1 Sách này ghi chép những lời Mai-sen truyền dạy lại nhân dân Y-sơ-ra-ên khi họ còn ở trong sa mạc, bên bờ phía đông sông Giô-đan, trong đồng bằng đối diện Su-phơ, khoảng giữa Pha-ran, Tô-phên, La-ban, Hát-sê-rốt và Đi-xa-háp.
2 (Theo đường núi Sê-i-rơ, họ đi từ Hô-rếp tới Ca-đe Ba-nê-a mất mười một ngày).
3 Ngày mồng một tháng mười một năm thứ bốn mươi, Mai-sen truyền lại cho dân tất cả những luật lệ, chỉ thị của Chúa Hằng Hữu.
4,5 Việc này xảy ra sau cuộc chiến thắng Si-hôn vua A-mo ở Hết-bôn và Óc vua Ba-san ở Ách-ta và ếch-rê-i, bên bờ phía đông sông Giô-đan.
6 Ông nói: Tại Hô-rếp, Thượng-Đế của chúng ta, là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, dạy rằng: "Các ngươi ở lại núi này đã khá lâu.
7 Bây giờ, đi vòng lại phía đồi núi của người A-mo và những vùng lân cận, gồm cả những vùng đồng bằng, đồi núi, thung lũng ở miền nam, vùng ven biển, đất của người Ca-na-an, Li-ban, cho đến tận sông cái Phát-giang.
8 Ta cho các ngươi tất cả những vùng ấy. Đó là đất Ta đã hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và con cháu họ. Các ngươi đi vào và chiếm lấy đi!"
9 Lúc ấy, tôi nói với đồng bào rằng: "Trách nhiệm trước nhân dân quá nặng nề, một mình tôi không gánh vác nổi.
10 Chúa đã gia tăng dân số chúng ta, và ngày nay dân ta đông như sao trời.
11 Cầu xin Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của cha ông ta, cứ gia tăng dân số gấp ngàn lần, và ban phúc lành cho đồng bào như Ngài đã hứa.
12 Nhưng một mình tôi làm sao giải quyết hết mọi vấn đề khó khăn và tranh chấp của đồng bào?
13 Thế thì, đồng bào nên chọn những người khôn ngoan, hiểu biết và kinh nghiệm trong đại tộc mình, để tôi cắt cử họ lãnh đạo nhân dân."
14 Lúc ấy đồng bào trả lời: "Ta nên thực hiện điều ông nói."
15 Vậy, tôi bổ nhiệm những người được nhân dân chọn lựa làm lãnh đạo, phụ trách hàng ngàn, hàng trăm, hàng năm chục và hàng chục người trong mỗi đại tộc.
16 Tôi dặn họ trong lúc xét xử phải công minh với mọi người, đồng bào cũng như ngoại kiều.
17 Không được thiên vị sang hèn, không nể người quyền quý; phải công bằng xét lý lẽ đôi bên, vì việc xét xử vốn là việc của Thượng Đế. Tôi cũng dặn họ nếu thấy vụ nào khó xử, cứ mang đến cho tôi, tôi sẽ thụ lý.
18 Đồng thời tôi cũng có truyền cho đồng bào mọi luật lệ, chỉ thị khác cần phải tuân giữ.
19-21 Sau đó, chúng ta rời Hô-rếp đi xuyên sa mạc khủng khiếp mênh mông, để vào miền đồi núi của người A-mo, theo lệnh Chúa. Khi đến Ca-đe Ba-nê-a, tôi nói với đồng bào: "Đồi núi của người A-mo này là địa đầu của lãnh thổ Chúa cho ta. Đồng bào tiến lên, chiếm lấy đất hứa. Đừng sờn lòng, nản chí!"
22 Nhưng đồng bào đề nghị: "Chúng ta nên sai trinh sát đi trước, họ sẽ cho biết ta nên tiến lên theo lối nào, và thành nào cần phải chiếm trước." 23 Nghe lời đề nghị hợp lý, tôi chọn trong mỗi đại tộc một người đi trinh sát. 24,25 Họ đi lên vùng đồi núi, đến thung lũng ếch-côn, hái một số hoa quả đem về, và cho biết đất Chúa cho thật là phì nhiêu.
26 Nhưng dân chúng phản động, chống lại lệnh của Chúa, không chịu tiến lên. 27 ễ nhà,a họ nhỏ to phàn nàn với nhau: "Vì ghét ta nên Chúa mới dẫn ta ra khỏi Ai Cập, đem đến đây cho dân A-mo tiêu diệt. 28 Chúng ta đi đâu bây giờ?" Lòng tôi tan nát khi nghe các anh em nói chuyện: "Dân ấy to lớn hơn ta, thành của họ cao tận trời, hào lũy kiên cố. Anh em còn cho biết họ có thấy dân khổng lồ A-na-kim ở đó nữa."
29 Nhưng tôi bảo họ: "Đồng bào đừng sợ! 30 Thượng Đế chúng ta, là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, luôn luôn đi trước ta, Ngài sẽ chiến đấu cho ta, như Ngài đã chiến đấu tại Ai Cập trước mắt đồng bào. 31 Còn lúc ở trong sa mạc, đồng bào cũng đã chứng kiến cảnh Chúa săn sóc dân ta, như một người cha cõng con trai mình qua từng chặng đường cho đến nơi này."
32 Bất chấp những lời tôi nói, họ không chịu tin tưởng Thượng Đế Hằng Hữu, 33 mặc dù Ngài vẫn đi trước họ, tìm cho họ một nơi để cắm trại, dùng một trụ lửa ban đêm và một trụ mây ban ngày để dẫn đường họ.
34,35 Chúa nghe những lời phàn nàn của họ. Ngài giận lắm, thề rằng sẽ không một ai thuộc thế hệ này được thấy đất hứa, 36 trừ Khanh lý con Giê-phu-nê, là người đã hết lòng theo Chúa. Khanh-lý và con cháu ông sẽ hưởng một phần đất chính bàn chân ông đã đặt lên. 37 Chúa cũng giận cả tôi vì lỗi của đồng bào, bảo rằng: "Con cũng không được vào đất hứa!" 38 Còn Giô-suê con của Nun, người đang đứng trước đồng bào đây, sẽ được vào đó. Đồng bào nên khích lệ Giô-suê, vì ông sẽ lãnh đạo Y-sơ-ra-ên trong cuộc chiếm đóng đất hứa.
39 Chúa Hằng Hữu sẽ giao đất hứa cho con cái họ, lúc ấy là những em bé chưa phân biệt thiện ác. Họ bảo rằng con cái mình sẽ làm mồi cho địch; nhưng không, chính con cái họ sẽ vào chiếm đất hứa. 40 Còn họ phải quay lại, đi vào sa mạc hướng về Biển Đỏ.
41 Lúc ấy, họ nói: "Chúng tôi có tội với Chúa. Chúng tôi xin tiến lên chiến đấu như Chúa đã bảo." Và họ tự ý vũ trang, sẵn sàng tiến lên miền đồi núi. 42 Chúa truyền cho tôi bảo họ đừng tiến lên chiến đấu; họ sẽ bị quân thù đánh bại vì Ngài không đi với họ. 43 Tôi bảo họ; nhưng họ không nghe, cãi lệnh Thượng Đế, tự tung tự tác tiến lên vùng đồi núi. 44 Người A-mo ở trên đồi núi đổ ra, đuổi họ chạy như ong vỡ tổ, đánh giết họ từ Sê-i-rơ cho đến Họt-ma. 45 Họ chạy về kêu khóc với Chúa; nhưng Ngài không nghe nữa. 46 Và họ ở lại Ca-đe lâu ngày.
1 Rồi chúng ta quay lại, đi vào sa-mạc hướng về Biển Đỏ như Chúa đã bảo tôi; và chúng ta đi vòng quanh vùng núi Sê-i-rơ trong một thời gian rất lâu.
2 Một hôm, Chúa Hằng Hữu bảo tôi:
3,4 "Con cho dân biết là họ đi quanh vùng này đủ rồi, bây giờ đi lên hướng bắc, qua lãnh thổ của một nước anh em. Dân nước này là con cháu Ê-sau, sinh sống ở Sê-i-rơ, và họ sẽ sợ các ngươi. Vậy phải thận trọng,
5 không được gây hấn với họ. Ta sẽ không cho các ngươi đất của họ, dù một mảnh lọt bàn chân cũng không, vì Ta đã cho Ê-sau vùng núi Sê-i-rơ này.
