thượng Đế nhớ đến các ngươi. Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của các ngươi."
11 Vào ngày hai mươi tháng hai, năm thứ hai, Đám Mây bay lên khỏi nóc Đền Chứng Cớ, 12 và người Y-sơ-ra-ên từ sa mạc Si-nai lên đường. Đi đến sa mạc Pha-ran, Đám Mây dừng lại. 13 Đây là lần đầu tiên họ ra đi sau khi nhận được huấn thị của Chúa do Mai-sen truyền lại. 14 Đại tộc Giu-đa ra đi trước tiên, dưới ngọn cờ của tộc mình, do Na-sơn con A-mi-na-đáp chỉ huy. 15 Thứ đến là đại tộc Y-sa-ca, 16 do Na-tha-na-ên con Xu-a chỉ huy; sau đó đại tộc Sa-bu-luân, do Ê-li-áp con Hê-lôn chỉ huy.
17 Đền Tạm được tháo gỡ, các gia tộc Ghẹt-sôn và Mê-ra-ri khiêng đi. 18 Đi sau Đền là đại tộc Ru-bên, dưới ngọn cờ mình, do Ê-li-xua con Sê-đô chỉ huy. 19 Kế sau là đại tộc Si-mê-ôn, do Sê-lu-mi-ên con Xu-ri-ha-đai, chỉ huy; 20 rồi đến đại tộc Gát, do Ê-li-a-sáp con Điểu-ên chỉ huy.
21 Gia tộc Kê-hát ra đi, khiêng theo các vật thánh trong Đền Thánh. Đền phải được dựng xong xuôi trước khi gia tộc Kê-hát đến nơi. 22 Kế đến là đại tộc Ép-ra-im, do Ê-li-sa-ma con A-mi-hút chỉ huy. 23 Rồi đến đại tộc Ma-na-se, do Ga-ma-liên con Phê-đa-su chỉ huy. 24 Sau đó là đại tộc Bên-gia-min, do A-bi-đan con Ghi-đê-ô-ni chỉ huy.
25 Đại tộc Đan hướng dẫn đạo quân hậu tập do A-hi-ê-xe con A-mi-sa-đai, chỉ huy, đi dưới ngọn cờ mình. 26 Sau đại tộc Đan là đại tộc A-se, do Pha-ghi-ên con Ốc-ran chỉ huy. 27 Đi sau cùng là đại tộc Nép-ta-li do A-hi-ra con Ê-nan chỉ huy. 28 Đó là thứ tự đội ngũ của người Y-sơ-ra-ên khi họ ra đi.
29 Một hôm, Mai-sen nói với anh vợ mình là Hô-báp con Rê-u-ên, người Ma-đi-an, rằng: "Cuộc hành trình này sẽ đưa chúng ta đến đất hứa. Anh cứ theo chúng tôi, chúng tôi sẽ hậu đãi anh, vì Chúa đã hứa ban phước lành cho Y-sơ-ra-ên." 30 Nhưng Hô-báp đáp: "Không được. Tôi phải về quê sống với bà con thân quyến." 31 Mai-sen năn nỉ: "Xin anh đừng bỏ về. Anh là người thông thạo việc cắm trại trong sa mạc nên anh sẽ giúp chúng tôi rất đắc lực.32 Nếu anh đi với chúng tôi, thì chúng tôi sẽ chia sẻ với anh mọi thứ phước lành Chúa ban cho chúng tôi."
33 Vậy, họ rời núi Si-nai, đi đường trong ba ngày; Rương Giao Ước của Chúa đi trước, tìm một nơi cho họ dừng chân. 34 Đám Mây của Chúa che họ hằng ngày trong lúc đi đường.
35 Cứ mỗi lần Rương Giao Ước ra đi, Mai-sen cầu khẩn: "Ôi, Chúa Hằng Hữu, xin đứng lên đánh kẻ thù tan tác, đuổi kẻ ghét Chúa chạy dài." 36 Và mỗi khi Rương Giao Ước dừng lại, Mai-sen cầu: "Xin Chúa trở lại với toàn dân Y-sơ-ra-ên."
1 Người Y-sơ-ra-ên bắt đầu giở giọng phàn nàn, than thân trách phận. Chúa nghe tất cả và nổi giận. Lửa của Chúa bắt đầu thiêu đốt những trại ở ven ngoài cùng của họ. 2 Họ kêu cứu với Mai-sen. Mai-sen kêu cầu Chúa và lửa ngừng cháy. 3 Mai-sen đặt tên chỗ ấy là Ta-bê-ra, vì lửa của Chúa đốt cháy họ.
4 Đã thế, những người ngoại quốc đi chung với người Y-sơ-ra-ên lại đòi hỏi, thèm thuồng, nên người Y-sơ-ra-ên lại kêu khóc: "Làm sao được miếng thịt mà ăn! 5 Nhớ ngày nào còn ở Ai Cập, tha hồ ăn cá, ăn dưa leo, dưa hấu, ăn kiệu, hành, tỏi; 6 nhưng ngày nay sức lực tiêu tán vì chẳng có gì ăn ngoài ma-na trước mắt!"
7 (Ma-na mịn như hạt ngò, trong như nhựa cây. 8 Người ta chỉ cần nhặt lấy, đem xay hoặc giã rồi hấp chín đi để làm bánh. Bánh ma-na có vị như bánh pha dầu ô-liu. 9 Đêm đêm, lúc sương rơi là lúc ma-na rơi xuống quanh trại).
10 Các gia đình Y-sơ-ra-ên đều ra đứng khóc lóc ở cửa trại mình. Mai-sen nghe vậy, bất mãn lắm và Chúa cũng nổi giận. 11 Mai-sen thưa với Chúa: "Sao Chúa làm cho kẻ tôi tớ này buồn khổ? Sao Chúa không ban ân mà cứ bắt con phải gánh vác dân này? 12 Họ có phải là con đẻ của con đâu mà Chúa bảo con ẵm họ vào lòng như mẹ nuôi dưỡng con mình, đem họ vào đất Chúa đã hứa cho tổ tiên họ? 13 Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn mà họ cứ khóc lóc đòi thịt? 14 Một mình con không gánh nổi dân này, trách nhiệm con nặng nề quá! 15 Nếu Chúa cư xử với con thế này, xin thà giết con ngay đi, để con khỏi lâm vào cảnh khốn nạn, và như vậy là Chúa làm ơn cho con đó!"
16 Chúa bảo Mai-sen: "Con chọn bảy mươi trưởng lão trong dân, đem họ vào Lều Hội Kiến đứng với con. 17 Ta sẽ xuống nói chuyện với con tại đó, và lấy Thần Linh trong con đặt trên những người ấy để họ chia sẻ trách nhiệm với con và con không phải gánh vác một mình. 18 Cũng bảo nhân dân phải dọn mình thanh sạch, ngày mai họ sẽ được ăn thịt. Ta đã nghe lời khóc than của họ vì thèm thịt, vì luyến tiếc những ngày đầy đủ ở Ai Cập. Ta sẽ cho họ thịt. 19 Họ sẽ ăn, không phải chỉ một hai ngày, năm mười ngày hay vài mươi ngày, 20 nhưng ăn suốt tháng trời, đến độ chán chê thịt, nôn cả ra lỗ mũi, vì họ từ khước Chúa đang ở giữa họ, mà khóc than tiếc nuối Ai Cập."
21 Mai-sen thắc mắc: "Dân Y-sơ-ra-ên có đến sáu trăm ngàn bộ binh, thế mà Chúa sẽ cho họ ăn thịt suốt tháng sao? 22 Nếu vậy phải giết hết bò, cừu, hoặc bắt hết cá dưới biển cho họ ăn mới đủ."
23 Nhưng Chúa bảo Mai-sen: "Tay của Chúa đâu có ngắn? Con chờ xem lời Ta hứa có được thực hiện hay không."
24 Mai-sen ra khỏi Đền, kể cho nhân dân nghe mọi lời Chúa dạy. Ông chọn bảy mươi trưởng lão, đem họ đến đứng quanh Lều Hội Kiến. 25 Chúa giáng xuống Đám Mây nói chuyện với Mai-sen, và lấy Thần Linh trong ông đặt trên bảy mươi trưởng lão. Khi Thần Linh ngự trên họ, các trưởng lão bắt đầu nói tiên tri, nhưng không được lâu dài.
26 Lúc ấy có hai trưởng lão, là Ên-đạt và Mê-đạt, vẫn còn ở trong trại chứ chưa đi đến Lều Hội Kiến. Khi Thần Linh ngự trên họ, họ nói tiên tri ngay trong trại. 27 Một thanh niên chạy đi báo tin cho Mai-sen: "Ên-đạt và Mê-đạt đang nói tiên tri trong trại." 28 Giô-suê con của Nun, người phụ tá của Mai-sen, lên tiếng: "Xin thầy cấm họ." 29 Mai-sen đáp: "Con ganh tị giùm cho ta sao? Ta chỉ ước mong mỗi con dân của Chúa đều nói tiên tri, và Chúa đổ Thần Linh của Ngài trên mọi người." 30 Sau đó, Mai-sen và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên trở về trại.
31 Chúa sai gió thổi chim cút từ biển đến, sa vào trại Y-sơ-ra-ên. Chim nằm dày đặc cả một vùng, từ trại lan rộng ra khắp chung quanh, mỗi phía rộng ước chừng một ngày đường, và từ mặt đất lên cao đến quãng một thước. 32 Người ta lo bắt chim cút suốt cả ngày và đêm hôm ấy, và luôn cả ngày hôm sau. Mỗi người ít nhất cũng bắt được một trăm giạ. Họ đem chim phơi khắp quanh trại. 33 Nhưng khi người ta bắt đầu ăn thịt chim, cơn phẫn nộ của Chúa nổi lên, Ngài giáng tai họa khủng khiếp trên họ. 34 Và nơi ấy được gọi là Kíp-rốt Ha-tha-va, vì là nơi chôn xác của những người tham ăn.
35 Từ Kíp-rốt Ha-tha-va, họ lại ra đi và dừng chân tại Hát-xê-rốt.
1 Mỵ-lâm và A-rôn nói hành Mai-sen về người đàn bà ở xứ Cúc, mà Mai-sen cưới làm vợ. 2 Họ nói: "Có phải chỉ một mình Mai-sen là người trung gian truyền đạt sứ mệnh của Chúa cho nhân dân đâu? Ngài không phán qua chúng ta sao?" Chúa nghe những lời đó. 3 (Mai-sen là một người khiêm hòa nhất trên đời.) 4 Thình lình Chúa truyền bảo Mai-sen, A-rôn và Mỵ-lâm: "Cả ba đi ngay vào Lều Hội Kiến!" Họ vâng lời. 5 Chúa ngự xuống trong trụ mây, đứng tại cửa Đền, gọi A-rôn và Mỵ-lâm. Họ cùng bước tới. 6 Ngài phán: "Lắng tai nghe đây. Ta dùng khải thị, chiêm bao để nói với các tiên tri, 7,8 nhưng với Mai-sen, người đầy tớ trung thành trong nhà Ta, Ta nói chuyện trực tiếp, rõ ràng. Chính Mai-sen cũng đã được chiêm ngưỡng hình dáng của Ta nữa. Thế mà các ngươi không sợ nói hành đầy tớ của Ta sao?"
9 Cơn phẫn nộ của Chúa nổi lên cùng họ, rồi Ngài ngự đi. 10 Vừa khi Đám Mây bay khỏi nóc Đền, Mỵ-lâm liền bị bệnh phung trắng như tuyết. A-rôn thấy thế, 11 liền van xin Mai-sen: "Xin đừng trừng phạt chúng tôi, vì chúng tôi phạm tội và hành động điên cuồng. 12 Đừng để cho chị ấy như người đã chết, như một hài nhi lọt lòng mẹ với một thân thể rữa nát." 13 Mai-sen kêu xin Chúa: "Chúa ơi! Xin Ngài chữa lành chị con." 14 Chúa liền bảo Mai-sen: "Nếu cha nàng nhổ vào mặt nàng, thì nàng cũng phải chịu xấu hổ trong bảy ngày. Vậy nàng phải được giữ bên ngoài trại quân bảy ngày, sau đó mới được vào trại." 15 Và như thế, Mỵ-lâm được giữ lại một nơi bên ngoài trại bảy ngày. Nhân dân không lên đường cho đến ngày Mỵ-lâm được trở vào trại. 16 Sau đó, họ từ Hát-xê-rốt ra đi. Đến sa mạc Pha-ran, họ dừng chân cắm trại.
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 2 "Con chọn trong số các nhà lãnh đạo, mỗi đại tộc một người, sai họ đi do thám Ca-na-an, đất Ta cho Y-sơ-ra-ên."
3-4 Mai-sen vâng lời, sai mười hai người ra đi từ sa mạc Pha-ran, tất cả đều thuộc cấp lãnh đạo Y-sơ-ra-ên.
5 Sam-mua con Xác-cư, thuộc đại tộc Ru-bên,
6 Khanh-lý con Giê-phu-nê, thuộc đại tộc Giu-đa,
7 Di-ganh con Giô-sép, thuộc đại tộc Y-sa-ca,
8 Hô-sê con Nun, thuộc đại tộc Ép-ra-im,
9 Phan-thi con Ra-phu, thuộc đại tộc Bên-gia-min,
10 Gát-đinh con Sô-đi, thuộc đại tộc Sa-bu-luân,
11 Ga-đi con Su-si, thuộc đại tộc Giô-sép tức là Ma-na-se,
12 A-mi-ên con Ghê-ma-li, thuộc đại tộc Đan,
13 Sê-thu con Mi-ca-ên, thuộc đại tộc A-se,
14 Na-bi con Vấp-si, thuộc đại tộc Nép-ta-li,
15 Gu-ên con Ma-ki, thuộc đại tộc Gát.
16,17 Đó là danh sách các thám tử Mai-sen sai đi trinh sát xứ Ca-na-an. Ông đổi tên Hô-sê con của Nun ra Giô-suê. Mai-sen dặn họ: "Các anh đi vào nam bộ, lên miền cao nguyên; 18 xem thử địa thế ra sao, dân tình thế nào, đông hay thưa, mạnh hay yếu, 19 đất tốt hay xấu, thành thị có hào lũy kiên cố hay chỉ là lều trại đơn sơ, 20 đất đai màu mỡ hay nghèo nàn, có nhiều cây cối hay tiêu điều. Ngoài ra, hãy cố gắng đem về một ít hoa quả, đừng ngại ngùng." Lúc ấy đúng vào mùa hái nho đầu tiên trong năm.
21 Vậy, họ ra đi trinh sát đất này, từ sa mạc Sin tới Rê-hốp, gần Ha-mát. 22 Họ đi lên xuyên qua nam bộ, tới Hếp-rôn, quê của con cháu A-nác là A-hi-man, Sê-sai và Thanh-mai. (Thành Hếp-rôn được xây trước Xô-an ở Ai Cập bảy năm.) 23 Họ đến thung lũng Ếch-côn, cắt một chùm nho, hai người phải dùng đòn mới khiêng nổi. Họ cũng hái mấy trái thạch lựu và trái vả đem về. 24 Thung lũng ấy được gọi là Ếch-côn, vì các thám tử Y-sơ-ra-ên đã hái nho ở đó.
25 Sau bốn mươi ngày do thám, họ trở về 26,27 gặp Mai-sen, A-rôn và toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên tại Ca-đe, trong sa mạc Pha-ran. Họ cho mọi người xem các trái cây hái được, và báo cáo: "Chúng tôi đã vào xứ ấy theo đúng chỉ thị, đó là một vùng đất rất phì nhiêu, và đây là hoa quả của đất ấy. 28 Tuy nhiên, thổ dân rất cường tráng, thành thị rộng lớn và hào lũy kiên cố. Ngoài ra, chúng tôi có thấy bọn khổng lồ (dòng dõi A-nác) ở đó nữa.
29 "Người A-ma-léc ở tại miền nam bộ, người Hết, người Giê-bu và người Am-môn ở vùng cao nguyên, còn người Ca-na-an ở miền biển và dọc theo sông Giô-đan."