6 Khi cần thức ăn, nước uống, các ngươi phải mua của họ và trả tiền hẳn hoi.
7 Vì Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế đã ban phước cho mọi công việc của các ngươi, trong suốt bốn mươi năm lang thang trong sa mạc mênh mông, Ngài vẫn ở với các ngươi, không để cho thiếu thốn gì cả."
8 Vậy, chúng ta đi qua đất của anh em mình, là con cháu Ê-sau ở Sê-i-rơ, theo đường cái A-ra-ba từ Ê-la, và từ Ê-xi-ôn Ghê-be, chúng ta rẽ lên hướng sa mạc Mô-áp.
9 Chúa Hằng Hữu lại dặn tôi: "Đừng gây hấn với người Mô-áp. Ta không cho các ngươi đất của họ, vì Ta đã cho con cháu của Lót vùng A-rơ này."
10 (Trước kia người Ê-mim ở trong vùng ấy, họ là một giống dân hùng mạnh, đông đúc, cao lớn như người A-na-kim.
11 Cũng như người A-na-kim, họ được gọi là Rê-pha-im, nhưng người Mô-áp gọi họ là Ê-mim.
12 Còn Sê-i-rơ trước kia là đất của người Hô-rim, về sau con cháu Ê-sau đến diệt người, chiếm đất. Đó cũng là điều Y-sơ-ra-ên sắp làm cho đất Ta cho họ.)
13 "Bây giờ các ngươi đứng dậy, đi qua suối Xê-rết." Và chúng ta băng suối theo lệnh Chúa.
14,15 Từ ngày rời Ca-đe Ba-nê-a cho đến lúc băng suối Xê-rết, tính đúng ba mươi tám năm. Trong thời gian này, Chúa ra tay tiêu diệt hết thế hệ phạm tội ở Ca-đe Ba-nê-a, từ lứa tuổi đầu quân trở lên, như lời Ngài đã thề.
16,17 Vậy, khi thế hệ ấy qua rồi, Chúa bảo tôi:
18 "Hôm nay, các ngươi sẽ đi qua biên giới Mô-áp ở vùng A-rơ.
19 Và khi đến gần đất của con cháu Am-môn, các ngươi không được gây hấn, vì Ta sẽ không cho các ngươi đất của họ. Ta đã cho con cháu của Lót đất ấy."
20,21 (Đất này trước kia thuộc người Rê-pha-im, là một giống dân hùng mạnh, đông đúc, cao lớn như người A-na-kim; riêng người Am-môn gọi họ là Xam-xu-mim. Nhưng Chúa diệt người Rê-pha-im, và người Am-môn chiếm chỗ của họ.
22 Đó cũng là điều Chúa làm để giúp con cháu Ê-sau, khi Ngài diệt người Hô-rim, cho người Ê-đôm đất Sê-i-rơ.
23 Một trường hợp tương tự khác là người A-vim cư ngụ trong các làng mạc xa xôi đến tận Ga-xa bị người ở Cáp-tô đến tiêu diệt, chiếm đất.)
24 Chúa tiếp: "Bây giờ các ngươi lên đường, băng sông ạt-nôn, vào đất của Si-hôn người A-mo vua Hết-bôn, đánh phá và chiếm cứ đất đai!
25 Từ hôm nay, Ta làm cho muôn dân thiên hạ hãi hùng khi nghe nói về các ngươi, run rẩy khi đứng trước các ngươi."
26 Từ sa mạc Kê-đê-mốt - Mai-sen nói tiếp - tôi sai sứ đến gặp Si-hôn vua Hết-bôn để bàn chuyện hòa bình.
27 Sứ nói: "Xin cho chúng tôi đi qua đất vua; chúng tôi chỉ xin đi trên đường cái, không đi lang bang.a
28 Chúng tôi sẽ mua thức ăn nước uống, trả tiền sòng phẳng. Chỉ xin cho chúng tôi mượn đường đi qua,
29 cũng như con cháu Ê-sau ở Sê-i-rơ và người Mô-áp ở A-rơ đã giúp chúng tôi. Vì chúng tôi đang đi trên đường vào đất Chúa cho chúng tôi, bên kia sông Giô-đan."
30 Nhưng Si-hôn từ chối, vì Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của chúng ta, đã làm cho vua ấy trở nên ương ngạnh, để giao họ cho chúng ta trừng phạt. Đó là việc đã xảy ra.
31 Chúa bảo tôi: "Ta cho các ngươi đất của Si-hôn, bắt đầu chiếm lấy đi."
32 Si-hôn đem toàn lực ra giao chiến tại Gia-hát.
33 Nhưng Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế chúng ta, nạp họ cho chúng ta; cha con Si-hôn và toàn lực lượng của vua ấy bị đánh bại.
34 Chúng ta chiếm hết mọi thành của họ, giết cả nam phụ lão ấu;
35 chỉ giữ lại bầy gia súc và các chiến lợi phẩm đoạt được.
36 Vậy từ A-rô-e, một thành ở bên bờ sông ạt-nôn, cho đến Ga-la-át, một thành trong thung lũng, chẳng có thành nào là kiên cố quá cho chúng ta cả, vì Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế, đã nạp tất cả vào tay chúng ta.
37 Tuy nhiên, theo lệnh Chúa, chúng ta không động đến đất của người Am-môn ở dọc mé sông Gia-bốc, các thành ở trên núi và những nơi nào Chúa đã cấm.
1 Sau đó, chúng ta quay qua bắt đường Ba-san đi lên. Vua Ba-san là Óc đem toàn lực ra nghênh chiến chúng ta tại ếch-rê-i.
2,3 Chúa bảo tôi: "Đừng sợ vua ấy, Ta nạp cả vua, dân, lẫn đất này vào tay các ngươi; các ngươi sẽ xử họ như xử Si-hôn vua A-mo ở Hết-bôn." Vậy, Chúa thực hiện lời Ngài vừa nói, và chúng ta giết sạch người ở Ba-san.
4 Chúng ta chiếm trọn sáu mươi thành trong toàn vùng ạt-gốp, đất Ba-san.
5 Đó là những thành kiên cố, có lũy cao, cổng chấn song. Ngoài ra, chúng ta còn chiếm nhiều thôn ấp không có thành lũy bao bọc.
6 Chúng ta tiêu diệt Ba-san hoàn toàn, cũng như tiêu diệt Hết-bôn, hạ thành, giết hết nam phụ lão ấu;
7 chỉ còn lại bầy gia súc và các chiến lợi phẩm đoạt được.
8 Như vậy, chúng ta chiếm hết đất của hai vua A-mo, bên bờ phía đông sông Giô-đan, từ sông ạt-nôn đến núi Hẹt-môn
9 (người Si-đôn gọi núi Hẹt-môn là Si-ri-ôn, còn người A-mo gọi là Sê-nia),
10 tất cả các thành miền cao nguyên, miền Ga-la-át, miền Ba-san, cho đến hai thành của vua Óc là Sanh-ca và ếch-rê-i.
11 (Óc, vua Ba-san, là người Rê-pha-im sống sót sau cùng. Giường của vua này bằng sắt dài chín thước, rộng bốn thước, nay còn tại Ráp-ba,(một thành của người Am-môn.)
12 Lúc ấy, tôi chia một phần đất vừa chiếm được cho hai đại tộc Ru-bên và Gát, từ A-rô-e bên bờ sông ạt-nôn, và phân nửa núi Ga-la-át với các thành thị trong ấy.
13 Phần còn lại gồm phân nửa kia của núi Ga-la-át, và toàn lãnh thổ Ba-san của vua Óc, tức là vùng ạt-gốp, tôi đem chia cho phân nửa đại tộc Ma-na-se. (Toàn vùng Ba-san trước kia còn được gọi là đất của người Rê-pha-im.)
14 Giai-rơ thuộc đại tộc Ma-na-se chiếm toàn vùng ạt-gốp tức Ba-san; vùng này chạy dài đến biên giới đất Ghê-su-ri và Ma-ca-thi. Ông đặt tên vùng này là thôn Giai-rơ, tên này vẫn còn cho đến ngày nay.
15 Tôi cũng chia đất Ga-la-át cho Ma-ki.
16 Hai đại tộc Ru-bên và Gát nhận phần đất Ga-la-át; ranh giới hai bên là thung lũng ạt-nôn và sông Gia-bốt, sông này cũng là biên giới đất Am-môn.
17 Họ cũng nhận đất A-ra-ba với sông Giô-đan làm giới hạn, từ Ki-nê-rết cho tới biển A-ra-ba tức Biển Mặn, dưới triền phía đông của núi Phích-ga.
18 Lúc ấy, tôi có dặn: "Chúa Hằng Hữu, là Thượng Đế, đã cho anh em đất này, nhưng tất cả chiến sĩ của anh em phải qua sông, đi tiên phong chiến đấu cho tất cả các đại tộc khác.
19 Riêng vợ con và bầy gia súc của anh em sẽ ở lại trong các thành vừa nhận được, vì anh em có nhiều gia súc.
20 Anh em chỉ trở về khi nào Chúa đã cho các đại tộc khác chiếm đóng đất đai bên kia sông Giô-đan."
21 Sau đó, tôi bảo Giô-suê: "Ông đã thấy điều Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của ông, làm cho hai vua ấy. Ngài cũng sẽ xử các vua khác ở bên kia sông như vậy.
22 Đừng sợ họ, vì Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của ông, sẽ chiến đấu cho ông."
23 Và lúc ấy, tôi cầu khẩn Chúa:
24 "Thưa Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế, Chúa bắt đầu cho con thấy tính cách cao cả và sức mạnh phi thường của Chúa. Vì dù trên trời hay dưới đất, có thần nào uy dũng như Chúa, làm được các việc Chúa làm?
25 Xin Chúa cho con qua sông Giô-đan để tận mắt ngắm nhìn đất đai phì nhiêu, núi đồi hùng vĩ, và cả dãy núi Li-ban."
26 Nhưng vì lỗi đồng bào, nên Chúa giận, không chấp nhận lời tôi xin, và bảo tôi: "Con đừng nhắc đến việc này nữa,
27 nhưng cứ leo lên đỉnh núi Phích-ga để chiêm ngưỡng đất hứa, vì trên ấy, con có thể nhìn khắp nơi khắp hướng, không cần phải qua sông.
28 Khi truyền giao chức vụ, con nên dùng lời khích lệ, củng cố tinh thần Giô-suê, vì Giô-suê sẽ dẫn dân qua sông, chiếm lấy đất con được ngắm nhìn."
29 Rồi, chúng ta ở lại trong thung lũng đối diện Bết-phê-o.
1 Đồng bào ơi! Bây giờ xin lắng tai nghe kỹ và tuân hành những luật lệ tôi công bố. Nhờ vậy, nhân dân ta mới mong sống còn, để đi chiếm vùng đất Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế của cha ông ta ban cho.
2 Đừng thêm bớt điều gì vào luật này, chỉ việc tuân hành, vì đây là luật của Chúa.
3 Đồng bào đã thấy tận mắt điều Chúa làm trong vụ Ba-anh Phê-o: Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của chúng ta, đã tiêu diệt những ai theo Ba-anh Phê-o.
4 Còn ai trung thành với Ngài vẫn sống cho đến hôm nay.
5 Luật lệ tôi đang dạy đồng bào đây là luật Thượng Đế Hằng Hữu truyền cho tôi, cũng là luật áp dụng trong lãnh thổ đồng bào sẽ chiếm cứ.
6 Sự áp dụng và tuân hành luật này làm cho đồng bào trở thành khôn ngoan, thấu đáo. Những dân tộc khác khi nghiên cứu luật này sẽ trằm trồ: "Đây là một dân tộc khôn ngoan, trí tuệ!"
7 Vì làm gì có một nước nào - dù lớn đến đâu - có một vị thần ở gần bên dân, như Thượng Đế Hằng Hữu ở gần bên ta, nghe lời ta cầu khẩn?
8 Có nước nào - dù lớn đến đâu - có được một bộ luật công minh như bộ luật ta ban hành hôm nay?
9 Phải hết lòng thận trọng, ghi khắc những điều mình đã thấy vào tâm khảm, suốt đời đừng quên. Cũng kể lại cho con cháu mình những điều tai nghe mắt thấy Chúa đã làm.
10 Như hôm tại núi Hô-rếp, lúc đồng bào đứng trước mặt Thượng Đế Hằng Hữu, Ngài bảo tôi: "Triệu tập nhân dân lại đây cho họ nghe lời Ta dạy, để họ biết kính sợ Ta suốt những ngày sống trên đất, và họ sẽ dạy con cái họ kính sợ Ta."
11 Rồi đồng bào kéo đến đứng dưới chân núi, trong khi trên núi lửa cháy dữ dội, ngọn cao tận trời, mây phủ đen kịt, bóng tối dày đặc.
12 Từ giữa đám lửa, Chúa nói với đồng bào. Đồng bào nghe tiếng nói nhưng không thấy hình dáng Ngài.
13 Ngài ban bố mười điều răn cho đồng bào tuân hành, và ghi các điều răn lên hai bảng đá.
14 Đó là lúc Chúa bảo tôi dạy cho đồng bào luật lệ áp dụng trong lãnh thổ sắp chiếm cứ.
15 Vậy phải thận trọng, vì hôm ấy trên núi Hô-rếp, khi Chúa nói với đồng bào từ trong đám lửa, đồng bào không thấy hình dáng của Ngài; 16-18 nên đừng hành động một cách hư đốn mà làm tượng thờ theo bất kỳ hình dáng nào, dù là đàn ông, đàn bà, thú vật, chim chóc, cá hay côn trùng bò trên đất. 19 Cũng phải coi chừng, đừng thờ mặt trời, mặt trăng hay các ngôi sao trên trời, vì đó chỉ là những vật Thượng Đế Hằng Hữu phân phối khắp trời để soi sáng cho mọi người. 20 Chúa Hằng Hữu đã cứu đồng bào ra khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng ở Ai Cập, cho đồng bào được làm dân của Ngài như ngày nay. 21,22 Nhưng Chúa Hằng Hữu giận tôi vì đồng bào phạm tội, nhất quyết không cho tôi qua sông Giô-đan, vào đất tốt đẹp Ngài hứa cho đồng bào làm sản nghiệp. Tôi phải qua đời ở bên này sông. 23 Vậy, phải thận trọng, không được quên giao ước Chúa đã kết với đồng bào. Đừng làm tượng thờ dưới bất kỳ hình thức nào, vì Thượng Đế Hằng Hữu đã cấm ngặt. 24 Chúa Hằng Hữu là Lửa thiêu hủy, là Thần kỵ tà.
25 Sau này, khi ai nấy đã có con cháu đầy đàn, đã ở trong đất hứa lâu năm, nếu đồng bào hành động cách hư đốn, làm tượng thờ dù dưới hình thức nào, tức là khiêu khích Chúa, chọc giận Ngài. 26 Xin trời đất chứng giám cho chúng ta hôm nay - nếu thế, đồng bào chắc chắn phải bị tiêu diệt khỏi lãnh thổ bên kia sông Giô-đan mà đồng bào sắp chiếm. Thời gian đồng bào cư trú tại đó sẽ thật ngắn ngủi. 27 Chúa Hằng Hữu sẽ phân tán đồng bào giữa các nước khác, và số người sống sót sẽ thật ít ỏi. 28 Tại các nước ấy, đồng bào sẽ thờ các thần bằng gỗ, bằng đá do người ta làm ra; các thần ấy không thấy, không nghe, không ăn, không ngửi. 29 Rồi đồng bào sẽ tìm kiếm Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình; và nếu hết lòng, hết linh hồn tìm kiếm, đồng bào sẽ gặp Ngài. 30 Trong những ngày hoạn nạn khốn cùng ấy, đồng bào sẽ quay lại với Thượng Đế Hằng Hữu, vâng theo lời Ngài. 31 Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế đầy lòng thương xót, Ngài không từ bỏ, tuyệt diệt đồng bào; cũng không quên giao ước đã lập với tổ tiên ta.
32 Trong quá khứ, tính từ khi Thượng Đế tạo dựng loài người, từ góc trời này cho đến góc trời kia, có bao giờ có việc lạ thế này chưa: 33 Một dân tộc nghe tiếng Thượng Đế nói từ trong đám lửa, như trường hợp đồng bào, mà vẫn còn sống? 34 Có bao giờ Thượng Đế dùng phép lạ, hoạn nạn, chiến tranh, các việc khủng khiếp để giải phóng một dân tộc nô lệ đang ở ngay trong nước đô hộ, như trường hợp Chúa ra tay trừng trị Ai Cập ngay trước mắt đồng bào hay không? 35 Đó là những việc Ngài cho đồng bào thấy tận mắt, để đồng bào ý thức được chính Chúa là Thượng Đế, ngoài ra không có Thượng Đế nào khác. 36 Chúa cho đồng bào nghe tiếng Ngài vang ra từ trời để đồng bào được giáo hóa; dưới đất, Ngài cho đồng bào thấy trụ lửa, và tiếng Ngài phát ra từ trong đám lửa. 37 Vì yêu tổ tiên chúng ta và dòng giống của tổ tiên, Ngài đích thân đem đồng bào ra khỏi Ai Cập bằng những phép lạ phi thường. 38 Ngài đánh đuổi dân các nước lớn mạnh hơn chúng ta, để đem đồng bào vào chiếm lấy đất họ làm sản nghiệp, như đồng bào thấy ngày nay.