30 Khanh-lý lên tiếng để trấn an nhân dân đang xào xạc trước mặt Mai-sen: "Chúng ta phải đi ngay vào chiếm lấy đất ấy, chúng ta thừa sức chinh phục xứ này." 31 Nhưng các thám tử khác nói: "Chúng ta không đủ sức đâu, vì họ mạnh hơn ta." 32 Những người này thổi phồng những điểm bất lợi: "Đất này sẽ nuốt trửng dân ta, vì dân cư chúng nó là giống khổng lồ. 33 Chúng tôi đã thấy bọn người khổng lồ con cháu A-nác; họ to lớn đến độ chúng tôi cảm thấy mình bé nhỏ như những con cào cào khi đứng trước mặt họ."
1 Nghe thế, mọi người nức nở khóc lóc. Họ khóc suốt đêm ấy. 2 Họ cùng nhau lên tiếng thống trách Mai-sen và A-rôn: "Thà chúng tôi chết ở Ai Cập hay chết trong sa mạc này còn hơn! 3 Tại sao Chúa đem chúng tôi đến đây để chịu đâm chém, và vợ con chúng tôi làm mồi cho địch? Thà đi trở lại Ai Cập còn hơn!"
4 Họ quay lại bàn với nhau: "Chúng ta nên bầu một vị lãnh tụ để đem chúng ta quay về Ai Cập."
5 Mai-sen và A-rôn sấp mình xuống trước mặt toàn thể nhân dân. 6 Giô-suê, con của Nun, và Khanh-lý con của Giê-phu-nê, là hai người trong toán đi trinh sát Ca-na-an về, liền xé áo mình, 7 khích lệ mọi người: "Xứ chúng tôi đi do thám đất đai cực kỳ màu mỡ. 8 Nếu Chúa thương yêu giúp đỡ, Ngài sẽ đưa chúng ta vào và cho chúng ta xứ ấy, là một xứ 'đượm sữa và mật.' 9 Nhưng, xin đồng bào đừng nổi loạn cùng Chúa, cũng đừng sợ dân của xứ ấy, vì họ chỉ là mồi ngon cho chúng ta. Họ không còn sức chống đỡ vì Chúa đứng bên chúng ta, không việc gì ta phải sợ họ!" 10 Nhưng mọi người lại bảo nhau lấy đá ném hai ông cho chết. Thình lình, vinh quang của Chúa phát hiện tại Lều Hội Kiến trước mặt toàn thể nhân dân. 11 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Dân này không tin Ta, khinh dể Ta cho đến bao giờ, mặc dù Ta đã làm bao nhiêu phép lạ giữa họ? 12 Ta sẽ truất quyền thừa hưởng của họ, tiêu diệt họ bằng dịch lệ tai ương, rồi sẽ làm cho dòng giống của con thành một nước lớn mạnh hơn họ."
13 Nhưng Mai-sen thưa: "Nếu thế, người Ai Cập sẽ nghe tin này. Vì Chúa đã dùng quyền lực phi thường đem Y-sơ-ra-ên ra đi từ Ai Cập, 14 họ sẽ báo cho dân ở trong xứ này biết. Họ cũng có nghe rằng Chúa là Chúa Hằng Hữu ở với dân Y-sơ-ra-ên, hiện diện giữa Y-sơ-ra-ên; Đám Mây của Chúa dẫn đường Y-sơ-ra-ên ngày và đêm. 15 Bây giờ nếu Chúa tiêu diệt Y-sơ-ra-ên, những nước đã nghe danh tiếng Chúa sẽ nói rằng: 16 'Vì Chúa Hằng Hữu không thể nào đem Y-sơ-ra-ên vào đất Ngài thề hứa cho họ, nên mới giết họ đi trong nơi sa mạc.' 17 Vậy con van nài Chúa, xin quyền năng của Chúa thể hiện cách uy nghi, như Chúa đã nói: 18 'Chúa Hằng Hữu đầy tình thương, chậm giận, hay thứ lỗi; nhưng Chúa cũng không thể không trừng phạt kẻ có tội và dòng dõi họ.' 19 Xin Chúa tha tội cho dân này, vì tình thương không hề thay đổi của Chúa, cũng như Chúa đã bao lần tha thứ cho họ từ khi còn ở Ai Cập cho đến ngày nay."
20 Chúa Hằng Hữu đáp: "Theo lời con xin, Ta đã tha cho họ. 21 Nhưng hiển nhiên như Ta hằng sống, vinh quang Ta sẽ tràn ngập đất. 22,23 Trong tất cả những người thấy vinh quang Ta, sẽ không một ai được thấy đất đai Ta đã hứa cho tổ tiên họ. Họ đã thấy các phép lạ Ta làm tại Ai Cập cũng như trong sa mạc, nhưng đã mười lần không tin Ta, không vâng lời Ta. 24 Nhưng tôi tớ Ta là Khanh-lý, với một tinh thần khác biệt, đã hết lòng theo Ta; nên Ta sẽ đưa Khanh-lý vào đất người đã trinh sát, và con cháu người sẽ hưởng chủ quyền đất ấy."
25 (Lúc ấy người A-ma-léc và người Ca-na-an đang sống trong thung lũng) "Ngày mai," Chúa Hằng Hữu tiếp, "các ngươi sẽ quay lại, đi vào sa mạc theo hướng Biển Đỏ."
26 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen và A-rôn: 27 "Những kẻ tội lỗi này còn phàn nàn oán trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe hết những lời của người Y-sơ-ra-ên phàn nàn rồi. 28 Con bảo họ rằng: 'Hiển nhiên như Ta hằng sống, Ta sẽ làm cho những lời kêu ca của các ngươi thành sự thật. 29 Các ngươi đều phải chết trong sa mạc; tất cả những ai đã thống trách Ta, từ hai mươi tuổi trở lên, 30 đều không được vào đất hứa, trừ Khanh-lý con Giê-phu-nê và Giô-suê con Nun. 31 Đối với con cái của các ngươi, các ngươi nói rằng chúng nó sẽ làm mồi cho địch, nhưng Ta sẽ đưa chúng nó vào đất các ngươi chê bỏ. 32 Còn về chính các ngươi thì thây các ngươi sẽ nằm rạp trong sa mạc này. 33 Vì các ngươi bất trung, nên con cái các ngươi phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến ngày người sau cùng trong các ngươi chết đi trong sa mạc. 34 Thời gian bốn mươi năm được qui định theo số ngày trinh sát xứ (bốn mươi ngày), và mỗi ngày thành một năm (bốn mươi năm); đó là thời gian các ngươi phải mang tội ác mình; rồi các ngươi sẽ ý thức được hậu quả của việc toa rập nhau chống nghịch Ta.' 35 Ta là Chúa Hằng Hữu đã quyết định như vậy, họ phải chết trong sa mạc này vì tội phản nghịch Ta."
36-38 Riêng các thám tử đã xúi giục nhân dân nổi loạn -trừ Giô-suê và Khanh-lý -đều chết ngay trước mặt Chúa.
39 Mai-sen thuật lại mọi lời của Chúa cho toàn dân Y-sơ-ra-ên, nên họ vô cùng sầu thảm. 40 Sáng hôm sau, họ dậy sớm, leo lên núi và nói: "Chúng tôi đã phạm tội. Nhưng bây giờ chúng tôi sẵn sàng vào đất hứa. Thấy không, chúng tôi đã lên đến tận đây này." 41 Nhưng Mai-sen nói: "Đã đến nước này sao còn cãi mạng Chúa? Làm vậy anh em chỉ có thất bại. 42 Tự ý ra đi khi không có Chúa đi cùng, anh em sẽ bị quân thù đánh tan! 43 Anh em sẽ chết dưới lưỡi gươm của quân A-ma-léc và Ca-na-an, vì anh em đã chối bỏ Chúa, nên Ngài cũng từ bỏ anh em." 44 Nhưng họ ngoan cố cứ tiến lên núi, mặc dù Rương Giao Ước của Chúa cũng như Mai-sen đều ở lại trong trại. 45 Quân A-ma-léc và Ca-na-an ở trên núi đổ xuống đánh giết họ và đánh đuổi họ chạy dài cho đến Họt-ma.
1-5 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen nói với người Y-sơ-ra-ên: "Sau khi đã vào trong đất Ta cho, khi đem đốt dâng hương thơm lên cho Chúa lễ thiêu hay một sinh tế gì, phải dâng bò hay cừu bắt từ trong bầy. Các sinh tế này, dù dâng trong lễ khấn nguyện, hay tình nguyện, hay dâng trong các ngày lễ ấn định, phải dâng cùng với một lễ vật ngũ cốc. Nếu sinh tế là một con cừu con, lễ vật ngũ cốc sẽ là ba lít bột mịn trộn với một lít rưỡi dầu, đồng thời cũng dâng một lít rưỡi rượu nho. 6 Nếu sinh tế là một con cừu đực, lễ vật ngũ cốc là sáu lít bột mịn trộn với hai lít rưỡi dầu, 7 đồng thời cũng dâng hai lít rưỡi rượu nho. Đó là các lễ vật có hương thơm dâng lên cho Chúa. 8,9 Nếu sinh tế là một con bò tơ, lễ vật ngũ cốc là chín lít bột mịn trộn với ba lít dầu, 10 đồng thời cũng dâng ba lít rượu nho. Đó là các lễ vật dùng lửa dâng hương vị lên Chúa Hằng Hữu. 11,12 Các lễ vật ấy phải được dâng theo số lượng ấn định, tùy theo sinh tế là bò đực, cừu đực, cừu con hay dê con. 13,14 Luật lệ này áp dụng chung cho người Y-sơ-ra-ên và người ngoại kiều khi dâng lễ vật, dùng lửa dâng hương vị lên Chúa Hằng Hữu. 15,16 Chỉ có một luật áp dụng cho cả mọi người Y-sơ-ra-ên lẫn ngoại kiều. Nguyên tắc này có tính cách vĩnh viễn, không thay đổi qua các thế hệ, vì trước mặt Chúa, người Y-sơ-ra-ên cũng như người ngoại kiều."
17,18 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen nói thêm những điều này với người Y-sơ-ra-ên: "Khi đã vào trong đất Ta cho, 19-21 các ngươi phải dâng cho Ta lễ vật vào mùa gặt hằng năm: làm một ổ bánh bằng bột thô lấy từ cối đầu tiên, nâng tay dâng lên tại sân đập lúa. Lệ này áp dụng vĩnh viễn, qua các thế hệ.
22-24 "Nhưng nếu vì lầm lỡ, vô tình, các ngươi không thi hành mọi huấn thị Chúa đã bảo Mai-sen ban hành (liên tục trong nhiều năm), cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải dâng một con bò tơ làm tế lễ thiêu, dâng hương vị lên Chúa. Họ cũng phải dâng lễ vật ngũ cốc và rượu nho như thường lệ. Ngoài ra họ còn dâng một con dê đực làm lễ chuộc tội. 25 Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho nhân dân và lỗi họ sẽ được tha, vì đây là một sự lầm lỡ, và họ đã dâng lễ thiêu và lễ chuộc tội cho Ta để chuộc lỗi. 26 Toàn thể nhân dân đều được thứ tha, kể cả người ngoại kiều, vì mọi người đều liên hệ trong sự lầm lỡ này.
27 "Trường hợp cá nhân lầm lỡ, người ấy phải dâng một con dê cái một tuổi làm lễ chuộc tội. 28 Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người ấy trước mặt Ta, lỗi người ấy sẽ được tha. 29 Luật về cá nhân lầm lỡ này áp dụng chung cho người Y-sơ-ra-ên và ngoại kiều. 30 Nhưng nếu một người cố tình vi phạm, dù là Y-sơ-ra-ên hay ngoại kiều, thì người ấy phải bị truất khỏi nhân dân, vì đã xúc phạm Chúa. 31 Vì dám coi thường lời của Chúa, vi phạm luật lệ Ngài, nên mạng người ấy phải bị truất đoạt, và người ấy phải mang lấy tội mình."
32 Khi họ còn ở trong sa mạc, một hôm người ta bắt gặp một người đang nhặt củi trong ngày Sa-bát. 33 Người ta dẫn người ấy đến cho Mai-sen, A-rôn và nhân dân. 34 Nhưng vì chưa có điều luật áp dụng cho trường hợp này, người ta giam người ấy lại. 35 Chúa bảo Mai-sen: "Người ấy phải bị xử tử, toàn dân sẽ lấy đá ném cho người ấy chết đi bên ngoài trại." 36 Và người ta dẫn người ấy ra ngoài trại, lấy đá ném chết theo lệnh Chúa.
37,38 Chúa lại bảo Mai-sen dạy người Y-sơ-ra-ên: "Trên áo mỗi người phải kết tua. Các tua này được đính vào lai áo bằng dây màu xanh. Lệ này áp dụng qua các thế hệ. 39 Mỗi khi nhìn thấy các tua, các ngươi sẽ chú tâm nhớ lại các luật lệ của Chúa, tuân hành luật lệ Ngài, chứ không làm theo điều lòng mình ham muốn, mắt mình ưa thích, như các ngươi đã làm khi còn theo các thần khác. 40 Vậy, các ngươi sẽ được nhắc nhở để thi hành lời ta dạy, và trở nên người thánh cho Thượng Đế. 41 Thượng Đế các ngươi là Chúa đã đem các ngươi ra khỏi Ai Cập. Ta là Chúa, Thượng Đế của các ngươi."
1 Một người tên Cô-rê (con Dít-sê-ha, cháu Kê-hát, chắt Lê-vi) âm mưu với ba người thuộc đại tộc Ru-bên là Đa-than, A-bi-ram (hai con của Ê-li-áp) và Ôn (con Phê-lết), 2 nổi loạn chống Mai-sen. Có đến 250 người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, là nhân viên của hội đồng nhân dân, tham dự cuộc nổi loạn này. 3 Họ đến gặp Mai-sen và A-rôn, nói: "Các ông chuyên quyền và lạm quyền quá! Toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên đều là thánh và Ngài ở cùng chúng ta tất cả. Tại sao riêng hai ông tự cho mình có quyền cai trị dân của Chúa?"
4 Nghe vậy, Mai-sen quỳ mọp xuống đất. 5 Ông bảo Cô-rê và đồng bọn: "Sáng mai Chúa sẽ cho biết ai là người của Ngài, ai là người thánh được gần gủi Ngài, người Ngài chọn sẽ được phép đến gần Ngài. 6,7 Sáng mai các ông (Cô-rê và người phe đảng Cô-rê) sẽ cầm lư hương đựng đầy lửa rồi bỏ hương trên lửa trước mặt Chúa, xem thử ai được Ngài chọn. Con cháu Lê-vi ơi, quá quắt lắm rồi!"
8 Mai-sen lại bảo Cô-rê: "Này, con cháu Lê-vi, nghe đây! 9,10 Ông cho rằng việc Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên chọn ông và anh em ông, là người Lê-vi, cho đến gần hầu việc Ngài trong Đền Thờ và đứng trước nhân dân để phục vụ họ là một việc nhỏ mọn sao? Và bây giờ ông còn muốn dòm ngó chức tế lễ tối cao nữa à? 11 Ông và những người theo ông đã toa rập nhau để chống đối Chúa, chứ A-rôn có làm gì mà các ông thống trách?"
12 Nói xong, Mai-sen sai người đi mời Đa-than và A-bi-ram (con Ê-li-áp), nhưng họ nói: "Chúng tôi không thèm đến đâu! 13 Ông đã bắt chúng tôi bỏ một xứ màu mỡ để vào chết trong sa mạc, thế mà ông còn muốn làm vua chúng tôi nữa sao? 14 Ông đâu có đem chúng tôi vào xứ phì nhiêu, cũng chẳng cho chúng tôi đồng ruộng hay vườn nho. Ông tưởng ông cứ che mắt người ta mãi được sao?" Vậy họ nhất định không đến gặp Mai-sen.
15 Mai-sen giận lắm nên thưa với Chúa: "Xin Chúa đừng nhậm tế lễ của họ! Con chẳng hề lấy gì của họ cả, dù chỉ là một con lừa; cũng không hề làm hại họ bao giờ."