39 Vậy, đồng bào phải nhận thức và ghi khắc vào lòng rằng, trên trời, dưới đất, chỉ có Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế, chẳng có thượng đế nào khác. 40 Đồng bào nhớ tuân theo các luật lệ tôi ban bố hôm nay, nhờ vậy đồng bào và con cháu mai hậu sẽ được thới thạnh; người người vui hưởng tuổi thọ trong lãnh thổ Chúa cho Y-sơ-ra-ên vĩnh viễn."
41,42 Sau đó, Mai-sen ra chỉ thị, dành riêng ba thành bên bờ phía đông sông Giô-đan dùng làm nơi trú ẩn cho những ai lầm lỡ giết người, không có hiềm khích trước. 43 Các thành đó là Bê-xe trên cao nguyên, trong sa mạc, dành cho đại tộc Ru-bên; Ra-mốt trong Ga-la-át, cho đại tộc Gát, và Gô-lan thuộc Ba-san, cho đại tộc Ma-na-se.
44-49 Sau đây là bộ luật Mai-sen ban hành cho người Y-sơ-ra-ên sau khi ra khỏi Ai Cập, lúc họ đang ở bên bờ phía đông sông Giô-đan, đối diện Bết Phê-o, là đất của Si-hôn vua A-môn trước kia. Người Y-sơ-ra-ên đánh bại Si-hôn ở Hết-bôn, Óc vua Ba-san, và hai vua A-mo ở phía đông sông Giô-đan, chiếm đất của họ từ A-rô-e, bên bờ thung lũng sông ạt-nôn, cho đến núi Si-ri-ôn -tức núi Hẹt-môn), và tất cả miền đồng bằng bên bờ phía đông sông Giô-đan, cho đến tận biển của đồng bằng, dưới triền núi Phích-ga.
1 Mai-sen kêu gọi người Y-sơ-ra-ên lắng tai nghe luật lệ ông công bố, học tập và thực hành luật ấy.
2 Ông nói: Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế chúng ta, đã kết ước với chúng ta tại núi Hô-rếp.
3 Ngài kết ước với chúng ta, là những người đang sống, chứ không phải với tổ tiên ta.
4 Từ trong đám lửa trên núi, Chúa Hằng Hữu đã đối diện nói chuyện với đồng bào.
5 Lúc ấy, tôi đứng giữa Chúa và đồng bào, để truyền lại cho đồng bào mọi lời của Ngài, vì đồng bào sợ đám lửa, và không dám lên núi. Ngài truyền dạy:
6 "Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi, Đấng đã giải thoát các ngươi khỏi ách nô lệ Ai Cập.
7 "Ngoài Ta, các ngươi không được thờ thần nào khác.
8 "Không được làm tượng thần để thờ, cũng không được làm tượng theo hình dáng chim trời, thú vật trên đất, hay cá dưới nước.
9 Không được quì lạy và phụng thờ hình tượng, vì Ta, Chúa Hằng Hữu, là Thượng Đế kỵ tà. Nếu ai phạm tội và ghét bỏ Ta, thì Ta sẽ trừng phạt người ấy và con cháu người ấy đến đời thứ ba thứ tư.
10 Nhưng nếu ai giữ điều răn Ta dạy và yêu mến Ta, thì Ta sẽ thương xót người ấy và con cháu người ấy đến muôn ngàn đời.
11 "Không được lạm dụng tên của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi. Ai phạm tội này, Ta sẽ không tha.
12 "Phải tôn trọng ngày lễ cuối tuần, biệt riêng ngày ấy ra, như Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế ngươi, đã dạy.
13 Các ngươi sẽ làm việc trong sáu ngày;
14 nhưng ngày thứ bảy là ngày lễ cuối tuần của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế ngươi. Trong ngày ấy, ngươi và mọi người trong nhà - con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, người ngoại quốc sống với ngươi, luôn cả bầy gia súc - không ai được làm việc. Các ngươi phải cho đầy tớ mình nghỉ ngơi như mình vậy.
15 Nên nhớ rằng, ngươi cũng đã làm đầy tớ trong nước Ai Cập, nhưng nhờ Chúa ra tay giải thoát ngươi. Vậy, phải giữ ngày lễ cuối tuần.
16 "Phải hiếu kính cha mẹ, như Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế, dạy ngươi, để ngươi được sống lâu và thịnh vượng trong đất Chúa cho ngươi.
17 "Không được giết người.
18 "Không được tà dâm.
19 "Không được trộm cắp.
20 "Không được làm chứng gian hại người.
21 "Không được ham muốn vợ người khác, hoặc ham muốn nhà cửa, đồng ruộng, tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất kỳ vật gì của người khác."
22 Đó là những mệnh lệnh Chúa đã truyền cho đồng bào vang ra từ trong đám lửa trên núi có mây đen bao bọc. Rồi Ngài viết những điều ấy vào hai bảng đá, trao cho tôi.
23 Nhưng khi đồng bào nghe tiếng vang ra từ trong bóng đen dày đặc, và trên đỉnh núi lại có lửa cháy dữ dội, các trưởng tộc và trưởng lão đều đến tìm tôi.
24 Họ nói: "Hôm nay chúng tôi đã thấy vinh quang và sự vĩ đại của Chúa, đã nghe tiếng Ngài phát ra từ trong đám lửa. Hôm nay chúng tôi thấy có người được nghe tiếng phán của Thượng Đế mà vẫn còn sống.
25 Nhưng nếu chúng tôi cứ tiếp tục nghe tiếng phán của Thượng Đế Hằng Hữu, chúng tôi sẽ chết. Đám lửa kia sẽ thiêu hủy chúng tôi. Tại sao chúng tôi phải chết?
26 Có ai là người trần như chúng tôi, đã nghe tiếng phán của Thượng Đế Hằng Hữu phát ra từ trong đám lửa, mà vẫn còn sống hay không?
27 Vậy, xin ông đi nghe những gì Chúa dạy và truyền lại cho chúng tôi, chúng tôi xin vâng theo tất cả."
28 Nghe những lời họ nói, Chúa Hằng Hữu bảo tôi: "Ta nghe những điều họ trình bày với con rồi. Họ nói phải.
29 Nếu họ có lòng như vậy, cứ kính sợ Ta và vâng giữ các điều răn Ta, tương lai họ và con cháu họ sẽ rất tốt đẹp.
30 Bây giờ con bảo họ về trại mình đi.
31 Rồi con đến đây đứng cạnh Ta, Ta sẽ truyền cho con mọi điều răn, luật lệ và chỉ thị; và con sẽ dạy lại họ, để họ đem ra áp dụng trong lãnh thổ Ta cho."
32 Vậy, đồng bào phải thận trọng thi hành mọi điều Chúa truyền dạy, không sai lệch.
33 Cứ theo đúng đường lối Ngài dạy, đồng bào sẽ được sống lâu, thịnh vượng, may mắn trong lãnh thổ đồng bào sắp chiếm cứ.
1 Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của đồng bào, bảo tôi dạy đồng bào các luật lệ sẽ được áp dụng trong lãnh thổ ta sẽ chiếm cứ.
2 Nếu đồng bào, con cháu đồng bào suốt đời kính sợ Thượng Đế Hằng Hữu, tuyệt đối tuân hành luật lệ Ngài, thì đồng bào sẽ được sống lâu.
3 Vậy, xin đồng bào lắng tai nghe kỹ các luật lệ Ngài và thận trọng tuân hành; nhờ đó, đồng bào sẽ được thịnh vượng, may mắn, dân số gia tăng nhanh chóng trong vùng đất phì nhiêu, đúng như Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ tiên đã hứa.
4 Xin đồng bào lắng nghe đây: Chỉ có một mình Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế chúng ta mà thôi.
5 Phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức yêu kính Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình.