16 Rồi Mai-sen bảo Cô-rê: "Ngày mai, ông và những người theo ông sẽ cùng với A-rôn đến trình diện Chúa. 17 Mỗi người phải lấy lư hương, bỏ hương vào, đem đến trước mặt Chúa. Hai trăm năm mươi người cầm hai trăm năm mươi lư hương, cả ông và A-rôn cũng sẽ cầm lư hương."
18 Vậy, họ bỏ lửa và hương vào lư, cầm đến đứng chung với Mai-sen và A-rôn tại cửa Lều Hội Kiến. 19 Vì Cô-rê đã sách động nhân dân, nên họ kéo đến phản đối Mai-sen và A-rôn tại cửa Lều Hội Kiến. Vinh quang của Chúa phát hiện trước toàn dân. 20 Chúa bảo Mai-sen và A-rôn: 21 "Tránh xa họ ra, Ta sẽ tiêu diệt đám dân này tức khắc!" 22 Hai ông liền quì mọp xuống, thưa: "Lạy Chúa, là Chúa Tể của linh hồn mọi người, không lẽ vì một người phạm tội, mà Chúa giận toàn dân sao?"
23,24 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Con ra lệnh cho nhân dân tránh xa trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram!"
25 Mai-sen đứng lên, đi đến trại của Đa-than và A-bi-ram; các trưởng lão cũng đi theo. 26 Ông kêu gọi nhân dân: "Xin đồng bào tránh xa trại của những người độc ác đó, đừng động đến một vật gì của họ hết, đừng để một ai phải chết vì tội của họ!" 27 Vậy, nhân dân đều tránh xa trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram lì lợm ra đứng tại cửa trại, cùng với vợ và con cái lớn bé của mình.
28 Mai-sen nói: "Bây giờ mọi người sẽ biết rằng Chúa đã sai tôi làm công việc cho Ngài, vì những việc tôi đã làm không phải tự tôi đâu. 29 Nếu những người này chết cách thông thường như tất cả những người khác, thì Chúa đã không sai tôi. 30 Nhưng nếu Chúa làm một điều lạ, nếu đất nứt ra nuốt sống họ và mọi vật của họ, nếu họ còn sống mà đi xuống âm phủ, thì trường hợp này có nghĩa là họ đã khinh bỉ Chúa."
31,32 Mai-sen vừa dứt lời, đất dưới chân họ liền nứt ra, nuốt trửng lấy họ và gia đình họ, luôn những người theo phe đảng Cô-rê. Tất cả tài sản họ đều bị đất nuốt. 33 Vậy họ xuống âm phủ trong lúc đang sống, đất phủ lấp họ, và như vậy họ bị diệt trừ khỏi cộng đồng nhân dân. 34 Người Y-sơ-ra-ên đứng chung quanh đó nghe tiếng thét lên, đều kinh hoàng chạy trốn, sợ đất nuốt mình. 35 Lửa từ Chúa lóe ra thiêu hóa hai trăm năm mươi người dâng hương.
36 Sau đó, Chúa bảo Mai-sen: 37 "Con dặn Ê-lê-a-sa, con thầy tế lễ A-rôn, nhặt các lư hương từ trong đám lửa ra, vì các lư hương ấy đã được thánh hóa; cũng đem lửa trong các lư hương đi đổ ngoài xa. 38 Rồi lấy các lư hương của những người đã chết vì tội mình đem dát mỏng để bọc bàn thờ. Các lư hương trở nên thánh vì người ta đã dùng nó trước mặt Chúa. Tấm đồng dát mỏng bọc bàn thờ này có công dụng nhắc nhở, cảnh cáo người Y-sơ-ra-ên."
39 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa vâng lời, lấy các lư hương đồng này, dát mỏng thành một tấm đồng dùng để bọc bàn thờ. 40 Tấm đồng này dùng để nhắc nhở, cảnh cáo người Y-sơ-ra-ên rằng: Ngoài các thầy tế lễ là con cháu A-rôn ra, không ai được đến dâng hương trước mặt Chúa; nếu ai bất tuân thì sẽ phải chết như Cô-rê và đồng bọn. Vậy Ê-lê-a-sa thi hành lệnh của Chúa, do Mai-sen truyền lại.
41 Thế nhưng, qua sáng hôm sau, nhân dân lại nổi lên trách móc Mai-sen và A-rôn: "Các ông đã giết dân của Chúa." 42 Họ họp nhau lại để chống nghịch Mai-sen và A-rôn. Nhưng khi vừa quay lại phía Lều Hội Kiến, họ thấy Đám Mây bao phủ Đền, đồng thời vinh quang của Chúa phát hiện. 43,44 Mai-sen và A-rôn đến đứng trước cửa Lều Hội Kiến. Chúa bảo Mai-sen: 45 "Con tránh xa dân này ra, Ta sẽ tiêu diệt họ tức khắc." Mai-sen và A-rôn liền sấp mình xuống. 46 Mai-sen giục A-rôn: "Anh lấy lư hương, gắp lửa trên bàn thờ vào, bỏ hương lên trên, đem ngay đến chỗ dân đứng để làm lễ chuộc tội cho họ, vì cơn phẫn nộ của Chúa đã phát ra, tai vạ đã khởi sự." 47 A-rôn vâng lời Mai-sen, chạy vào giữa đám dân, vì tai vạ đã phát khởi trong nhân dân; ông bỏ hương vào lư, làm lễ chuộc tội cho dân. 48 A-rôn đứng giữa người sống và kẻ chết, thì tai vạ dừng lại. 49 Số người chết vì tai vạ này lên đến mười bốn ngàn bảy trăm, không kể số người chết với Cô-rê hôm trước. 50 Khi tai vạ đã dừng lại, A-rôn trở về trước cửa Lều Hội Kiến, nơi Mai-sen đang đứng.
1-3 Chúa Hằng Hữu dạy Mai-sen: "Bảo mỗi trưởng tộc Y-sơ-ra-ên đem đến một cây gậy, trên gậy có viết tên mình. Tên A-rôn sẽ được viết trên gậy của đại tộc Lê-vi. Vậy, có tất cả mười hai cây gậy. 4 Con đem các gậy này đặt trong Lều Hội Kiến, trước Rương Giao Ước, là nơi Ta sẽ gặp con. 5 Gậy của người được Ta chọn sẽ trổ hoa, như vậy nhân dân sẽ không còn lý do gì để phàn nàn con nữa."
6,7 Mai-sen nói lại với người Y-sơ-ra-ên, và các trưởng tộc vâng theo huấn thị, đem gậy đến. Mai-sen đem cất mười hai cây gậy trong Lều Hội Kiến trước mặt Chúa. Gậy của A-rôn nằm giữa các gậy khác. 8 Ngày hôm sau, khi Mai-sen trở vào Lều Hội Kiến, ông thấy cây gậy của A-rôn - tượng trưng cho đại tộc Lê-vi - đã đâm chồi, trổ hoa và kết quả, có trái hạnh nhân đã chín. 9 Mai-sen đem các cây gậy từ trong Lều Hội Kiến ra cho mọi người xem, họ sững sờ đứng nhìn, và cuối cùng các trưởng tộc lấy gậy mình về. 10 Nhưng Chúa bảo Mai-sen: "Đem gậy của A-rôn đặt lại trước Rương Giao Ước, dùng nhắc nhở, cảnh cáo nhân dân về vụ nổi loạn này, để họ khỏi chết vì tai vạ và không bao giờ dám phàn nàn Ta nữa." 11 Mai-sen vâng lời Chúa.
12,13 Người Y-sơ-ra-ên hoảng sợ nói với Mai-sen: "Nếu ai đến gần Lều Hội Kiến đều chết, thì chúng tôi chết hết sao? Nguy quá, chúng tôi sẽ bị tiêu diệt mất!"
1 Chúa Hằng Hữu bảo A-rôn: "Con, các con trai con cùng cả gia đình con phải chịu trách nhiệm về những tội xúc phạm Nơi Thánh. Cũng vậy, con và các con trai con phải trách nhiệm về những tội liên hệ đến chức vụ thầy tế lễ. 2,3 Tất cả những người trong đại tộc Lê-vi, họ hàng của con, là người giúp việc cho con. Tuy nhiên, chỉ có con và các con trai con được thi hành chức vụ trong Nơi Thánh. Các người Lê-vi khác không được đến gần các vật thánh trong Nơi Thánh và bàn thờ, để họ lẫn con khỏi phải chết. 4 Ngoài người Lê-vi ra, không ai được phụ giúp con trong các công việc tại Lều Hội Kiến. 5 Và chỉ có các thầy tế lễ mới được thi hành chức vụ trong Nơi Thánh và trước bàn thờ. Nếu các nguyên tắc này được tôn trọng, cơn phẫn nộ của Ta sẽ không nổi lên với người Y-sơ-ra-ên nữa. 6 Người Lê-vi đã được Ta chọn trong dân Y-sơ-ra-ên; họ đã được dâng cho Ta. Nay Ta giao họ cho con để giúp con trong công việc Lều Hội Kiến. 7 Ta cũng ủy thác cho con chức vụ thầy tế lễ; chỉ có con và các con trai con thi hành chức vụ này trước bàn thờ và bên trong bức màn. Ngoài ra, người nào đụng đến các công việc này đều phải chết."
8 Chúa nói tiếp với A-rôn: "Ngoài ra, Ta còn cho các con tất cả các lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối nâng tay đưa lên trước Chúa. Các lễ vật thánh đều thuộc về con và con trai con. Lệ này áp dụng vĩnh viễn. 9,10 Trừ phần được đem đốt dâng lên, phần còn lại của các lễ vật ngũ cốc, lễ vật chuộc tội và lễ vật chuộc lỗi, đều thuộc về con và các con trai con. Đó là những vật rất thánh, chỉ được ăn tại một Nơi Thánh, và chỉ nam giới mới được ăn. 11 Còn các lễ vật được dâng lên theo lối đưa qua đưa lại cũng thuộc về con, nhưng mọi nam lẫn nữ trong gia đình đều được phép ăn, nếu họ tinh sạch. 12 Ta cũng cho con tất cả các lễ vật đầu mùa người ta đem dâng cho Chúa: dầu, rượu, ngũ cốc tốt nhất; 13 và tất cả các lễ vật đầu mùa của các thổ sản khác. Mọi người tinh sạch trong gia đình con đều được phép ăn. 14,15 Vậy, tất cả mọi vật người Y-sơ-ra-ên dâng hiến cho Ta đều thuộc về con, kể cả các con trưởng nam và thú vật đầu lòng của họ. 16 Tuy nhiên, con trưởng nam và con đầu lòng của thú vật không sạch phải được chuộc lại. Giá chuộc là năm lạng bạca theo cân Nơi Thánh, và phải chuộc lúc con trưởng nam hay con đầu lòng lên một tháng. 17 Đối với con đầu lòng của các loài bò, cừu và dê thì không được chuộc, nhưng phải lấy huyết rảy trên bàn thờ, lấy mỡ đem đốt, dùng lửa dâng hương vị lên Chúa. Đó là những sinh tế thánh. 18 Thịt của các sinh tế này thuộc về con, đặc biệt là cái ngực được nâng tay dâng lên và cái đùi bên phải. 19 Tóm lại, Ta cho con mọi lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối nâng tay đưa lên trước Chúa; mọi nam lẫn nữ trong gia đình con đều được phép ăn. Đây là luật lệ vĩnh viễn, là một giao ước bất di bất dịchb giữa Ta với con và con cháu con."
20 Chúa tiếp: "Con sẽ không có sản nghiệp, cũng không có quyền lợic nào trong dân Ta, vì Ta là nguồn lợic và sản nghiệp của con.
21 "Ta sẽ lấy một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên đem dâng để cho người Lê-vi vì công khó phục dịch trong Lều Hội Kiến. 22 Từ nay về sau, người Y-sơ-ra-ên sẽ không ai vào Lều Hội Kiến để khỏi mắc tội và khỏi chết. 23 Người Lê-vi sẽ chịu trách nhiệm về công việc Lều Hội Kiến; và nếu có lỗi lầm, họ sẽ mang tội. Đây là một luật có tính cách vĩnh viễn áp dụng qua các thế hệ: người Lê-vi sẽ không thừa hưởng tài sản trong Y-sơ-ra-ên, 24 vì Ta đã cho họ một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên, là phần nhân dân đem dâng (theo lối nâng tay dâng lên) cho Chúa, đó là phần người Lê-vi thừa hưởng. Ngoài ra, họ không được hưởng sản nghiệp nào trong dân cả."
25 Chúa Hằng Hữu cũng nói với Mai-sen: 26 "Con bảo người Lê-vi rằng khi nhận được một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên, phải lấy một phần mười dâng cho Chúa, theo lối nâng tay dâng lên, một phần mười của một phần mười. 27 Lễ vật này sẽ được coi như lễ vật đầu mùa chọn lọc, như ngũ cốc dâng từ sân đạp lúa, như rượu nho dâng từ bồn ép nho của họ vậy. 28,29 Họ phải chọn phần tốt nhất trong phần họ nhận được để dâng, theo lối nâng tay dâng lên cho Chúa, phần mười của phần mười này sẽ thuộc về thầy tế lễ A-rôn. 30 Khi người Lê-vi chọn phần tốt nhất dâng lên như vậy, lễ vật của họ mới được coi như thổ sản của họ dâng từ sân đập lúa, từ bồn ép nho mình. 31 Vì đây là phần thưởng công khó phục dịch của họ trong Lều Hội Kiến, họ và gia đình họ được phép đem ăn bất kỳ nơi nào họ muốn. 32 Họ sẽ không có lỗi gì cả, miễn là họ dâng lên phần tốt nhất. Vậy, để khỏi mang tội mà chết, họ không được xúc phạm lễ vật thánh của người Y-sơ-ra-ên đã dâng lên."
1-3 Chúa Hằng Hữu dạy Mai-sen và A-rôn: "Đây là một luật khác phải được tuân hành: Bảo người Y-sơ-ra-ên chọn một con bò cái tơ màu đỏ, không vết tích, chưa hề mang ách, đem đến cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Thầy tế lễ sẽ đem con bò ra ngoài trại, và chứng kiến việc người ta giết nó. 4 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa sẽ lấy ngón tay nhúng vào huyết bò, rảy bảy lần phía trước Lều Hội Kiến. 5 Sau đó, thầy tế lễ sẽ trông coi việc thiêu con bò; cả da, thịt, huyết và phân bò đều phải thiêu hết. 6 Thầy tế lễ sẽ lấy cây bách hương, cành bài hương thảo và chỉ đỏ ném vào giữa con bò đang cháy. 7 Xong, thầy tế lễ phải giặt áo, tắm, rồi mới vào trại và phải chịu ô uế cho đến tối hôm ấy. 8 Người đốt con bò cũng phải giặt áo, tắm, và chịu ô uế cho đến tối hôm ấy. 9 Một người tinh sạch sẽ hốt tro con bò chứa vào một nơi sạch sẽ bên ngoài trại. Tro này sẽ dùng làm nước tẩy uế cho người Y-sơ-ra-ên, để tẩy sạch tội. 10 Người hốt tro phải giặt áo và chịu ô uế cho đến tối hôm ấy. Luật này có tính cách vĩnh viễn, áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên cũng như cho ngoại kiều.
11 "Ai đụng vào người chết, phải bị ô uế bảy ngày. 12 Người ấy phải dùng nước tẩy uế tẩy sạch mình vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, thì mới được sạch. Nếu không, sẽ không được sạch. 13 Người nào đụng vào người chết mà không lo tẩy sạch mình là xúc phạm Lều Hội Kiến của Chúa, và phải bị trục xuất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên. Vì nước tẩy uế chưa được rảy trên mình nên người ấy vẫn còn ô uế.
14 "Khi có người chết trong một trại, phải áp dụng quy tắc này: Người nào vào trại và người nào ở trong trại đều bị ô uế bảy ngày. 15 Nếu trong trại ấy có bình hay đồ chứa nào không đậy nắp, vật ấy cũng bị ô uế.
16 "Ngoài trại quân,a nếu ai đụng vào một người chết vì đâm chém, hoặc đụng vào một xác chết, xương người chết hay mồ mả, người ấy bị ô uế bảy ngày. 17 Muốn tẩy sạch những người này, người ta phải lấy một ít tro của con bò thiêu làm sinh tế chuộc tội bỏ vào một cái bình, rồi lấy nước sông hay nước suối đổ vào. 18 Một người tinh sạch sẽ lấy cành bài hương thảo nhúng vào bình, rảy nước trên trại, trên tất cả đồ dùng trong trại, trên cả những người ở trại đó và người đã đụng vào xương hay đụng vào người bị giết, xác chết hay mồ mả. 19 Phải làm như vậy vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, rồi người bị ô uế phải giặt áo, tắm rửa, thì tối hôm ấy mới được sạch.
20 "Một người ô uế không lo tẩy mình phải bị trục xuất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên, vì đã xúc phạm đến Nơi Thánh của Chúa. Nếu nước tẩy uế không được rảy trên người ấy, người ấy không được sạch.
21 "Đó là một luật có tính cách vĩnh viễn. Ngoài ra, người rảy nước sẽ phải giặt áo mình, và người nào đụng vào nước này sẽ chịu ô uế cho đến tối hôm ấy. 22 Bất kỳ vật gì đã bị người ô uế đụng vào đều thành ô uế; và ai đụng vào vật ấy cũng bị ô uế cho đến tối hôm ấy."
1 Toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên đi vào sa mạc Sin vào tháng thứ nhất, họ dừng chân tại Ca-đe. Mỵ-lâm qua đời và được an táng tại đó.
2 Khi thấy không có nước uống, nhân dân họp nhau lại chống đối Mai-sen và A-rôn. 3 Họ hỏi Mai-sen: "Thà chúng tôi chết cùng anh em chúng tôi trong dịp họ chết trước mặt Chúa vừa rồi. 4 Tại sao ông đem dân Chúa vào sa mạc cho chết khát cả người lẫn súc vật? 5 Tại sao ông bắt chúng tôi bỏ Ai Cập để vào nơi khốn nạn này, là nơi không có ai gieo giống, trồng cây vả, cây nho, cây lựu gì được, là nơi không có nước uống?"
6,7 Mai-sen và A-rôn liền bỏ họ, đi đến cửa Lều Hội Kiến, quỳ mọp xuống. Vinh quang của Chúa phát hiện, và Ngài bảo Mai-sen: 8 "Cầm cây gậy này, rồi con và A-rôn triệu tập nhân dân lại. Trước mặt họ, con sẽ bảo vầng đá kia phun nước ra, con sẽ cho họ và bầy gia súc của họ uống nước chảy ra từ vầng đá." 9 Vậy Mai-sen lấy cây gậy trước mặt Chúa, theo lời Ngài bảo.
10 Mai-sen cùng với A-rôn triệu tập mọi người đến bên vầng đá, xong ông nói: "Quân phản loạn, nghe đây! Chúng ta phải lấy nước từ trong vầng đá này ra cho mọi người uống sao?" 11 Nói xong, ông vung gậy đập vào vầng đá hai lần. Nước liền bắn vọt ra lai láng. Người và thú vật đều uống.
12 Nhưng Chúa Hằng Hữu trách Mai-sen và A-rôn: "Vì các con không tin Ta, không tôn thánh Ta trước mắt nhân dân Y-sơ-ra-ên, nên các con sẽ không dẫn họ vào đất Ta hứa cho."
13 Nơi đó được gọi là nước Mê-ri-ba, vì người Y-sơ-ra-ên đã chống báng Chúa tại đó, nhưng Ngài đã tỏ đức thánh khiết của Ngài cho họ thấy.
14 Sau đó, Mai-sen sai sứ đi từ Ca-đe đến yêu cầu vua nước Ê-đôm rằng: "Chúng tôi là con cháu Y-sơ-ra-ên, vào hàng em của bệ hạ. Chắc bệ hạ đã biết qua nỗi gian khổ của chúng tôi rồi. 15 Tổ phụ chúng tôi đã xuống Ai Cập và ở lại đó lâu ngày; người Ai Cập cư xử với chúng tôi rất bạo tàn. 16 Chúng tôi kêu đến Chúa; Ngài nghe, sai thiên sứ đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập, và bây giờ chúng tôi đang ở Ca-đe, một thị trấn ở ngay biên giới quý quốc. 17 Xin cho chúng tôi đi nhờ qua đất của bệ hạ. Chúng tôi sẽ đi tránh đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước dưới giếng mà uống. Chúng tôi sẽ cứ đường cái mà đi, không rời khỏi chính lộ cho đến khi ra khỏi biên giới."
18 Nhưng vua Ê-đôm đáp: "Không được đi qua đất nước ta. Nếu không nghe, ta sẽ đem quân ra đánh."
19 Sứ Y-sơ-ra-ên thưa: "Chúng tôi chỉ đi trên đường cái. Dù nước cũng không uống, nếu uống chúng tôi xin trả tiền. Chỉ xin cho chúng tôi đi qua, ngoài ra chúng tôi không xin gì nữa cả."
20 "Không được!" Vua Ê-đôm đáp cách cương quyết. Rồi Ê-đôm kéo quân đội hùng hậu ra ngăn chặn Y-sơ-ra-ên. 21,22 Vì Ê-đôm từ chối không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình, nên Y-sơ-ra-ên quay lại, đi từ Ca-đe cho đến núi Hô-rơ.
23 Tại núi Hô-rơ, cạnh biên giới Ê-đôm, Chúa bảo Mai-sen và A-rôn: 24 "A-rôn sẽ về với tổ phụ mình, không được vào đất hứa cho Y-sơ-ra-ên, vì hai con đã cưỡng lời Ta tại Mê-ri-ba. 25 Mai-sen, con đem A-rôn và Ê-lê-a-sa lên núi Hô-rơ. 26 Ở đó, con sẽ lấy áo lễ của A-rôn mặc cho Ê-lê-a-sa. A-rôn sẽ qua đời tại đó."
27 Mai-sen tuân lệnh Chúa. Ba người lên núi Hô-rơ trước sự chứng kiến của nhân dân. 28 Trên đỉnh núi, Mai-sen lấy bộ áo lễ của A-rôn, mặc cho Ê-lê-a-sa con A-rôn. A-rôn qua đời trên đỉnh núi này. Sau đó, Mai-sen và Ê-lê-a-sa xuống núi. 29 Khi biết A-rôn đã mất, toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên khóc ông suốt ba mươi ngày.
1 Khi vua A-rát (người Ca-na-an, ở nam bộ) nghe tin người Y-sơ-ra-ên kéo đến theo lối A-tha-rim, liền đem quân ra đánh, bắt được mấy người làm tù binh. 2 Lúc ấy, người Y-sơ-ra-ên thề nguyện với Chúa rằng: "Nếu Ngài cho chúng tôi chiến thắng dân này, chúng tôi xin tiêu diệt tất cả các thành phố của họ." 3 Chúa nghe lời cầu nguyện, cho người Ca-na-an bại trận. Người Y-sơ-ra-ên tận diệt quân thù, tàn phá các thành phố, và đặt tên vùng này là Họt-ma.
4 Từ núi Hô-rơ, họ phải quay lại Biển Đỏ, đi vòng quanh để tránh đất Ê-đôm, vì thế, họ cảm thấy rất chán nản.
5 Họ lại xúc phạm Thượng Đế trong lúc thống trách với Mai-sen: "Vì sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập cho chết trong sa mạc này? Chúng tôi chẳng có nước uống, cũng chẳng có gì ăn ngoài loại bánh đạm bạc mà chúng tôi đã chán ngấy!" 6 Chúa sai rắn lửa đến, cắn nhiều người chết. 7 Người ta chạy đến với Mai-sen nói: "Chúng tôi có tội, vì đã nói xúc phạm đến Chúa và ông. Xin ông cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn đi." Mai-sen cầu thay cho dân. 8 Chúa bảo Mai-sen: "Con làm một con rắn lửa, treo trên một cây sào. Người nào bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó là được sống." 9 Vậy Mai-sen làm một con rắn bằng đồng, treo trên một cây sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn đồng, liền được thoát chết.
10 Người Y-sơ-ra-ên tiếp tục lên đường, và dừng chân cắm trại tại Ô-bốt. 11 Từ Ô-bốt ra đi, họ cắm trại tại Y-giê A-ba-rim trong đồng hoang, về phía đông Mô-áp. 12 Từ đó ra đi, họ cắm trại tại thung lũng Xê-rết. 13 Tiếp tục lên đường, họ dừng chân phía bên kia sông ạt-nôn, trong sa mạc, gần biên giới Am-môn. (Sông ạt-nôn là biên giới giữa Mô-áp và Am-môn. 14 Vì thế, trong sách "Chiến Tranh của Chúa" có nói đến Va-hép ở Su-pha và triền thung lũng của sông ạt-nôn, 15 chạy dài đến đất A-rơ và biên giới Mô-áp).
16 Họ lại lên đường đi đến Bê-a (nghĩa là giếng nước). Tại giếng ấy, Chúa có bảo Mai-sen: "Tập họp dân lại, Ta sẽ cho họ nước uống!" 17 Và người Y-sơ-ra-ên hát lên rằng:
"Trào nước lên, giếng hỡi!
Cho ta ca ngợi,
18 Giếng vua khơi bằng cây phủ việt, Quý tộc đào với gậy nơi tay."
Rồi họ ra khỏi sa mạc, đi đến Ma-tha-na. 19 Từ Ma-tha-na họ đến Na-ha-li-ên; từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt; 20 từ Ba-mốt đến thung lũng ở trong địa phận Mô-áp; qua đỉnh núi Phích-ga - từ đó có thể nhìn thấy khắp sa mạc.
21 Người Y-sơ-ra-ên sai sứ đến nói với vua A-mo là Si-hôn rằng: 22 "Xin cho chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi chỉ theo đường cái của vua mà đi, không vào đồng ruộng hay vườn nho, không uống nước giếng, cho đến khi ra khỏi lãnh thổ nhà vua." 23 Nhưng Si-hôn khước từ. Ông triệu tập quân đội, kéo ra đón người Y-sơ-ra-ên trong sa mạc, và tấn công họ tại Gia-hát. 24 Người Y-sơ-ra-ên chém vua Si-hôn, chiếm lấy đất từ ạt-nôn đến Gia-bốc, cho đến tận biên giới nước Am-môn, vì biên cương của Am-môn rất kiên cố. 25 Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành phố, làng mạc của người A-mo cho dân mình ở, kể cả thành Hết-bôn. 26 Hết-bôn là kinh đô của Si-hôn vua A-mo. Trước kia, Si-hôn đã đánh bại vua Mô-áp, chiếm đoạt hết đất của vua này. 27 Cho nên, một thi sĩ đã viết:
"Ta kéo đến Hết-bôn!
Xây thành của Si-hôn!
28 Thành A-rơ của Mô-áp cháy rụi
Là thành ngự trị trên dòng ạt-nôn.
29 Thống khổ cho người Mô-áp!
Ngày tàn của ngươi đã tới
Này, Kê-nốt hỡi!
Con trai ngươi phải lưu lạc,
Con gái ngươi bị tù rạc
Bởi tay Si-hôn, vua dân A-mo.
30 Lính ngươi bị bắn ngã,
Hết-bôn bị hủy phá tàn tạ
Đi-bôn, Nô-phách, Mê-đê-ba:
Đều bị thiêu hủy cả."
31 Trong khi Y-sơ-ra-ên còn đóng quân trong đất của người A-mo, 32 Mai-sen sai người đi trinh sát Gia-xe. Rồi Y-sơ-ra-ên chiếm hết các làng mạc miền Gia xe, trục xuất người A-mo đi.
33 Sau đó, Y-sơ-ra-ên quay lại đi lên hướng Ba-san.Vua Ba-san là Óc kéo toàn dân mình ra chận đón Y-sơ-ra-ên tại ết-rê-i. 34 Chúa bảo Mai-sen: "Đừng sợ vua ấy, vì Ta đặt số phận dân này vào tay con. Việc đã xảy ra cho Si-hôn vua A-mo cũng sẽ xảy ra cho vua Ba-san." 35 Y-sơ-ra-ên giết vua Óc, các con vua, thần dân của vua, không để một ai sống sót, rồi chiếm đóng đất nước Ba-san.
1 Sau đó, người Y-sơ-ra-ên lại ra đi, đến đồng bằng Mô-áp, và cắm trại bên kia sông Giô-đan, đối diện Giê-ri-cô. 2,3 Ba-lác (vua Mô-áp, con Díp-bô) thấy người Y-sơ-ra-ên đông đảo và được tin họ đánh bại quân đội A-mo, liền khiếp đảm. 4,5 Người Mô-áp bàn với các trưởng lão Ma-đi-an: "Dân này sẽ ăn nuốt chúng ta như bò ăn cỏ vậy." Vì thế, Ba-lác gửi một phái đoàn đi tìm Ba-la-am, con của Bê-ô ở Phê-thô-rơ gần sông Cái, nói rằng: "Một dân tộc đến từ Ai Cập đông như kiến, phủ đầy mặt đất, đang đóng đối diện chúng tôi. 6 Xin ông đến nguyền rủa họ, vì họ mạnh hơn chúng tôi. Có lẽ nhờ ông chúng tôi có thể đuổi họ đi. Vì tôi biết rằng, ai được ông chúc phước sẽ được phước, còn ai bị ông nguyền rủa sẽ bị tai họa."
7 Các sứ giả của Ba-lác (gồm các trưởng lão Mô-áp và Ma-đi-an) bưng lễ vật trong tay đến gặp Ba-la-am trình bày tự sự. 8 Ba-la-am nói: "Xin các ông nghỉ lại đây đêm nay. Tôi sẽ trả lời các ông tùy theo điều Thượng Đế dạy tôi." Vậy họ ở lại. 9 Thượng Đế đến, hỏi Ba-la-am: "Họ là ai?" 10 Ba-la-am thưa: "Đó là những người được vua Mô-áp - Ba-lác con Díp-bô - sai đến. 11 Vua ấy nói có một dân tộc đến từ Ai Cập, đông như kiến, phủ đầy mặt đất. Vua ấy muốn tôi đến nguyền rủa dân đó để vua có thể đánh đuổi họ đi." 12 Nhưng Thượng Đế bảo: "Ngươi không được đi với họ, không được nguyền rủa dân kia, vì đó là dân được chúc phước." 13 Vậy sáng hôm sau, Ba-la-am thức dậy, nói với các trưởng lão: "Các ông về đi! Thượng Đế cấm tôi đi với các ông." 14 Các trưởng lão ra về, trình với Ba-lác: "Ba-la-am từ chối, không đến."
15 Tuy nhiên, Ba-lác cử một phái đoàn thứ hai đông hơn, gồm những người chức cao tước trọng hơn phái đoàn trước. 16 Họ đến gặp Ba-la-am, năn nỉ: "Vua Ba-lác con Díp-bô khẩn khoản mời ông đến. 17 Vua hứa sẽ phong cho ông phẩm tước cao trọng và ban cho ông mọi điều gì ông muốn, miễn là ông đến nguyền rủa dân tộc kia cho vua." 18 Nhưng Ba-la-am đáp: "Dù Ba-lác có cho tôi cung điện chứa đầy vàng bạc, tôi cũng không thể làm gì ngoài những điều Thượng Đế tôi dạy bảo. 19 Bây giờ, xin các ông nghỉ lại đêm nay nữa, để xem Thượng Đế có bảo thêm điều gì khác không." 20 Đêm đó, Thượng Đế phán dạy Ba-la-am: "Nếu họ đến mời, thì cứ dậy đi với họ, nhưng ngươi chỉ được nói điều gì Ta bảo; ngươi chỉ được làm như thế."