6 Phải ghi lòng tạc dạ những lời tôi truyền cho đồng bào hôm nay.
7 Cũng phải ân cần dạy dỗ những lời này cho con cái mình khi ở nhà, lúc ra ngoài, khi đi ngủ, lúc thức dậy.
8 Buộc những lời ấy vào tay mình, đeo trên trán mình,
9 ghi những lời ấy trên cột nhà và trước cổng.
10-12 Khi Thượng Đế Hằng Hữu đem đồng bào vào đất Ngài đã hứa với tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, cho đồng bào những thành phố to lớn tốt đẹp không do đồng bào kiến thiết, những ngôi nhà đầy những vật dụng không do đồng bào mua sắm, những giếng nước không do đồng bào đào, vườn nho, vườn ô-liu không do đồng bào trồng, và khi ăn uống no nê, đồng bào phải thận trọng, đừng quên Chúa Hằng Hữu, Đấng đã giải thoát đồng bào khỏi ách nô lệ Ai Cập. 13 Phải kính trọng Thượng Đế Hằng Hữu, phục vụ Ngài, và lấy Danh Ngài mà thề nguyện.
14 Không được theo các thần của các nước láng giềng, 15 vì Thượng Đế Hằng Hữu ở giữa đồng bào là Thượng Đế kỵ tà. Nếu đồng bào thờ các thần đó, Chúa sẽ nổi giận, trừ diệt đồng bào khỏi mặt đất.
16 Không được thử thách Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, như đồng bào đã làm ở Ma-sa. 17 Phải tuyệt đối tuân hành các điều răn, luật lệ của Ngài; 18 làm những điều phải, điều tốt dưới mắt Ngài; như vậy đồng bào mới được may mắn, vào chiếm được đất Chúa đã hứa cho tổ tiên ta, 19 và đánh đuổi quân thù trước mặt như Chúa đã nói.
20 Sau này, khi con cái đồng bào thắc mắc về ý nghĩa của điều răn, luật lệ của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế chúng ta, ban bố, 21 đồng bào sẽ giải thích như sau: "Ngày xưa, chúng ta là nô lệ của Pha-ra-ôn ở Ai Cập, nhưng Chúa đã ra tay giải thoát chúng ta. 22 Ngài dùng nhiều phép lạ phi thường, những đòn khủng khiếp trừng phạt Ai Cập, Pha-ra-ôn và hoàng gia, ngay trước mắt nhân dân ta. 23 Chúa Hằng Hữu đem nhân dân ta ra khỏi Ai Cập, và cho ta đất này như Ngài đã hứa với tổ tiên ta. 24 Chính Ngài đã ban bố những luật lệ này để chúng ta triệt để tuân hành, và kính sợ Ngài là Thượng Đế của chúng ta; và nhờ thế, chúng ta mới được Ngài cho tồn tại đến ngày hôm nay. 25 Nếu cứ cẩn trọng tuân hành mọi luật lệ Chúa đã truyền, chúng ta sẽ được kể là người công chính."
1 Khi Chúa Hằng Hữu dẫn đồng bào vào đất hứa, Ngài sẽ đuổi các dân tộc sau đây ra: Hết, Ghi-rê-ga, A-mo, Ca-na-an, Phê-rết, Hê-vi và Giê-bu.
2 Họ là dân của những nước lớn mạnh hơn ta, nhưng Chúa sẽ cho Y-sơ-ra-ên đánh bại các dân ấy. Đồng bào phải tận diệt họ đi không thương xót, không ký hòa ước gì cả.
3 Cũng không được kết sui gia với họ, đừng gả con gái mình cho con trai họ hoặc cưới con gái họ cho con trai mình,
4 vì họ sẽ dụ con cái đồng bào thờ cúng các thần của họ mà bỏ Chúa Hằng Hữu. Và nếu thế, Ngài sẽ nổi giận, tiêu diệt đồng bào tức khắc.
5 Đồng bào phải đập phá bàn thờ, nghiền nát trụ thờ, cắt trụi những lùm cây, đốt sạch các tượng chạm của họ.
6 Vì đồng bào là một dân thánh của Chúa, Ngài đã chọn đồng bào trong tất cả các dân tộc trên hoàn cầu làm dân tộc đặc biệt của Ngài.
7 Không phải Ngài chọn lựa và thương yêu đồng bào vì dân số đông. Không, so với những dân tộc khác, dân số đồng bào ít nhất.
8 Nhưng chỉ vì Chúa thương yêu đồng bào, và Ngài muốn giữ lời hứa với tổ tiên ta. Đó là lý do Ngài đã giải thoát Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô-lệ của Pha-ra-ôn vua Ai Cập.
9 Vậy, phải ý thức rằng Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế duy nhất, Thượng Đế thành tín. Ngài tôn trọng giao ước, và thương xót cả ngàn thế hệ những người kính yêu Ngài, tôn trọng điều răn Ngài.
10 Nhưng Ngài sẽ tiêu diệt không nới tay những ai ghét bỏ Ngài.
11 Vậy, đồng bào phải thận trọng, tuân hành mọi điều răn, luật lệ tôi truyền lại cho đồng bào hôm nay.
12 Nếu đồng bào tôn trọng pháp luật, Chúa sẽ thương yêu đồng bào và thi hành giao ước Ngài đã kết với các tổ tiên.
13 Ngài sẽ yêu quý, ban phước lành cho đồng bào, gia tăng nhân số Y-sơ-ra-ên. Ngài sẽ ban phước cho con cháu đồng bào, cho mùa màng, ngũ cốc, rượu, dầu. Bầy gia súc sẽ được tăng gia trong lãnh thổ Ngài sắp cho đồng bào, theo lời Ngài hứa với tổ tiên.
14 Y-sơ-ra-ên sẽ được phước hơn mọi dân tộc khác. Trong dân, sẽ không có ai son sẻ, và cho đến gia súc cũng vậy.
15 Chúa Hằng Hữu sẽ cho đồng bào không mắc bệnh tật, các bệnh hiểm nghèo đồng bào đã thấy tại Ai Cập sẽ không ảnh hưởng gì đến đồng bào, nhưng Ngài dành những bệnh ấy cho ai thù ghét đồng bào.
16 Về phần đồng bào, phải diệt sạch các dân tộc Chúa đặt dưới tay đồng bào, không thương xót. Cũng không được thờ cúng các thần của họ, vì đây là một cái bẫy.
17 Nếu đồng bào thắc mắc: "Các dân tộc ấy đông hơn dân ta, làm sao diệt họ được?"
18 Đừng sợ, cứ nhớ lại những việc Chúa đã làm cho Pha-ra-ôn và Ai Cập.
19 Đồng bào đã chứng kiến những cuộc thử thách kinh hồn, những phép lạ, quyền lực uy dũng của Thượng Đế khi Ngài ra tay giải thoát đồng bào ra khỏi Ai Cập. Ngài cũng sẽ trừng trị các dân tộc đồng bào đang sợ như thế.
20 Hơn nữa, Chúa cũng sẽ sai ong vò vẻ xua đuổi những người trốn tránh ra cho đồng bào diệt sạch.
21 Đừng sợ các dân ấy, vì Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế vĩ đại uy nghiêm ở giữa đồng bào.
22 Chúa Hằng Hữu sẽ diệt họ dần dần, không phải ngay tức khắc; nếu không, thú dữ sẽ gia tăng và đe dọa dồng bào.
23 Dù sao, Ngài cũng sẽ tiêu diệt họ hoàn toàn.
24 Ngài sẽ giao vua các nước ấy cho đồng bào, và đồng bào sẽ xóa tên họ khỏi mặt đất. Không một ai cưỡng nổi đồng bào, tất cả đều bị tiêu diệt.
25 Thiêu các tượng thần họ đi. Đừng thấy các tượng ấy làm bằng vàng, bằng bạc mà ham muốn rồi giữ lại. Nếu giữ lại, các tượng ấy sẽ như bẫy cài chờ đón đồng bào, vì Chúa ghê tởm các thần tượng.
26 Không ai được đem một vật ghê tởm vào nhà để hứng lấy họa tiêu diệt. Đồng bào phải tuyệt nhiên ghê tởm tượng thần, vì tượng thần là những vật bị nguyền rủa.
1 Đồng bào phải tôn trọng các luật lệ tôi truyền lại hôm nay để được sống còn, dân số gia tăng và vào chiếm lấy đất Chúa hứa cho các tổ tiên.
2 Nên nhớ rằng trong suốt cuộc hành trình bốn mươi năm nay, Chúa dẫn ta qua nhiều sa mạc mênh mông, để làm cho ta cực nhục, để thử thách ta, dò tận tâm khảm xem ta có vâng lời Ngài hay không.