21 Ba-la-am dậy, thắng yên lừa, ra đi với các trưởng lão Mô-áp lúc trời sáng. 22,23 Việc ông ra đi làm cho Thượng Đế buồn giận. Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đứng trên đường cản ông. Khi Ba-la-am và hai người đầy tớ cưỡi lừa đi qua, con lừa thấy thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đứng trên đường, tay cầm lưỡi kiếm trần, liền đi tẻ xuống ruộng để tránh. Ba-la-am đánh nó, bắt nó phải đi lên đường cái. 24 Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đến đứng tại một khúc đường chạy qua giữa hai vườn nho, nên hai bên đường đều có tường. 25 Khi thấy thiên sứ của Chúa, con lừa nép vào tường, làm kẹt chân Ba-la-am nên ông lại đánh nó. 26 Thiên sứ của Chúa đi trước, đến đứng tại một khúc đường rất hẹp, không có chỗ để quay đầu phía nào cả. 27 Lần này, con lừa chỉ còn cách nằm mọp xuống khi thấy thiên sứ của Chúa. Ba-la-am nổi giận lấy gậy đánh con lừa. 28 Thượng Đế mở miệng con lừa, nó nói với Ba-la-am: "Con đã làm gì quấy mà ông đánh con đến ba lần?" 29 Ba-la-am nói: "Vì mày sỉ nhục ta! Nếu có kiếm trong tay, ta đã giết mày rồi." 30 Lừa lại hỏi: "Trước nay, con không phải là con lừa ông cưỡi suốt đời sao? Có bao giờ con làm như vậy chưa?" Ba-la-am đáp: "Chưa."
31 Bấy giờ, Thượng Đế mở mắt Ba-la-am, ông thấy thiên sứ của Chúa đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần, liền vội cúi đầu, sấp mặt xuống đất. 32 Thiên sứ của Chúa hỏi: "Tại sao ngươi đánh con lừa ba lần? Ta đến để ngăn cản ngươi, vì đường ngươi đi dẫn đến chỗ diệt vong. 33 Vì con lừa thấy ta nên nó tránh ta ba lần; nếu không, ta đã giết ngươi và để cho nó sống." 34 Ba-la-am nói: "Tôi đã phạm tội. Tôi đã không biết thiên sứ đứng trên đường cản lối tôi. Nếu thiên sứ không vừa ý, tôi xin quay về." 35 Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu bảo: "Cứ đi với họ, nhưng ngươi chỉ được nói lời nào Ta bảo ngươi nói." Vậy Ba-la-am tiếp tục đi.
36 Nghe tin Ba-la-am đến, Ba-lác ra tận đầu biên giới tiếp đón, tại một thành phố Mô-áp bên sông ạt-nôn. 37 Vua hỏi Ba-la-am: "Ta đã gửi người đi mời lần trước, sao ông không đến? Ta không đủ sức làm cho ông được vẻ vang nhất đời sao?" 38 Ba-la-am đáp: "Tôi đến đây rồi! Nhưng tôi không được quyền nói gì hết, trừ những lời Thượng Đế bảo tôi nói." 39 Và Ba-la-am đi với Ba-lác đến Ki-ri-át Hu-xốt. 40 Tại đó, Ba-lác sai giết bò, cừu để cúng tế. Vua cũng sai đem lễ vật đến biếu Ba-la-am và các trưởng lão đi cùng ông. 41 Sáng hôm sau, Ba-lác đem Ba-la-am lên đỉnh Ba-mốt Ba-anh, từ đó có thể trông thấy phía cuối trại quân Y-sơ-ra-ên.
1 Ba-la-am nói với Ba-lác: "Xin xây bảy cái bàn thờ tại đây, và đem đến cho tôi bảy con bò đực và bảy con cừu đực." 2 Ba-lác làm theo lời yêu cầu của Ba-la-am, cứ mỗi bàn thờ dâng một con bò và một con cừu. 3,4 Rồi Ba-la-am tâu: "Xin bệ hạ đứng đó, bên cạnh của lễ thiêu mình. Tôi đi đằng này, xem có gặp Thượng Đế không; may ra gặp được, tôi sẽ cho bệ hạ biết những điều Ngài bảo tôi." Ba-la-am đi lên một hòn núi trọc, và Thượng Đế gặp ông ở đó. Ba-la-am thưa: "Tôi có dọn bảy cái bàn thờ, trên mỗi cái tôi dâng một con bò và một con cừu." 5 Thượng Đế bảo Ba-la-am về gặp Ba-lác, nói lại những lời Ngài dặn. 6 Khi Ba-la-am về, thấy Ba-lác và các trưởng lão Mô-áp vẫn đứng bên cạnh của lễ thiêu. 7 Ba-la-am lên giọng ngâm thơ: "Ba-lác vua Mô-áp vời tôi đến từ đất A-ram, từ các dãy núi miền đông, bảo tôi đến nguyền rủa Gia-cốp, nhục mạ Y-sơ-ra-ên. 8 Nhưng tôi đâu dám nguyền rủa người Thượng Đế không nguyền rủa và nhục mạ người Thượng Đế không nhục mạ. 9 Tôi thấy họ từ đỉnh núi, nhìn họ từ đồi cao. Họ là một dân tộc sống riêng rẽ, không chịu trà trộn với các nước khác. 10 Dân số của họ nhiều như bụi. Ai có thể đếm được phần tư dân số Y-sơ-ra-ên?
Xin cho tôi chết cái chết của người công chính, xin cho tôi qua đời giống như một người Y-sơ-ra-ên!"
11 Ba-lác sửng sốt hỏi: "Ông làm gì vậy? Tôi mời ông đến nguyền rủa quân thù, ông lại đi chúc phước cho họ" 12 Ba-la-am đáp: "Tôi đâu dám ngậm miệng không nói những gì Thượng Đế bảo tôi!" 13 Ba-lác lại nói: "Thôi, ông đi với ta đến một nơi khác, từ đó ông sẽ trông thấy một phần của dân ấy. Cứ đứng đó nguyền rủa họ cho ta!" 14 Rồi vua đem ông đến cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh núi Phích-ga, xây bảy bàn thờ, dâng trên mỗi bàn thờ một con bò và một con cừu. 15 Ba-la-am nói: "Xin bệ hạ đứng đây bên cạnh của lễ thiêu, để tôi đi gặp Thượng Đế." 16 Thượng Đế gặp Ba-la-am, bảo ông về nói lại cho Ba-lác nghe những lời Ngài phán dặn. 17 Ông về, thấy Ba-lác vẫn đứng bên của lễ thiêu cùng với các trưởng lão Mô-áp. Ba-lác hỏi: "Thượng Đế dạy thế nào?" 18 Ba-la-am liền đáp:
"Ba-lác, đứng lên nghe đây! Con trai Díp-bô, lắng tai nghe lời này! 19 Thượng Đế đâu phải loài người để nói dối; hay để đổi thay ý kiến? Có bao giờ Ngài nói điều gì rồi không làm không? 20 Và đây, tôi lại được lệnh chúc phước. Vì Thượng Đế chúc phước họ, ta làm sao cãi được? 21 Ngài không bắt tội Gia-cốp, cũng chẳng kể Y-sơ-ra-ên gian tà. Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế ở với họ; Ngài là Vua lãnh đạo họ. 22 Ngài dẫn họ ra khỏi Ai Cập; họ thấy Ngài dũng mãnh như bò rừng. 23 Không ai bùa ếm Gia-cốp nổi, cũng không ai dám dùng tà thuật với Y-sơ-ra-ên, vì đây là lúc nói về những việc lớn lao Thượng Đế đã làm cho họ. 24 Như sư tử, họ vùng lên, chỉ chịu nằm xuống khi nào đã ăn xong mồi bắt được, và uống máu kẻ bị giết."
25 Nghe thế, Ba-lác phàn nàn: "Nếu ông không nguyền rủa thì cũng đừng chúc phước cho họ chứ!" 26 Ba-la-am đáp: "Tôi đã thưa trước rồi, tôi chỉ được quyền nói những điều Thượng Đế bảo tôi." 27 Một lần nữa, Ba-lác đề nghị: "Để ta đem ông đến một nơi khác. Mong rằng lần này ta sẽ làm vừa ý Thượng Đế, và Ngài sẽ cho ông nguyền rủa họ tại đó." 28 Vậy, Ba-lác đưa Ba-la-am lên đỉnh núi Phê-ô, từ đó nhìn thấy sa mạc.
29 Ba-la-am lại yêu cầu Ba-lác xây bảy bàn thờ, đem đến bảy con bò và bảy con cừu. 30 Ba-lác làm theo lời yêu cầu, và họ lại dâng một con bò, một con cừu trên mỗi bàn thờ.
1 Ngay lúc ấy, Ba-la-am nhận thức rằng Chúa chỉ muốn ông chúc phước dân Y-sơ-ra-ên, nên ông không đi một nơi khác như những lần trước để tìm Thượng Đế, nhưng quay nhìn về phía sa mạc. 2,3 Xa xa, ông thấy các trại quân Y-sơ-ra-ên, cắm riêng từng đại tộc. Được Thần của Chúa Hằng Hữu cảm thúc, Ba-la-am nói tiên tri như sau: "Lời tiên tri của Ba-la-am con trai Bê-ô, là người có đôi mắt mở ra, 4 người nghe được lời của Thượng Đế, thấy được khải tượng của Đấng Toàn Năng, dù người ngã, mắt người vẫn mở. 5 Lều của Gia-cốp, trại của Y-sơ-ra-ên đẹp mắt thật, 6 như thung lũng chạy dài, như vườn tược cạnh mé sông, như cây trầm hương được tay Thượng Đế vun trồng, như cây bách hương mọc bên dòng nước. 7 Họ sẽ có nước ngọt tràn trề dư dật; con cháu họ không hề sống nơi khô hạn; vua họ có uy quyền cao hơn A-gát; quốc vương họ hùng mạnh thăng tiến. 8 Thượng Đế đem họ ra khỏi Ai Cập; họ trở nên dũng mãnh như bò rừng. Họ nuốt tươi các nước cừu địch. 9 Họ nghỉ ngơi như sư tử nằm ngủ, ai dám đánh thức? Ai chúc phước họ sẽ hưởng hạnh phúc; ai nguyền rủa họ sẽ bị tai ương!"
10 Đến đây, Ba-lác không ngăn được cơn giận, hai tay đập vào nhau, lên giọng quở Ba-la-am: "Ta gọi ông đến để nguyền rủa kẻ thù cho ta, ông lại đi chúc phước họ ba lần. 11 Thôi ông về đi! Ta có hứa làm cho ông được vẻ vang, nhưng Thượng Đế không cho ông hưởng vinh dự." 12,13 Ba-la-am đáp: "Tôi đã bảo sứ giả của bệ hạ là, dù đức vua có cho tôi cung điện đầy vàng bạc, tôi cũng không tự mình làm điều gì được cả. Chúa bảo tôi nói gì, tôi phải nói đúng như vậy. 14 Bây giờ, trước khi về, tôi xin nói trước những điều Y-sơ-ra-ên sẽ làm cho thần dân bệ hạ." 15 Và Ba-la-am tiếp: "Đây là lời tiên tri của Ba-la-am con trai Bê-ô, người có đôi mắt mở ra, 16 người nghe được lời của Thượng Đế, nhận thức được cao kiến của Đấng Tối Cao, thấy được khải tượng của Đấng Toàn Năng; dù người ngã, mắt người vẫn mở. 17 Tôi thấy trong tương lai có một Ngôi Sao xuất phát từ nhà Gia-cốp; vị vua Y-sơ-ra-ên này sẽ đánh Mô-áp tan tành, tận diệt dòng dõi loạn lạc. 18 Y-sơ-ra-ên sẽ biểu dương lực lượng, chiếm Ê-đôm và Sê-i-rơ. 19 Đức vua uy quyền xuất phát từ nhà Gia-cốp này sẽ tiêu diệt những người sống sót trong các thành thị."
20 Sau đó, Ba-la-am nhìn về phía người A-ma-léc, nói những lời sau đây: "A-ma-léc đứng đầu trong các quốc gia, nhưng rốt cuộc phải chịu tàn phá." 21 Ông nhìn về phía người Kênh, nói tiếp: "Nơi ngươi ở thật là vững chắc, như tổ lót trên vầng đá. 22 Thế mà Kênh (Ca-in) sẽ phải điêu tàn; người A-sy-ri sẽ bắt ngươi đem lưu đày!"
23 Để kết thúc, ông nói những lời này: "Than ôi! Khi Thượng Đế ra tay, còn ai sống nổi? 24 Chiến hạm sẽ đến từ đảo Síp, làm cho A-sy-ri và Hê-be khốn khổ; rồi họ cũng bị tiêu diệt."
25 Nói xong, Ba-la-am lên đường trở về quê mình. Ba-lác cũng về cung.
1 Khi dân Y-sơ-ra-ên đồn trú tại Si-tim, một số người liên lạc bất chính với các thiếu nữ Mô-áp. 2 Các thiếu nữ mời họ đi dự những buổi tế thần, rồi ăn của cúng và quì lạy các thần đó. 3 Dần dần người Y-sơ-ra-ên kéo nhau thờ lạy Ba-anh Phê-ô. Vì vậy Chúa nổi giận, 4 bảo Mai-sen: "Bắt các trưởng tộc đem treo lên ngoài nắng trước mặt Chúa, để Ngài hết giận Y-sơ-ra-ên." 5 Mai-sen ra lệnh cho các thẩm phán hành quyết tất cả những ai thờ lạy Ba-anh.
6 Có một người Y-sơ-ra-ên ngang nhiên dẫn một thiếu nữ Ma-đi-an về với gia đình mình, đi ngang qua trước mắt Mai-sen và toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên, trong khi họ đang khóc than tại cửa Lều Hội Kiến. 7 Phi-nê-a (con Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, là thầy tế lễ) thấy thế, liền đứng lên ra khỏi cộng đồng, lấy một cây giáo, 8 chạy theo người kia vào trong trại, đâm xuyên qua thân người ấy, thấu bụng người đàn bà. Tai họa liền chấm dứt. 9 Tuy nhiên đã có đến 24.000 người chết vì tai họa này.
10 Chúa bảo Mai-sen: 11 "Phi-nê-a (con Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, là thầy tế lễ) đã làm cho Ta nguôi giận, người đã nhiệt tâm đố kỵ tà thần, nên Ta không tuyệt diệt người Y-sơ-ra-ên dù họ bất trung. 12,13 Vậy, vì Phi-nê-a đã nhiệt thành với Thượng Đế, và chuộc tội cho dân, nên Ta kết ước hòa bình với người. Chức vị tế lễ sẽ thuộc về người và con cháu người mãi mãi."
14 Tên của người đàn ông bị giết chung với thiếu nữ Ma-đi-an ấy là Xim-ri con của Sa-lu, đứng đầu một tông tộc người Si-mê-ôn. 15 Và tên thiếu nữ Ma-đi-an là Cô-bi con của Xu-rơ, một lãnh tụ người Ma-đi-an.
16 Chúa bảo Mai-sen: 17,18 "Đánh phá người Ma-đi-an, vì họ đã dùng quỉ kế phá rối và dụ dỗ các ngươi thờ lạy Phê-ôn. Bằng chứng là vụ Cô-bi, người thiếu nữ Ma-đi-an bị giết trong ngày tai họa."
1 Sau tai họa này, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen và Ê-lê-a-sa, con thầy tế lễ A-rôn, như sau: 2 "Kiểm tra tất cả những người Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi trở lên, những người có thể ra trận, theo thứ tự từng họ hàng, gia tộc."
3,4 Mai-sen và Ê-lê-a-sa truyền lại lệnh kiểm tra cho dân khi họ đang ở trong đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đan, đối diện Giê-ri-cô. Và đây là kết quả cuộc kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên lần thứ nhì, sau khi họ ra khỏi Ai Cập.
5,7 Đại tộc Ru-bên có 43.730 người. (Ru-bên là con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên.) Ru-bên có bốn con trai, do đó đại tộc này chia thành bốn tộc, mang tên bốn con ông: Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi. 8-11 Ê-li-áp (con Pha-lu) có ba con trai: Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Chính Đa-than và A-bi-ram này đã cùng với Cô-rê lãnh đạo cuộc chống đối Mai-sen, A-rôn và nghịch với Chúa. Vì thế, đất đã nứt ra nuốt họ. Đồng thời, có 250 người bị lửa thiêu chết, để cảnh cáo Y-sơ-ra-ên. (Tuy nhiên, các con của Cô-rê khỏi chết trong cuộc hình phạt.)