3 Ngài làm cho đồng bào cực nhục bằng cách để cho đồng bào đói, rồi cho ăn ma-na, một thức ăn đồng bào và các tổ tiên chưa hề biết. Ngài muốn dạy đồng bào rằng người ta sống không chỉ nhờ bánh, nhưng còn nhờ lời của Ngài.
4 Suốt bốn mươi năm, áo quần đồng bào không sờn rách, chân không sưng, không dộp.
5 Vậy, phải nhận thức điều này: Chúa dạy dỗ đồng bào như cha dạy con,
6 để đồng bào thuận phục pháp luật của Ngài, đi theo đường Ngài và kính sợ Ngài.
7 Vì Chúa Hằng Hữu đang dẫn đồng bào vào một vùng đất tốt tươi, với những suối nước, nguồn sông tuôn chảy trên các đồi, các thung lũng.
8,9 Đất mọc đầy lúa mì, lúa mạch, nho, vả, thạch lựu, ô-liu. Đất sản xuất mật ong, thực phẩm dư dật, người người ăn uống no nê, không thiếu thốn gì cả. Đất chứa đầy quặng sắt, và mỏ đồng tìm thấy trên các vùng đồi.
10 Đồng bào sẽ ăn no nê và chúc tụng Chúa, vì Ngài cho mình vùng đất tốt lành.
11 Nhưng phải luôn luôn thận trọng, đừng quên Chúa, đừng bất tuân luật pháp Ngài.
12 Đừng để khi ăn uống no đầy, nhà cao cửa rộng,
13 gia súc đầy đàn, vàng bạc, tài sản gia tăng,
14 đồng bào sinh kiêu căng, quên Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, Đấng đã giải thoát đồng bào ra khỏi ách nô lệ Ai Cập.
15 Đừng quên Chúa, Đấng đã dẫn đồng bào đi xuyên sa mạc kinh khiếp, mênh mông, đầy rắn rết. Khi không nước uống, Ngài đã cho đồng bào nước chảy ra từ vầng đá,
16 Ngài cho ma-na làm lương thực, thứ lương thực trước kia chưa ai biết đến. Ngài muốn dạy dỗ, thử thách đồng bào, trước khi cho hưởng điều tốt lành.
17 Vậy, phải coi chừng, đừng thầm nghĩ: "Nhờ trí khôn và sức mạnh của ta, ta đã tạo dựng cơ nghiệp này."
18 Nhưng phải tưởng nhớ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, Đấng đã cho đồng bào trí khôn, sức mạnh để tạo dựng cơ đồ. (Ngài làm điều này để thực hiện lời hứa với tổ tiên ta.)
19 Tuy nhiên, nếu đồng bào quên Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, chạy theo thờ cúng các thần khác, tôi xin cảnh cáo rằng đồng bào nhất định sẽ bị diệt vong,
20 cũng như các quốc gia kia bị Ngài tiêu diệt để dành chỗ cho đồng bào, vì đồng bào không vâng lời Chúa.
1 Xin đồng bào lắng tai! Đã đến ngày đồng bào vượt sông Giô-đan, sang chiếm đóng những nước lớn và mạnh hơn chúng ta. Đó là những nước có những thành lũy kiên cố, cao ngất,
2 có những giống dân khổng lồ là con cháu của A-na-kim, nổi tiếng vô địch.
3 Tuy nhiên, Chúa sẽ đi trước đồng bào. Như một ngọn lửa thiêu hủy, Ngài sẽ trấn áp, tiêu diệt họ, để đồng bào chinh phục và đuổi họ đi nhanh chóng như Ngài đã hứa.
4 Sau khi Chúa Hằng Hữu đuổi họ đi rồi, đồng bào đừng nghĩ rằng: "Chúa đem ta vào chiếm đất này vì ta là người công chính." Không, chính vì các dân tộc kia quái ác nên Ngài đuổi họ đi đó thôi.
5 Không phải vì sự công chính của đồng bào, mà vì sự gian ác của các dân ấy, nên Ngài đuổi họ ra, cho đồng bào chiếm đất họ, và cũng vì lời Ngài hứa với các tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
6 Đúng thế, không phải Chúa cho đồng bào vùng đất tốt tươi vì đồng bào là người công chính. Không, đồng bào chỉ là những người bướng bỉnh.
7 Đồng bào còn nhớ - đừng bao giờ quên điều này - đồng bào đã cả gan khiêu khích Chúa trong sa mạc; và từ ngày ra khỏi Ai Cập cho đến nay, đồng bào vẫn thường nổi loạn chống Ngài.
8 Lúc ở núi Hô-rếp, khi đồng bào khiêu khích Chúa quá độ, đồng bào suýt bị Ngài tiêu diệt.
9,10 Đó là lúc tôi lên núi để nhận hai bảng đá, trên đó Chúa dùng ngón tay viết những lời Ngài đã nói với toàn thể đồng bào từ trong đám lửa trên núi, đó là giao ước Ngài đã kết với đồng bào. Tôi ở lại trên núi bốn mươi ngày đêm, không ăn không uống.
11 Cuối thời gian bốn mươi ngày đêm ấy, Chúa trao cho tôi hai bảng đá, đó là giao ước vừa kết lập.
12 Chúa bảo tôi: "Con xuống núi nhanh lên, vì đoàn dân con đem từ Ai Cập đến đây đã trở nên đồi bại rồi, họ đã vội vàng từ bỏ chính đạo Ta truyền cho, đúc cho mình một tượng thần."
13 "Ta đã rõ dân này," Ngài tiếp, "họ thật là bướng bỉnh.
14 Để Ta diệt họ, xóa tên họ dưới trời, rồi làm cho con thành ra một dân mạnh hơn, đông hơn họ."
15 Tôi vội xuống núi với hai bảng đá trên tay. Lúc ấy lửa vẫn cháy rực trên núi.
16 Cảnh đồng bào quây quần quanh tượng bò con vừa đúc đập vào mắt tôi. Đồng bào thật đã phạm tội nặng nề cùng Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình; đã vội từ bỏ chính đạo Chúa vừa truyền cho.
17 Thấy thế, tôi ném hai bảng đá vỡ tan trước mắt mọi người.
18 Rồi, trong bốn mươi ngày đêm, tôi sấp mình xuống trước Chúa, không ăn không uống, vì tội đồng bào. Đồng bào đã làm điều Chúa ghê tởm để chọc giận Ngài.
19 Tôi chỉ sợ cơn lôi đình của Chúa nổi dậy tiêu diệt đồng bào. Nhưng Ngài lại nghe lời cầu xin của tôi lần đó nữa.
20 Riêng phần A-rôn, vì ông đã làm cho Ngài giận quá nên sắp bị giết. Tôi cầu thay cho ông và ông cũng được tha.
21 Tôi lấy ôvật tội lỗi," tức là tượng bò con đồng bào đã làm, đem đốt và nghiền ra thật nhỏ như bụi, bỏ vào khe nước từ trên núi chảy xuống.
22 Đồng bào lại còn khiêu khích Chúa tại Tha-bê-ra, tại Ma-sa, và tại Kíp-rốt Ha-tha-va.
23 Tại Ca-đe Ba-nê-a, khi Chúa bảo đồng bào vào chiếm đất hứa, đồng bào cãi lệnh Thượng Đế Hằng Hữu vì không tin Ngài. Đồng bào không chịu vâng lời Ngài.
24 Từ ngày tôi biết đồng bào đến nay, đồng bào vẫn thường xuyên nổi loạn chống Chúa.
25 Vậy, tôi sấp mình xuống trước Chúa suốt bốn mươi ngày đêm, vì lúc ấy Ngài sắp tiêu diệt đồng bào.
26 Tôi thưa: "Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đừng tiêu diệt dân này, là dân thuộc về Chúa. Chúa đã chuộc họ, đem họ ra khỏi Ai Cập bằng một quyền lực cao cả, một sức mạnh phi thường.
27 Xin Chúa nhớ các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, và quên đi sự bướng bỉnh, tội lỗi xấu xa của dân này;
28 nếu không, người Ai Cập sẽ nói: 'Vì Chúa không thể nào đem họ vào đất hứa, và cũng vì Ngài ghét họ, nên mới đem họ vào sa mạc để giết đi.'
29 Họ là dân Ngài, thuộc về Chúa, là dân được Chúa giải thoát khỏi Ai Cập bằng quyền lực cao cả, bằng sức mạnh phi thường của Chúa."