12-14 Đại tộc Si-mê-ôn có 22.200 người. Si-mê-ôn có năm con trai, và do đó đại tộc này chia thành năm tộc mang tên năm con ông: Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-kin, Xê-rách và Sau-lơ.
15-18 Đại tộc Gát có 40.500 người. Gát có bảy con trai, do đó đại tộc này chia thành bảy họ: Xê-phôn, Ha-ghi, Su-ni, Óc-ni, Ê-ri, A-rốt và A-rê-li.
19-22 Đại tộc Giu-đa có 76.500 người. Giu-đa có năm con trai, nhưng hai người (Ê-rơ và Ô-nan) đã qua đời tại Ca-na-a. Tuy nhiên, đại tộc này vẫn chia thành năm tộc: Sê-la, Phê-rết, Xê-rách, Hết-rôn và Ha-mun. Ba họ trước mang tên ba con còn lại của Giu-đa, hai họ sau mang tên hai cháu nội Giu-đa (con Phê-rết).
23-25 Đại tộc Y-sa-ca có 64.300 người. Y-sa-ca có bốn con trai, do đó đại tộc này chia thành bốn họ: Thô-la, Phu-va, Gia súp và Sim-rôn.
26,27 Đại tộc Sa-bu-luân có 60.500 người. Sa-bu-luân có ba con trai, và đại tộc này chia thành ba tộc: Sê-rết, Ê-lôn và Gia-lê-ên. (28 Riêng trường hợp Giô-sép, con cháu ông họp thành hai đại tộc mang tên hai con trai ông là Ma-na-se và Ép-ra-im).
29-34 Đại tộc Ma-na-se có 52.700 người. Con cháu Ma-na-se chia thành tám tộc: Ma-ki (con Ma-na-se), Ga-la-át (con Ma-ki), Giê-xe, Hê-léc, Ách-ri-ên, Si-chem, Sê-mi-đa và Hê-phe (sáu con trai Ga-la-át). Xê-lô-phát, con trai Hê-phe, sinh toàn con gái (Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa) chứ không có con trai.
35-37 Đại tộc Ép-ra-im có 32.500 người. Con cháu Ép-ra-im chia thành bốn tộc: Su-thê-lách, Bê-ke, Tha-han (ba con trai Ép-ra-im) và Ê-ran (con Su-thê-lách).
38-41 Đại tộc Bên-gia-min có 45.600 người. Con cháu Bên-gia-min chia thành bảy họ: Bê-la, Ách-bên, A-chi-ram, Sê-phu-pham, Hu-pham (năm con trai Bên-gia-min), A-rốt và An-a-man (hai con trai Bê-la).
42,43 Đại tộc Đan có 64.400 người. Con cháu Đan chỉ gồm có một tộc, mang tên con trai ông là Su-ham.
44-47 Đại tộc A-se có 53.400 người. Con cháu A-se chia thành năm tộc: Im-na, ích vi, Bê-ria (ba con trai A-se), Hê-be và Manh-kiên (hai con trai Bê-ria). Người con gái của A-se tên là Sê-ra.
48-50 Đại tộc Nép-ta-li có 45.400 người. Con cháu Nép-ta-li gồm bốn tộc, mang tên bốn con trai ông: Giát-sê-ên, Gu-ni, Giê-se và Si-lem.
51 Vậy tổng số những người được kiểm tra trong toàn dân Y sơ-ra-ên là 601.730 người.
52 Chúa bảo Mai-sen: 53,54 "Chia đất cho các đại tộc căn cứ trên dân số; đại tộc đông dân sẽ được nhiều đất hơn đại tộc ít dân. 55 Người ta sẽ dùng lối bắt thăm định phần, trên mỗi thăm viết tên một đại tộc. 56 Nhưng các đại tộc đông dân sẽ bắt thăm chia nhau những phần đất lớn; các đại tộc ít dân bắt thăm những phần đất nhỏ."
57 Người Lê-vi được kiểm tra theo thứ tự các tộc: Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri (mang tên ba con trai Lê-vi). 58,59 Các tộc khác thuộc đại tộc Lê-vi là: Líp-ni, Hếp-rôn, Mách-li, Mu-si và Cô-rê. Khi Lê-vi còn ở Ai Cập, có sinh được một người con gái tên là Giô-kê-bết. Am-ram con Kê-hát cưới Giô-kê-bết, sinh ra A-rôn, Mai-sen và Mỵ-lâm. 60 A-rôn sinh Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. 61 Na-đáp và A-bi-hu chết khi dâng lửa lạ trước mặt Chúa.
62 Tổng số người Lê-vi là 23.000, gồm nam nhi từ một tháng trở lên. Họ không được kiểm tra chung với những đại tộc Y-sơ-ra-ên khác vì không có phần trong cuộc chia đất ấy.
63 Đấy là kết quả cuộc kiểm tra do Mai-sen và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phụ trách, thực hiện trong đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đan, tại một nơi đối diện Giê-ri-cô. 64 Không một ai trong số người được kiểm tra kỳ này có tên trong cuộc kiểm tra trước thực hiện tại sa mạc Si-nai do Mai-sen và A-rôn phụ trách. 65 Những người xưa đều chết cả, đúng như lời Chúa: "Họ sẽ chết trong sa mạc," trừ Khanh-lý con của Giê-phu-nê, và Giô-suê con của Nun.
1,2 Một hôm, các con gái của Xê-lô-phát đến gặp Mai-sen, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các nhà lãnh tụ và toàn thể nhân dân hiện diện tại cửa Lều Hội Kiến. Cha họ là Sê-lô-phát, con của Hê-phe, cháu Ga-kiến-la-át, chắt Ma-ki, chít Ma-na-se (con Giô-sép). Tên các cô này là: Mộc-lan, Nữ-lan, Hạ-lan, Minh-ca và Thiệt-sa. Họ nói: 3 "Cha chúng tôi đã qua đời trong sa mạc, nhưng không phải vì phản nghịch Chúa. Người không chết như Cô-rê và đồng bọn, nhưng qua đời tự nhiên, và không có con trai. 4 Chỉ vì không sinh con trai, cha chúng tôi phải bị xóa tên khỏi gia tộc mình hay sao? Không, xin cho chúng tôi đại diện cha lãnh phần đất cùng với các vị chú bác của chúng tôi."
5 Mai-sen trình vụ này lên Chúa. 6 Chúa Hằng Hữu cho Mai-sen hay: 7 "Các con gái Xê-lô-phát nói đúng. Hãy cho họ một phần đất cùng với chú bác họ, là phần đáng lẽ cha họ được hưởng. 8 Nhân vụ này, con cũng công bố cho nhân dân biết luật này. Nếu ai chết không có con trai, con gái sẽ lãnh phần tài sản. 9 Nếu người ấy cũng không có con gái, tài sản sẽ thuộc về anh em ruột. 10 Nếu không có anh em ruột, tài sản về tay chú bác. 11 "Nếu không có chú bác, tài sản thuộc về người bà con gần nhất còn lại."
12 Sau đó, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: "Con lên núi A-ba-rim ngắm xem đất Ta cho dân Y-sơ-ra-ên. 13 Xem xong, con sẽ qua đời như A-rôn vậy, 14 vì con đã chống lại lệnh Ta trong sa mạc Sin, khi nhân dân nổi loạn. Con đã không tôn trọng Ta trước mặt họ." (Đây là vụ "nước Mê-ri-ba" ở Ca-đe, trong sa mạc Sin).
15-17 Mai-sen thưa: "Lạy Chúa Hằng Hữu, là Chúa của linh hồn mọi người, xin chỉ định một người thay con lãnh đạo nhân dân, đối ngoại cũng như đối nội, để cho dân của Chúa không phải như cừu không người chăn."
18 Chúa đáp: "Giô-suê con của Nun là người đầy Thánh Linh. Trước hết, con đem người đến, đặt tay trên người. Sau đó, dẫn người đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa với sự chứng kiến của toàn dân, 19 rồi con sẽ ủy thác trách nhiệm cho người. 20 Con sẽ trao quyền cho người, và như vậy dân Y-sơ-ra-ên sẽ tuân lệnh người. 21 Giô-suê sẽ tham khảo với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa để biết các quyết định của Ta (nhờ bảng U-rim). Người và toàn dân sẽ tuân theo chỉ thị của Ta trong mọi việc."
22 Vâng lệnh Chúa, Mai-sen đem Giô-suê đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn dân. 23 Ông đặt tay trên Giô-suê, ủy thác trách nhiệm như lời Chúa dạy ông.
1,2 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen truyền cho dân chỉ thị sau: "Các lễ vật - các thức ăn đem đốt để dâng hương vị lên cho Ta - phải được dâng vào các thời điểm ấn định.
3 "Lễ thiêu dâng hằng ngày: gồm hai con cừu đực một tuổi, không vết tích, dùng lửa dâng lên Chúa. 4 Dâng một con vào buổi sáng, một con vào buổi tối. 5 Đồng thời cũng dâng một phần mười giạ bột mịn (lễ vật ngũ cốc) trộn với một lít rưỡi dầu ép. 6 Lễ thiêu dâng hằng ngày này là tế lễ dùng lửa dâng hương vị lên Chúa, như đã được quy định tại núi Si-nai. 7 Ngoài ra, phải dâng chung với mỗi con cừu một lít rưỡi rượu mạnh (lễ quán), lấy rượu đổ ra trong Nơi Thánh trước mặt Chúa. 8 Con cừu dâng vào buổi tối cũng được dâng chung với lễ ngũ cốc và lễ quán như con cừu buổi sáng vậy, và đây cũng là lễ vật dùng lửa dâng hương vị lên Chúa.
9 "Lễ thiêu dâng ngày Sa-bát gồm hai cừu con đực một tuổi, không vết tích; và hai phần mười giạ bột mịn trộn với dầu (lễ vật ngũ cốc) cùng với rượu (lễ quán). 10 Lễ thiêu này dâng vào mỗi ngày Sa-bát, cộng thêm với lễ thiêu hằng ngày và lễ quán.
11 "Lễ thiêu dâng đầu tháng gồm hai con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy cừu con đực một tuổi, không vết tích. 12,13 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc gồm bột mịn trộn dầu: ba phần mười giạ bột mịn trộn dầu chung với mỗi con bò; hai phần mười giạ bột mịn trộn dầu chung với con cừu đực và một phần mười giạ bột mịn trộn dầu chung với mỗi cừu con. Đó là các sinh tế thiêu, dùng lửa dâng hương vị lên Chúa. 14 Cùng với mỗi con bò, dâng ba lít rượu (lễ quán); cùng với con cừu đực, hai lít rượu; và một lít rưỡi cùng với mỗi con cừu con. Đó là lễ thiêu dâng hằng tháng trong năm. 15 Cùng với lễ thiêu, cũng dâng cho Chúa một con dê đực làm lễ chuộc tội, cộng thêm với lễ thiêu dâng hằng ngày và lễ quán.
16 "Lễ Vượt Qua của Chúa Hằng Hữu vào ngày mười bốn tháng giêng. 17 Kể từ ngày mười lăm, người ta sẽ dự lễ bánh không men trong suốt bảy ngày. 18 Vào ngày lễ thứ nhất, sẽ có một cuộc hội họp thánh. Toàn dân được mời đến dự, nên không ai làm việc nặng nhọc, 19 nhưng sẽ dâng lễ thiêu cho Chúa Hằng Hữu. Sinh tế gồm có: hai con bò đực, một con cừu đực và bảy cừu con đực một tuổi, không vết tích. 20-21 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc gồm bột mịn trộn dầu: ba phần mười giạ chung với mỗi con bò; hai phần mười giạ chung với mỗi con cừu đực, và một phần mười giạ chung với mỗi cừu con. 22 Ngoài ra, cũng dâng một con dê đực làm lễ chuộc tội. 23,24 Các lễ vật này, (ngoài lễ thiêu dâng hằng ngày và lễ quán) sẽ được dâng liên tiếp trong bảy ngày. Đó là những thức ăn đốt lên để dâng hương vị lên Chúa. 25 Đến ngày thứ bảy cũng có một cuộc hội họp thánh, toàn dân được mời dự, nên không ai làm việc nặng nhọc.
26 "Vào ngày Hoa Quả Đầu Mùa (Lễ Các Tuần), phải dâng ngũ cốc cho Chúa Hằng Hữu, gồm các hoa quả mới gặt hái được. Mọi người sẽ dự cuộc hội họp thánh, và không ai làm việc nặng nhọc. 27 Lễ thiêu dâng vào dịp này gồm có hai con bò tơ đực, một con cừu đực, bảy cừu con đực một tuổi; dùng lửa dâng hương vị lên Chúa. 28,29 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc gồm bột mịn trộn dầu: ba phần mười giạ chung với mỗi con bò; hai phần mười giạ chung với mỗi con cừu đực, và một phần mười giạ chung với mỗi cừu con. 30 Ngoài ra, cũng dâng một dê đực làm lễ chuộc tội. 31 Các lễ vật này được dâng cùng với các lễ thiêu, ngũ cốc và rượu dâng hằng ngày. Sinh tế phải là những con vật không vết tích.
1 "Lễ Thổi Kèn được giữ vào ngày mồng một tháng bảy. Toàn dân sẽ dự cuộc hội họp thánh, và trong ngày lễ không ai làm việc nặng nhọc. 2 Lễ thiêu dâng vào dịp này gồm một con bò đực, một con cừu đực, bảy cừu con đực một tuổi không vết tích; dùng lửa dâng hương vị lên Chúa. 3,4 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc gồm bột mịn trộn dầu: ba phần mười giạ chung với con bò, hai phần mười giạ chung với con cừu đực, và một phần mười giạ chung với mỗi con cừu con. 5 Ngoài ra cũng dâng con dê đực làm lễ chuộc tội. 6 Các lễ vật này được dâng cùng với lễ thiêu, ngũ cốc và rượu dâng hằng ngày như đã quy định. Đó là những lễ vật dùng lửa dâng hương vị lên Chúa.
7 "Vào ngày mồng mười tháng bảy, lại sẽ có một cuộc họp thánh. Mọi người phải hạ mình hối lỗi và không làm việc gì cả. 8 Lễ thiêu dâng hôm ấy gồm con bò tơ đực, con cừu đực và bảy cừu con đực một tuổi không vết tích; dùng lửa dâng hương vị lên Chúa. 9,10 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc gồm bột mịn trộn dầu, ba phần mười giạ chung với con bò, hai phần mười giạ chung với cừu đực, và một phần mười giạ chung với mỗi cừu con. 11 Ngoài ra, cũng dâng một con dê đực làm lễ chuộc tội. Lễ vật này được dâng cùng với lễ chuộc tội dâng trong ngày chuộc tội, lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
12 "Vào ngày rằm tháng bảy sẽ có cuộc hội họp thánh; không ai làm việc nặng nhọc, và toàn dân sẽ giữ lễ bảy ngày cho Chúa. 13 Lễ thiêu dâng vào ngày thứ nhất gồm mười ba bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn cừu đực một tuổi không vết tích; dùng lửa dâng hương vị lên Chúa. 14,15 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc gồm bột mịn trộn dầu: ba phần mười giạ chung với mỗi bò tơ đực, hai phần mười giạ chung với mỗi con cừu đực, và một phần mười giạ chung với mỗi con cừu con. 16 Ngoài ra, cũng dâng một dê đực làm lễ chuộc tội. Lễ vật này được dâng cộng thêm với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
17 "Vào ngày thứ hai, phải dâng lễ thiêu gồm mười hai con bò tơ đực, hai cừu đực, và mười bốn cừu con đực một tuổi không vết tích. 18 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc và rượu chung với bò, cừu đực và cừu con theo số lượng ấn định. 19 Ngoài ra, dâng một con dê đực làm lễ chuộc tội, cộng thêm với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
20 "Vào ngày thứ ba, dâng lễ thiêu gồm một bò tơ đực, hai cừu đực, và mười bốn cừu con một tuổi không vết tích. 21 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc và rượu chung với các sinh vật trên, theo số lượng ấn định. 22 Ngoài ra, cũng dâng một dê đực làm lễ chuộc tội, cộng thêm với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
23 "Vào ngày thứ tư, dâng lễ thiêu gồm mười bò tơ đực, hai cừu đực và mười bốn cừu con đực một tuổi không vết tích. 24 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc và rượu chung với các sinh vật trên theo số lượng ấn định. 25 Ngoài ra, cũng dâng một con dê đực làm lễ chuộc tội, cộng thêm với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
26 "Vào ngày thứ năm, dâng lễ thiêu gồm chín bò tơ đực, hai cừu đực và mười bốn cừu con đực một tuổi không vết tích. 27 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc và rượu chung với các sinh vật trên, theo số lượng ấn định. 28 Ngoài ra, cũng dâng một con dê đực làm lễ chuộc tội, cộng thêm với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
29 "Vào ngày thứ sáu, dâng lễ thiêu gồm tám bò tơ đực, hai cừu đực và mười bốn cừu con đực một tuổi không vết tích. 30 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc và rượu chung với các sinh vật theo số ấn định. 31 Ngoài ra, cũng dâng một dê đực làm lễ chuộc tội cùng với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
32 "Vào ngày thứ bảy, dâng lễ thiêu gồm bảy bò tơ đực, hai cừu đực, và mười bốn cừu con đực một tuổi không vết tích. 33 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc và rượu chung với các sinh vật trên, theo số lượng ấn định. 34 Ngoài ra, cũng dâng một con dê đực làm lễ chuộc tội cùng với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
35 "Vào ngày thứ tám sẽ có cuộc hội họp thánh, sẽ không ai làm việc nặng nhọc. 36 Lễ thiêu dâng hôm ấy gồm một bò tơ đực, một dê đực và bảy cừu con đực một tuổi không vết tích, dùng lửa dâng hương vị lên Chúa. 37 Cũng dâng lễ vật ngũ cốc và rượu chung với các sinh vật trên, theo số lượng ấn định. 38 Ngoài ra cũng dâng một dê đực làm lễ chuộc tội cùng với lễ thiêu dâng hằng ngày, ngũ cốc và rượu.
39 "Đó là các lễ vật dâng cho Chúa (gồm sinh tế thiêu, lễ vật ngũ cốc, rượu, lễ vật thù ân) trong các kỳ lễ hằng năm, ngoài các lễ vật thề nguyện và lễ vật tình nguyện."
40 Mai-sen truyền lại cho nhân dân mọi điều Chúa Hằng Hữu dặn bảo mình.
1 Mai-sen nói với các vị lãnh đạo của các đại tộc Y-sơ-ra-ên: "Chúa Hằng Hữu có truyền dạy: 2 Nếu ai hứa nguyện với Chúa một điều gì, hoặc thề sẽ tuân giữ một lời nguyền, thì người ấy phải làm theo lời mình đã thề, hứa.
3 "Nếu một người phụ nữ còn sống trong nhà cha mình, có hứa với Chúa hoặc có thề làm một điều gì, 4 và khi người cha biết được lời thề của con mình nhưng không nói gì cả, thì lời thề vẫn có hiệu lực. 5 Nhưng nếu vừa biết được lời thề, người cha liền cấm đoán con gái mình ngay trong ngày hôm ấy, thì lời thề của nàng trở nên vô hiệu. Chúa sẽ tha thứ cho nàng vì nàng bị cha mình cấm đoán.
6 "Nếu một người đàn bà đã thề hoặc đã buột miệng hứa điều gì, rồi về sau có chồng; 7 và khi người chồng biết được lời thề của vợ mình nhưng không nói gì cả, thì lời thề vẫn có hiệu lực. 8 Nhưng nếu vừa biết được lời thề, người chồng liền cấm đoán vợ mình ngay trong ngày hôm ấy, thì lời thề của nàng trở nên vô hiệu. Chúa sẽ tha thứ cho nàng.
9 "Nhưng lời thề của một bà góa hay một bà ly dị vẫn luôn có hiệu lực.
10 "Nếu một người đàn bà phát thệ khi đang sống trong nhà chồng, 11 và khi người chồng biết được lời thề của vợ mình nhưng không nói năng, phản đối gì cả, thì lời thề vẫn có hiệu lực. 12 Nhưng nếu người chồng hủy bỏ lời thề ngay trong ngày mình biết được, thì lời thề của người vợ trở thành vô hiệu, và Chúa sẽ tha thứ cho nàng. 13 Vậy, người chồng có quyền chấp thuận hay hủy bỏ lời thề của vợ mình. 14 Nếu người chồng giữ im lặng trong một ngày tròn, tức là bằng lòng chấp thuận lời thề của vợ. 15 Còn nếu người chồng đợi một thời gian rồi mới tuyên bố hủy bỏ lời thề, thì người ấy phải gánh chịu hình phạt theo như lời vợ mình đã thề."
16 Trên đây là những quy tắc Chúa Hằng Hữu truyền cho Mai-sen, để áp dụng trong những mối liên hệ vợ chồng hoặc cha con (khi người con gái còn ở trong nhà cha).
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 2 "Trước ngày con qua đời, con sẽ báo thù người Ma-đi-an cho dân Y-sơ-ra-ên."
3 Mai-sen bảo dân: "Một số người phải được vũ trang để đi báo thù dân Ma-đi-an, theo lệnh Chúa Hằng Hữu. 4,5 Mỗi đại tộc tuyển một ngàn người." Và như vậy, từ trong dân Y-sơ-ra-ên chọn mười hai ngàn người tham dự trận này. 6 Mai-sen ra lệnh tiến công, có Phi-nê-a (con thầy tế lễ Ê-lê-a-sa) đem theo các dụng cụ thánh và kèn đồng cầm nơi tay. 7 Trong trận này, họ giết sạch những người đàn ông Ma-đi-an, 8 kể cả năm vua Ma-đi-an là: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba. Ba-la-am con trai Bê-ô cũng chung số phận.
9-11 Đạo quân Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà, trẻ con Ma-đi-an, thu chiến lợi phẩm gồm bò, cừu và của cải, rồi đốt sạch các thành phố, trang trại của người Ma-đi-an. 12 Họ đem người và của cải bắt được đến trước Mai-sen, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cộng đồng nhân dân Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đan, đối diện Giê-ri-cô.
13 Mai-sen, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các nhà lãnh đạo cộng đồng Y-sơ-ra-ên ra tận bên ngoài trại tiếp đón đoàn quân chiến thắng trở về. 14 Nhưng Mai-sen giận các cấp chỉ huy quân đội lắm (họ gồm những sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân). 15 Ông hỏi: "Tại sao các anh để cho tất cả phụ nữ Ma-đi-an sống? 16 Chính họ là những người đã vâng lời Ba-la-am, quyến rũ người Y-sơ-ra-ên thờ lạy thần tượng, vì thế mà tai họa đã xảy ra cho dân của Chúa Hằng Hữu. 17,18 Thế thì, ta phải giết hết những đứa con trai và tất cả phụ nữ đã nằm với đàn ông, nhưng để cho các trinh nữ sống, và dân chúng được giữ những trinh nữ này. 19 Bây giờ, ai đã giết người hoặc đụng vào xác chết phải ở lại bên ngoài trại trong bảy ngày; vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, phải tẩy sạch mình và người mình bắt được. 20 Cũng tẩy sạch áo xống, đồ dùng bằng da, bằng lông dê và bằng gỗ."
21 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa cũng nhắc nhở các chiến sĩ: "Đây là quy tắc Chúa truyền cho Mai-sen: 22,23 Vật gì có thể đưa vào lửa được như vật bằng vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì, thì phải đưa vào lửa đốt cho sạch. Sau đó, cũng phải dùng nước tẩy uế mà tẩy sạch nữa. Còn vật gì không chịu được lửa, thì dùng nước tẩy uế mà thôi. 24 Phải giặt sạch áo vào ngày thứ bảy và như thế anh em sẽ được sạch. Sau đó, anh em sẽ vào trại."
25 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen: 26 "Con sẽ cùng với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các tộc trưởng lo kiểm kê các chiến lợi phẩm, cả người lẫn súc vật. 27 Xong, chia chiến lợi phẩm ra làm hai phần, một phần thuộc về các chiến sĩ đã ra trận, phần kia thuộc về nhân dân. 28 Trong phần của các chiến sĩ, phải đem hai phần ngàn để dâng cho Chúa, gồm người, bò, lừa và cừu. 29 Phần trích ra này sẽ đem giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa để dâng cho Chúa Hằng Hữu. 30 Cũng lấy hai phần trăm trong phân nửa của nhân dân để cho người Lê-vi, là những người có trách nhiệm phục vụ Lều Hội Kiến. Phần này cũng gồm có người, bò, lừa và cừu."
31 Mai-sen và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa làm theo lời Chúa Hằng Hữu dạy. 32 Chiến lợi phẩm do các chiến sĩ thu được (không kể đến một số của cải khác) gồm có:
675.000 con cừu,
33 72.000 con bò,
34 61.000 con lừa,
35 32.000 trinh nữ.
36 Như thế, phân nửa thuộc phần các chiến sĩ gồm có:
337.500 con cừu, 37 trong đó trích ra nộp cho Chúa là 675 con;
38 36.000 con bò, trong đó trích ra nộp cho Chúa là 72 con;
39 30.500 con lừa, trong đó trích ra nộp cho Chúa là 61 con;
40 16.000 trinh nữ, trong đó trích ra nộp cho Chúa là 32.
41 Mai-sen vâng lời Chúa, đem nộp cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phần thuộc về Chúa.
42,43 Phân nửa chiến lợi phẩm được Mai-sen chia cho nhân dân gồm có: 337.000 con cừu,
44 36.000 con bò,
45 30.500 con lừa,
46 và 16.000 trinh nữ.
47 Mai-sen lấy hai phần trăm của phân nửa này, gồm cả người lẫn thú vật, đem cho người Lê-vi như Chúa Hằng Hữu bảo ông.
48,49 Các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân đến thưa với Mai-sen: "Chúng tôi đã kiểm điểm quân số và thấy là không một ai thiệt mạng cả. 50 Ngoài ra, chúng tôi mang đến đây các vật đã thu được: nữ trang bằng vàng, vòng đeo tay, vòng đeo chân, nhẫn, hoa tai, dây chuyền. Xin dâng cho Chúa Hằng Hữu làm lễ chuộc tội."
51,52 Mai-sen và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận các lễ vật từ tay các sĩ quan, cân nặng 16.750 lạng. 53 Các chiến sĩ đều có thu hoạch chiến lợi phẩm riêng cho mình. 54 Mai-sen và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa đem các lễ vật này cất vào Lều Hội Kiến để làm một kỷ niệm của nhân dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Chúa.
1,2 Vì người thuộc đại tộc Ru-bên và Gát có rất nhiều súc vật, nên khi thấy đất Gia-ê-xe và Ga-la-át là một vùng thích hợp cho việc chăn nuôi, họ đến gặp Mai-sen, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các nhà lãnh đạo nhân dân, 3,4 trình bày như sau: "Chúa Hằng Hữu đã đánh bại dân của các địa phương A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Sê-bam, Nê-bô và Bê-ôn trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Các miền này thật là nơi lý tưởng cho bầy gia súc của chúng tôi. 5 Nếu quí vị vui lòng, xin cho chúng tôi chiếm hữu đất này, không cần phải đi qua sông Giô-đan."
6 Nhưng Mai-sen hỏi họ: "Anh em muốn ngồi nghỉ đây trong khi đồng bào phải tiếp tục chiến đấu sao? 7 Tại sao anh em làm cho đồng bào nản lòng, không muốn đi vào đất Chúa Hằng Hữu đã hứa cho? 8 Cha ông của anh em cũng đã làm y như vậy tại Ca-đe Ba-nê-a khi tôi sai họ đi thám thính Ca-na-an. 9 Sau khi nhìn thấy đất ở thung lũng Ếch-côn, họ làm cho nhân dân ngã lòng, không muốn đi vào nơi Chúa hứa cho họ nữa. 10,11 Lúc ấy Chúa Hằng Hữu nổi giận, thề không cho một người nào trong những người ra đi từ Ai Cập, từ hai mươi tuổi trở lên, được hưởng đất Ngài đã hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, vì họ không hết lòng theo Ngài, 12 chỉ trừ Khanh-lý con Giê-phu-nê người Kên, và Giô-suê con của Nun là hai người hết lòng theo Chúa. 13 Và như thế, Chúa bắt chúng ta cứ đi lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến khi tất cả thế hệ tà ác chết hết. 14 Và bây giờ, anh em là con dòng cháu giống tội lỗi lại nổi lên thay thế cho tổ tiên mình, làm gia tăng thịnh nộ của Chúa. 15 Nếu anh em từ bỏ Chúa, Ngài sẽ để cho nhân dân ở lại trong sa mạc lâu hơn, và như vậy, chính anh em mang họa diệt vong đến cho dân tộc mình."
16 Nhưng họ bước đến bên Mai-sen, thưa: "Chúng tôi chỉ xin lập chuồng cho bầy gia súc và xây thành cho con cái chúng tôi tại đây, 17 nhưng chúng tôi sẽ mang vũ khí đi trước toàn dân cho đến khi họ vào chiếm hữu đất mình. Tuy nhiên, con cháu chúng tôi cần có thành lũy bảo vệ để tránh khỏi hiểm họa dân địa phương có thể gây ra. 18 Chúng tôi hứa sẽ không về nhà cho đến khi toàn dân Y-sơ-ra-ên đều an cư lạc nghiệp. 19 Vì chúng tôi đã nhận đất bên này sông Giô-đan (phía đông), nên chúng tôi sẽ không đòi gì thêm ở bên kia sông cả."
20 Nghe vậy, Mai-sen nói: "Nếu anh em làm đúng như điều mình vừa nói, mang vũ khí ra trận trước mặt Chúa, 21 mỗi chiến sĩ đều qua sông, chiến đấu cho đến khi Ngài đuổi hết quân thù đi, 22 nếu anh em chỉ trở về khi Chúa đã chinh phục xong toàn lãnh thổ, thì lúc ấy anh em mới chu toàn trách nhiệm với Chúa và với nhân dân; và lúc ấy đất này mới thuộc quyền sở hữu của anh em, có Chúa Hằng Hữu chứng giám. 23 Nhưng nếu anh em không làm như điều mình đã nói, thì anh em mắc tội với Chúa, và anh em sẽ bị tội mình kết buộc. 24 Bây giờ, anh em cứ lo việc xây thành cho con cái mình ở, dựng chuồng cho bầy gia súc, nhưng sau đó phải nhớ làm theo lời mình đã hứa!"
25 Những người thuộc đại-tộc Gát và Ru-bên thưa: "Chúng tôi xin làm đúng theo mọi điều ông bảo. 26 Vợ con và súc vật của chúng tôi sẽ ở lại đây, trong những thành phố Ga-la-át, 27 nhưng tất cả những người có nhiệm vụ quân dịch trong chúng tôi sẽ mang vũ khí qua sông theo đúng lời ông dạy, có Chúa Hằng Hữu chứng giám."
28 Về việc này, Mai-sen chỉ thị cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun, và các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên 29 như sau: "Nếu tất cả những người có trách nhiệm quân sự trong hai đại tộc Gát và Ru-bên cùng qua sông Giô-đan với các ông, trước mặt Chúa, và khi toàn lãnh thổ đã bình định xong, thì các ông sẽ chia cho hai đại tộc ấy đất Ga-la-át; 30 nhưng nếu những người vũ trang của họ không qua sông, thì họ chỉ được chia đất Ca-na-an với các đại tộc khác."
31 Người thuộc đại tộc Gát và Ru-bên đồng thanh: "Chúng tôi xin tuân lệnh Chúa Hằng Hữu đã truyền. 32 Chúng tôi xin mang vũ khí qua sông, vào đất Ca-na-an trước sự chứng giám của Chúa Hằng Hữu, nhưng phần đất của chúng tôi sẽ ở bên này sông Giô-đan."