1 Lúc ấy, Chúa bảo tôi đục hai bảng đá như hai bảng đã bị đập vỡ, và làm một cái rương đựng bằng gỗ, rồi lên núi gặp Ngài.
2 Ngài sẽ chép vào hai bảng này những điều đã được viết trên hai bảng cũ, rồi đặt hai bảng này vào rương.
3 Vâng lời Chúa, tôi đóng một cái rương bằng gỗ keo, đục lại hai bảng đá như hai bảng cũ, rồi cầm hai bảng đá lên núi.
4 Chúa lại viết mười điều răn (những điều này đã được Ngài công bố trên núi, từ trong đám lửa trước toàn thể nhân dân hôm ấy) vào hai bảng đá rồi trao cho tôi.
5 Tôi quay xuống núi, đặt hai bảng đá vào chiếc rương đóng sẵn, nay vẫn còn đó, đúng như lời Chúa dạy tôi.
6 Sau đó, người Y-sơ-ra-ên lại ra đi, từ Bê-rốt Bê-nê-gia-can đến Mô-sê-ra. Tại đây, A-rôn qua đời và được an táng. Con A-rôn là Ê-lê-a-sa thay thế chức vụ tế lễ của cha mình.
7 Từ đó, toàn dân đi đến Gút-gô-đa, và từ Gút-gô-đa đến Dốt-ba-tha, là nơi có nhiều suối nước.
8 Lúc ấy, Chúa bắt đầu biệt riêng người Lê-vi vào việc khiêng Rương Giao Ước của Ngài, đứng trước mặt Chúa để hầu việc Ngài, và để nhân Danh Ngài chúc phước, như họ đang làm ngày nay.
9 Vì thế, đại tộc Lê-vi không hưởng một phần đất nào như các đại tộc khác, vì họ có Chúa làm cơ nghiệp, như lời Ngài đã dạy.
10 Trong dịp lên núi lần sau, tôi cũng ở lại bốn mươi ngày đêm như lần trước, và Chúa nghe lời cầu khẩn của tôi, không tuyệt diệt đồng bào.
11 Chúa bảo tôi: "Con đứng lên đi trước toàn dân, cho đến khi họ tới vùng đất Ta hứa với tổ tiên họ."
12,13 Đồng bào ơi, điều Chúa đòi hỏi đồng bào là hết lòng, hết linh hồn kính sợ, yêu mến, phụng sự Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, và tuân hành tất cả điều răn luật lệ của Ngài. Những điều luật tôi truyền lại cho đồng bào hôm nay là vì lợi ích của chính đồng bào đó.
14 Tất cả vũ trụ trời đất đều thuộc về Chúa Hằng Hữu,
15 thế mà Ngài đem lòng yêu thương tổ tiên đồng bào, và nhân đó, chọn đồng bào trong muôn dân, như đồng bào thấy ngày nay.
16 Vậy, hãy tẩy sạch lòng mình đi. Đừng ngoan cố nữa.
17 Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của đồng bào, là Thần của các thần, Chúa của các chúa, là Thượng Đế vĩ đại, có quyền lực uy nghi đáng sợ. Ngài không thiên vị, không nhận hối lộ.
18 Ngài thực thi công lý cho người mồ côi, góa bụa. Ngài yêu thương kẻ tha hương, cho họ cơm ăn áo mặc.
19 Đồng bào cũng phải thương người tha hương ngoại kiều, vì chính đồng bào đã từng kiều ngụ ở Ai Cập trước kia.
20 Phải kính sợ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, phụng sự Ngài, khắng khít với Ngài, và chỉ thề nguyện bằng Danh Ngài.
21 Ngài là Đối Tượng tôn vinh ca ngợi, là Chân Thần của đồng bào. Ngài đã làm những việc vĩ đại phi thường, chính mắt đồng bào đã chứng kiến.
22 Ngày ấy, khi tổ tiên ta xuống Ai Cập, gia đình vỏn vẹn có bảy mươi người; thế mà ngày nay, Chúa đã làm cho đồng bào đông như sao trên các tầng trời.
1 Đồng bào phải kính yêu Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, tuân hành mọi điều răn, luật lệ, chỉ thị của Ngài.
2,3 Hôm nay tôi không nói với con cái đồng bào, vì chúng nó chưa biết, chưa thấy sự vĩ đại, quyền lực siêu nhiên của Chúa, không thấy những phép lạ Ngài làm ở Ai Cập để trừng phạt Pha-ra-ôn và toàn lãnh thổ vua này,
4 những việc Ngài làm cho quân đội, kỵ binh và chiến xa Ai Cập (khi họ đuổi theo Y-sơ-ra-ên, Ngài xua nước Biển Đỏ vùi lấp, tiêu diệt họ),
5 những việc Ngài làm cho đồng bào, từ lúc còn đi trong sa mạc cho đến khi vào tận nơi này,
6 việc Ngài làm cho Đa-than và A-bi-ram -con Ê-li-áp, cháu Ru-bên - khi họ đang ở giữa toàn dân, đất đã nứt ra nuốt sống họ cùng với mọi người trong gia đình họ, lều trại và súc vật của họ).
7 Những việc phi thường Chúa làm đó, đồng bào đã chứng kiến tận mắt rồi.
8,9 Vì thế, đồng bào phải vâng giữ mọi mệnh lệnh của Ngài tôi truyền lại hôm nay, để có đủ sức đi chiếm đất bên kia sông, và được sống lâu dài trên đất phì nhiêu tốt đẹp mà Chúa hứa cho các tổ tiên, và cho đồng bào là hàng con cháu.
10 Vì đất đồng bào sẽ chiếm cứ không giống như đất Ai Cập, nơi đồng bào sống trước kia. ễ Ai Cập, khi gieo giống, người ta phải đạp nước và săn sóc như chăm bón vườn rau vậy.
11 Nhưng đằng này, đất đồng bào sắp hưởng gồm những đồi cao và thung lũng, là xứ có nhiều mưa,
12 là nơi được Chúa chăm sóc, trông nom quanh năm suốt tháng.
13 Và, nếu đồng bào hết lòng, hết linh hồn tuân theo mọi mệnh lệnh của Chúa mà tôi truyền lại cho đồng bào hôm nay, hết lòng yêu mến và phụng sự Ngài,
14 thì Ngài sẽ cho mưa thuận gió hòa, và đồng bào sẽ thu hoạch ngũ cốc, rượu, dầu, đầy vựa lẫm.
15 Ngài cũng làm cho đồng cỏ tốt tươi để nuôi bầy gia súc của đồng bào. Như vậy, đồng bào sẽ thật no đủ.
16 Nhưng phải thận trọng, không được thay lòng đổi dạ, bỏ Chúa, đi thờ các thần khác.
17 Nếu thế, cơn thịnh nộ của Ngài sẽ nổi lên, Ngài sẽ đóng trời lại, trời sẽ không mưa, đất không sản xuất, và đồng bào sẽ chết đi nhanh chóng trên đất lành Ngài vừa cho.
18 Vậy, phải ghi những mệnh lệnh này vào lòng dạ, khắc vào thẻ bài đeo nơi tay và đeo trước mắt.
19 Đem những mệnh lệnh này dạy cho con cái mình am tường. Luôn luôn nhắc nhở đến những mệnh lệnh này, dù lúc ngồi trong nhà, lúc đi đường, khi ngủ cũng như khi thức.
20 Ghi những mệnh lệnh ấy lên cửa và trên cổng nhà.
21 Như vậy, ngày nào đất còn ở dưới trời, đồng bào và con cháu mình sẽ được trường thọ, vui hưởng xứ tốt đẹp Chúa hứa cho.
22 Nếu đồng bào thận trọng tuân hành các mệnh lệnh này, kính yêu Chúa, đi theo đường lối Ngài, khắng khít với Ngài,
23 thì Ngài sẽ đuổi hết dân các nước kia đi, cho đồng bào chiếm hữu lãnh thổ của những quốc gia lớn và mạnh hơn Y-sơ-ra-ên.
24 Nơi nào đồng bào đặt chân đến sẽ thuộc về đồng bào, biên giới của lãnh thổ Y-sơ-ra-ên sẽ chạy từ sa mạc cho đến Li-ban, từ sông cái Phát-giang cho đến Biển Tây.
25 Không ai chống nổi đồng bào, vì Chúa Hằng Hữu gieo rắc sự khủng khiếp, hãi hùng vào lòng dân ở tất cả những vùng đất đồng bào đặt chân đến, như Ngài đã hứa.