33 Như vậy, Mai-sen cấp cho đại tộc Gát, đại tộc Ru-bên và phân nửa đại tộc Ma-na-se (con Giô-sép) lãnh thổ của Si-hôn vua A-mo, của Óc vua Ba-san, gồm cả đất đai lẫn thành thị.
34-36 Đại tộc Gát xây các thành Đi-bôn, A-ta-rốt, A-rô-e, Á-trô-sô-phan, Gia-ê-xe, Giô-bê-ha, Bết-nim-ra và Bết-ha-ran. Đó là những thành có hào lũy kiên cố và có chuồng cho gia súc.
37,38 Đại tộc Ru-bên xây các thành Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-a-ta-im, Nê-bô, Ba-anh-mê-ôn và Síp-ma. (Về sau, người Y-sơ-ra-ên đổi tên hầu hết các thành này, là thành họ đã chiếm được và tái thiết.)
39 Con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) vào xứ Ga-la-át, chiếm đất của người A-mo là dân đang cư ngụ tại đó. 40 Vậy Mai-sen cấp cho con cháu Ma-ki đất Ga-la-át và họ lập nghiệp tại đó.
41 Con cháu Giai-rơ (một con khác của Ma-na-se) đi chiếm một số thành thị nhỏ, đổi tên vùng mình chiếm đóng thành Ha-vô Giai-rơ.
42 Nô-bách đánh chiếm thành Kê-nát và các thôn ấp phụ cận, rồi lấy tên mình đặt cho vùng ấy.
1 Sau đây là lộ trình của dân Y-sơ-ra-ên từ ngày Mai-sen và A-rôn dẫn họ ra khỏi Ai Cập. 2 Mai-sen đã ghi lại từng chặng một theo lệnh của Chúa Hằng Hữu.
3,4 Họ bắt đầu cuộc hành trình vào ngày rằm tháng giêng (ngay sau lễ Vượt Qua) từ Ram-se, ra đi cách ngang nhiên trước mắt mọi người. Trong khi đó, các gia đình Ai Cập lo chôn cất con trưởng nam mình vừa bị Chúa Hằng Hữu hành hại. Chúa Hằng Hữu cũng đoán phạt các thần Ai Cập thật nặng nề.
5 Rời Ram-se, họ đến Su-cốt, và dừng chân cắm trại tại đó. 6 Rời Su-cốt, họ đến cắm trại tại Ê-tam, ven sa mạc. 7 Rời Ê-tam, họ đi vòng lại Phi-ha Hi-rốt về phía đông của Ba-anh Sê-phôn và cắm trại trước Mít-đôn. 8 Từ đó họ đi qua giữa Biển Đỏ, xuyên vào sa mạc Ê-tam suốt ba ngày đường rồi cắm trại tại Ma-ra. 9 Rời Ma-ra, họ đến cắm trại tại Ê-lim là nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. 10-12 Rời Ê-lim, họ đến cắm trại bên bờ Biển Đỏ, và từ đó họ vào sa mạc Sin, cắm trại tại Đáp-ca. 13 Rời Đáp-ca, họ cắm trại tại A-lúc. 14 Rời A-lúc, họ cắm trại tại Rê-phi-đim, tại đó không có nước uống. 15-37 Từ Rê-phi-đim họ tiếp tục ra đi và cắm trại tại các nơi sau đây: Sa mạc Si-nai, Kíp-rốt-ha-tha-va, Hát-sê-rốt, Rích-ma, Ri-môn Phê-rết, Líp-na, Ri-sa, Kê-hê-la-tha, núi Sê-phe, Ha-ra-đa, Mác-hê-lốt, Ta-hát, Tê-rách, Mích-ga, Hách-mô-na, Mô-sê-rốt, Bê-ne Gia-can, Hô-na Ghi-gát, Dót-ba-tha, Áp-rô-na, Ê-xi-ôn Ghê-be, Ca-đe (trong sa mạc Sin), núi Hô-rơ (cạnh biên giới Ê-đôm).
38,39 Tại đây, Chúa Hằng Hữu bảo thầy tế lễ A-rôn lên núi Hô-rơ. Ông vâng lời, lên núi và qua đời trên đó. Hôm ấy là ngày mồng một tháng năm, vào năm thứ bốn mươi, kể từ ngày người Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập. A-rôn thọ 123 tuổi.
40 Vào lúc này, vua A-rát (người Ca-na-an ở nam bộ của đất Ca-na-an) nghe tin người Y-sơ-ra-ên kéo đến.
41 Rồi người Y-sơ-ra-ên lại ra đi, rời núi Hô-rơ và cắm trại tại Xa-mô-na. 42-48 Từ Xa-mô-na, họ tiếp tục cuộc hành trình và sau đây là các nơi họ dừng chân cắm trại: Phu-nông, Ô-bốt, Y-giê-a-ba-rim (cạnh biên giới Mô-áp), Đi-bôn-gát, Anh-môn Đíp-la-tha-im, núi A-ba-rim (trước Nê-bô), đồng bằng Mô-áp, (bên sông Giô-đan, đối diện Giê-ri-cô). 49 Tại đây, trại của họ chạy dài ven sông Giô-đan, từ Bết-giê-si-mốt đến A-bên Si-tim trên cánh đồng Mô-áp.
50-52 Trong thời gian họ ở bên này sông Giô-đan, Chúa Hằng Hữu có bảo Mai-sen nói với người Y-sơ-ra-ên: "Một khi qua sông, vào đất Ca-na-an rồi, các ngươi phải đuổi hết dân bản xứ đi và tiêu hủy các tượng thờ (cả tượng đá lẫn tượng đúc), san bằng các nơi cúng tế tà thần trên đồi cao của họ. 53 Các ngươi được chiếm hữu đất đai của họ và sống trên đó, vì Ta đã cho các ngươi đất đó làm sản nghiệp. 54 Các ngươi sẽ bắt thăm chia đất với nhau. Trước hết, đất phải được phân chia cho các đại tộc. Rồi trong mỗi đại tộc, tùy theo gia đình lớn nhỏ mà phân chia, gia đình lớn được phần đất lớn, gia đình nhỏ phần đất nhỏ. Thăm sẽ định phần đất mỗi gia đình được hưởng. 55 Nhưng nếu các ngươi không đuổi hết dân bản xứ đi, thì những người còn lại sẽ như gai trong mắt, như chông nơi hông các ngươi, họ sẽ gây ra bao điều phiền nhiễu sau này. 56 Và Ta sẽ hành hại các ngươi như Ta đã định hành hại họ vậy.
1 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen nói với người Y-sơ-ra-ên: 2 "Khi các ngươi vào Ca-na-an là đất Ta cho làm sản nghiệp, giới hạn đất ấy sẽ được ấn định như sau:
3,4 "Về phía nam, đất gồm có sa mạc Sin, chạy dọc theo nước Ê-đôm. Biên giới phía nam của dốc núi ạc-ráp-bim, tiếp tục chạy dài đến sa-mạc Sin, sâu xuống đến phía nam của Ca-đe Ba-nê-a, rồi từ đó chạy đến Hát-sa-át-đa, ngang qua Át-môn. 5 Từ Át-môn, biên giới sẽ quay qua sông Ai Cập và dừng lại ở biển (Địa Trung Hải).
6 "Biên giới phía tây là bờ Địa Trung Hải.
7-9 "Biên giới phía bắc chạy từ Địa Trung Hải cho đến núi Hô-rơ, từ đó vạch một đường đến lối vào Ha-mát, qua sông Xê-đát, Xíp-rôn, và chấm dứt ở Hát-sa-ê-nan.
10-11 "Biên giới phía đông sẽ bắt đầu từ Hát-sa-ê-nan chạy đến Sê-pham, từ đó xuống Ríp-la về phía đông của A-in, rồi tiếp tục xuống nữa cho đến khi giáp phía đông của biển Ki-nê-rết. 12 Từ biển Ki-nê-rết, biên giới chạy dọc theo sông Giô-đan, và chấm dứt ở Biển Chết."
13 Mai-sen nói: "Đó là đất của chín đại tộc rưỡi. Họ sẽ bắt thăm chia đất theo lệnh của Chúa Hằng Hữu, 14,15 vì đại tộc Ru-bên, Gát và phân nửa đại tộc Ma-na-se đã nhận phần đất mình bên bờ phía đông sông Giô-đan."
16-18 Chúa Hằng Hữu lại bảo Mai-sen: "Sau đây là những người có trách nhiệm chia đất: Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con trai của Nun và mỗi đại tộc một nhà lãnh đạo. 19 Đây là danh sách các nhà lãnh đạo các đại tộc: Khanh-lý con Giê-phu-nê, đại diện Giu-đa; 20 Sê-mu-ên con A-mi-hút, đại diện Si-mê-ôn; 21 Ê-li-đát con Kít-long, đại diện Bên-gia-min; 22 Bu-ki con Giốc-li, đại diện Đan; 23 Ha-ni-ên con Ê-phát, đại diện Ma-na-se. 24 Kê-mu-ên con Síp-tan, đại diện Ép-ra-im. 25 Ê-li-sa-phan con Phác-nát, đại diện Sa-bu-luân, 26 Pha-ti-ên con A-xan, đại diện Y-sa-ca; 27 A-hi-hút con Sê-lô-mi, đại diện A-se; 28 Phê-đa-ên con A-mi-hút, đại diện Nép-ta-li. 29 Đó là những người Ta chỉ định đứng ra chia đất Ca-na-an cho Y-sơ-ra-ên."
1 Khi người Y-sơ-ra-ên đang ở bên sông Giô-đan trong đồng bằng Mô-áp, đối diện Giê-ri-cô, Chúa Hằng Hữu phán dạy Mai-sen: 2 "Con bảo người Y-sơ-ra-ên nhường cho người Lê-vi một số thành và đất quanh thành trong phần tài sản họ nhận được; 3 thành phố để người Lê-vi ở và đất để họ nuôi súc vật. 4 Đất này sẽ được nới rộng ra bên ngoài bức tường bao quanh thành 1.500 thước. 5 Như vậy, từ thành trở ra sẽ đo được 3.000 thước về phía đông, phía nam, phía tây cũng như phía bắc, và thành ở chính giữa. 6,7 Tổng số thành và đất quanh thành người Y-sơ-ra-ên nhường cho người Lê-vi là bốn mươi tám, gồm sáu thành làm nơi trú ẩn cho những người ngộ sát, và bốn mươi hai thành cho người Lê-vi ở. 8 Mỗi đại tộc sẽ đóng góp vào số các thành này tùy theo diện tích tài sản mình hưởng: Đại tộc có nhiều đất, nhiều thành, đóng góp nhiều; đại tộc có ít đóng góp ít."
9,10 Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen nói với người Y-sơ-ra-ên: "Một khi các ngươi đã qua sông, vào đất Ca-na-an, 11 các ngươi sẽ chọn những thành làm nơi trú ẩn cho những người ngộ sát. 12 Đó là nơi họ ẩn náu tránh kẻ báo thù, vì họ phải được sống còn đến ngày ra tòa.
13,14 "Trong sáu thành trú ẩn, phải có ba thành bên này sông Giô-đan và ba thành trong đất Ca-na-an. 15 Các thành này không những chỉ là nơi trú ẩn cho người Y-sơ-ra-ên, mà cũng cho ngoại kiều và khách tạm trú khi họ lỡ tay giết người.
16 "Nhưng nếu ai dùng khí cụ bằng sắt đánh chết người khác, thì người ấy phải bị xử tử vì tội sát nhân. 17,18 Cũng vậy, nếu ai dùng đá hoặc khí giới bằng gỗ đánh chết người khác, thì người ấy phải bị xử tử vì tội sát nhân. 19 Khi người báo thù tìm gặp sẽ tự tay giết chết kẻ sát nhân (để trả nợ máu).
20 "Nếu ai vì ghen ghét xô đẩy người khác, hoặc rình rập đợi chờ để ném vật gì giết chết người khác, 21 hoặc nếu ai vì thù hận vung tay đánh chết người khác, thì đều phải bị xử tử. Khi người báo thù tìm gặp, sẽ giết chết kẻ sát nhân.
22,23 "Nhưng nếu ai giết người vì tình cờ, xô đẩy người khác không do ghen ghét, ném vật gì vào người khác không do dự mưu (rình rập), hoặc ngẫu nhiên ném đá trúng phải người khác chứ không do hận thù, không cố tình hại người, 24,25 thì tòa án khi phân xử giữa kẻ ngộ sát và người báo thù, sẽ căn cứ trên các nguyên tắc này để giải cứu kẻ ngộ sát khỏi tay người báo thù, và cho người ấy ở lại trong thành trú ẩn người ấy đã trốn đến. Người ấy cứ tiếp tục ở đó cho đến khi thầy tế lễ tối cao (vị được xức dầu thánh) qua đời.
26 "Nhưng nếu người ấy ra khỏi ranh giới của thành trú ẩn, 27 và nếu người báo thù bắt gặp, giết đi, người báo thù sẽ không mắc tội. 28 Vì người ấy phải ở lại trong thành cho đến ngày thầy tế lễ tối cao qua đời, sau đó mới được trở về nhà mình.
29 "Luật này sẽ áp dụng vĩnh viễn cho người Y-sơ-ra-ên, dù ở đâu cũng vậy: 30 Kẻ sát nhân phải bị xử tử, nhưng phải có ít nhất hai nhân chứng; một nhân chứng không đủ để kết án tử hình. 31 Một người đã lãnh án tử hình vì giết người, không được chuộc mạng, nhưng phải đền tội. 32 Một người chạy trốn trong thành trú ẩn, không được trả tiền chuộc mạng để về nhà trước ngày thầy tế lễ tối cao qua đời. 33 Đừng gây đổ máu khiến đất bị ô uế. Một khi đất đã ô uế, chỉ có máu của kẻ sát nhân mới chuộc tội cho đất được mà thôi. 34 Đừng làm ô uế đất mình, vì Ta, Chúa Hằng Hữu, ngự giữa các ngươi.
1 Những người đứng đầu họ Ga-la-át (Ga-la-át là con Ma-ki, cháu Ma-na-se, chắt Giô-sép) đến thưa với Mai-sen và các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên: 2 "Tuân lệnh Chúa Hằng Hữu, ông có chia đất cho Y-sơ-ra-ên theo lối bốc thăm, và cũng có giao tài sản đất đai của anh chúng tôi là Sê-lô-phát cho các cháu gái, con của anh chúng tôi. 3 Nếu các cháu lấy chồng là người thuộc đại tộc khác, phần đất của các cháu sẽ theo họ về đại tộc nhà chồng, và như vậy đất đai của chúng tôi sẽ bị thu hẹp. 4 Đến năm An Nghỉ, đất cũng chẳng hoàn lại đại tộc chúng tôi, nhưng vĩnh viễn bị sát nhập vào đại tộc khác."
5 Để giải quyết vấn đề này, Mai-sen nhận lệnh Chúa Hằng Hữu, rồi nói lại nhân dân Y-sơ-ra-ên như sau: "Các con cháu Giô-sép trình bày hợp lý; 6 và đây là lệnh của Chúa Hằng Hữu về vụ các con gái Sê-lô-phát: Họ được lấy ai làm chồng tùy ý, miễn là người chồng thuộc trong cùng một đại tộc. 7 Như vậy đất đai sẽ không chuyền từ đại tộc này sang đại tộc khác, nhưng mỗi người sẽ giữ đất cho đại tộc mình. 8,9 Một người con gái nhận được đất đai làm tài sản, dù thuộc đại tộc nào, nếu lấy chồng, thì chồng phải là người trong cùng đại tộc, như vậy đất đai của đại tộc nào được giữ trong đại tộc ấy, chứ không chuyển sang đại tộc khác."
10 Các con gái Sê-lô-phát tuân theo lệnh của Chúa Hằng Hữu do Mai-sen truyền. 11,12 Các cô Mộc-lan, Thiệt-sa, Hạ-lan, Minh-ca và Nữ-lan, đều lấy chồng trong cùng đại tộc Ma-na-se (con Giô-sép). Như vậy đất của họ vẫn thuộc về đại tộc này.
13 Đó là những luật lệ của Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen truyền cho Y-sơ-ra-ên khi họ đang ở trong đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đan, đối diện Giê-ri-cô.