26 Hôm nay tôi để đồng bào chọn lựa giữa phước lành và nguyền rủa:
27 Nếu đồng bào tuân lệnh Chúa Hằng Hữu, thi hành luật lệ tôi truyền hôm nay, thì đồng bào sẽ hưởng phước lành.
28 Nhưng nếu đồng bào không tuân lệnh Chúa Hằng Hữu, lại đi phụng thờ các thần lạ, thì đồng bào sẽ bị nguyền rủa.
29 Khi Chúa Hằng Hữu đem đồng bào vào chiếm cứ đất hứa, đồng bào sẽ đặt lời chúc phước lành trên núi Ga-ri-xim, và lời nguyền rủa trên núi Ê-banh.
30 Hai núi này ở bên kia sông Giô-đan, về phía tây của con đường cái, nơi có người Ca-na-an ở, trong đồng bằng đối diện Ghinh-ganh, gần rặng cây sồi của Mô-rê.
31 Đồng bào sắp qua sông Giô-đan, lập nghiệp trong đất hứa,
32 nhưng phải luôn luôn nhớ tuân hành mọi điều răn, luật lệ tôi truyền hôm nay.
1 Đây là các luật lệ, mệnh lệnh áp dụng vĩnh viễn trong lãnh thổ Chúa Hằng Hữu - Thượng Đế của các tổ tiên - cho đồng bào chiếm hữu:
2 Phải phá hủy tất cả những nơi thờ cúng của các dân bản xứ đang sống trong lãnh thổ đồng bào sắp chiếm hữu, dù là trên núi cao, trên các đồi hay dưới cây xanh.
3 Phải đập phá các bàn thờ, nghiền nát các trụ thờ, đốt sạch các lùm cây, hạ các tượng thần chạm trổ tỉ mỉ. Như vậy, danh tính của các thần ấy bị xóa bỏ khỏi các nơi đó.
4,5 Chỉ được dâng lễ vật cho Chúa Hằng Hữu tại Đền Thờ của Ngài, là nơi duy nhất Ngài sẽ chọn trong lãnh thổ của một đại tộc. Không được thờ cúng khắp nơi như các dân tộc kia.
6 Phải đến Đền Thờ để dâng các lễ thiêu, các sinh tế, một phần mười hiến dâng, lễ vật dâng theo lối nâng tay dâng lên, lễ vật thề nguyện, lễ vật tình nguyện, cừu và bò sinh đầu lòng.
7 Tại đó, mọi người sẽ cùng gia quyến mình ăn trước mặt Chúa, lòng hân hoan vì Ngài cho công việc mình được tấn phát, thịnh vượng.
8,9 Ngày nay, ai nấy đều làm những việc mình cho là phải; nhưng khi vào đất hứa rồi, đồng bào không được hành động như vậy nữa.
10 Khi đã sang sông Giô-đan, vào sống trong đất Chúa cho, được nghỉ ngơi, được an ninh vì không còn tranh chiến với quân thù nữa,
11 đồng bào phải đến Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu - nơi Chúa chọn cho Danh Ngài - để dâng các lễ thiêu, các sinh tế, một phần mười, lễ vật nâng tay dâng lên, lễ vật thề nguyện.
12 Vợ chồng, con cái, tôi tớ, mọi người sẽ hân hoan trước mặt Chúa Hằng Hữu; cả người Lê-vi ở chung trong thành với đồng bào sẽ cùng dự, vì họ sẽ không có một phần đất riêng như các đại tộc khác.
13 Vậy, đồng bào sẽ không được dâng lễ thiêu bất cứ nơi nào khác,
14 nhưng chỉ dâng tại nơi Chúa chọn. Nơi này sẽ ở trong lãnh thổ của một đại tộc, và chính tại nơi ấy đồng bào sẽ làm theo mọi điều tôi sắp truyền đây.
15 Tuy nhiên, đối với thú vật làm thịt để ăn, đồng bào có thể giết bất cứ nơi nào như đồng bào giết hươu, giết nai ngày nay vậy. Đồng bào có thể ăn thịt tùy thích, vì Chúa cho đồng bào không thiếu gì. Cả người không tinh sạch cũng được phép ăn.
16 Nhưng phải nhớ không được ăn huyết. Phải đổ huyết xuống đất như đổ nước vậy.
17 Còn đối với các lễ vật đem dâng lên, đồng bào không được ăn ở nhà, dù đó là một phần mười của ngũ cốc, rượu, dầu; hay cừu, bò sinh đầu lòng; hay lễ vật thề nguyện, tình nguyện, hay bất cứ một lễ vật nào khác.
18 Đồng bào chỉ được ăn các lễ vật này trước mặt Chúa, tại nơi Ngài sẽ chọn, chung với con cái, tôi tớ mình và người Lê-vi ở trong thành. Mọi người đều hân hoan trước mặt Chúa Hằng Hữu vì kết quả của công việc mình.
19 Nhớ không được bỏ quên người Lê-vi.
20 Khi Chúa Hằng Hữu mở mang bờ cõi lãnh thổ Y-sơ-ra-ên như Ngài đã hứa, đồng bào sẽ tha hồ ăn thịt theo sở thích.
21,22 Và nếu nơi Chúa chọn làm Đền Thờ xa quá, đồng bào được phép giết bò, cừu để ăn tại nhà, cũng như ngày nay đồng bào giết hươu, giết nai để ăn thịt. Người không tinh sạch cũng được phép ăn.
23 Tuy nhiên, tuyệt đối không được ăn huyết, vì huyết là sự sống của sinh vật, và không ai được ăn sự sống của sinh vật chung với thịt của nó.
24,25 Phải đổ huyết xuống đất như đổ nước vậy, đừng ăn. Kiêng cữ huyết là một điều chính đáng dưới mắt Chúa, và nhờ vậy đồng bào và con cháu mình sẽ được may mắn.
26,27 Riêng các sinh vật đem dâng lên cũng như các lễ vật thề nguyện và sinh lễ thiêu, phải đem đến Đền Thờ và dâng trên bàn thờ của Chúa Hằng Hữu. Huyết của các sinh vật này sẽ được đổ trên bàn thờ; còn thịt đồng bào được ăn.
28 Phải thận trọng thi hành mọi điều tôi truyền cho đồng bào đây. Nếu đồng bào hành động chính đáng dưới mắt Chúa, đồng bào và con cháu mình sẽ được thịnh vượng mãi mãi.
29 Khi Chúa Hằng Hữu đã diệt các dân tộc kia, cho đồng bào chiếm đất rồi,
30 phải coi chừng, không được bắt chước các dân tộc ấy. Đừng hỏi: "Các dân này thờ thần như thế nào?" để rồi làm theo họ.
31 Không được thờ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, như cách các dân tộc ấy thờ thần của họ, vì họ làm tất cả những điều Chúa ghê tởm, như thiêu sống con trai con gái mình để tế thần.
32 Phải thận trọng tuân giữ các điều này đúng như tôi truyền lại, không được thêm bớt gì cả.
1 Nếu trong dân có người đứng ra nói tiên tri hay có người nằm mơ đoán mộng, báo trước một điềm lạ,
2 và nếu khi điềm ứng rồi, người này bảo: "Đi thờ các thần này," là những thần đồng bào chưa biết,
3 thì đồng bào không được nghe lời người ấy, vì Chúa muốn thử xem đồng bào có yêu kính Ngài hết lòng không.
4 Đồng bào chỉ được thờ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, mà thôi; luôn luôn kính sợ, vâng lời, khắng khít với Ngài.
5 Còn người tiên tri, người nằm mơ đoán mộng kia phải bị xử tử, vì đã dạy bảo đồng bào bỏ Chúa Hằng Hữu, Đấng đã giải thoát đồng bào khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vậy, đồng bào phải diệt trừ kẻ ác trong dân.
6 Nếu có một người thân - dù là anh em ruột, con trai, con gái, vợ yêu quí hay bạn chí thân - thầm dụ đồng bào đi thờ thần lạ,
7 thần của các nước lân bang hay của các nước xa xôi,
8 đồng bào không được nghe lời người ấy, cũng không được thương tình che chở.
9,10 Phải giết đi! Phải ra tay ném đá người ấy trước tiên, rồi nhân dân sẽ tiếp tay sau. Phải lấy đá ném vào người ấy cho chết đi, vì tội toan ly gián đồng bào với Chúa Hằng Hữu, Đấng đã giải thoát đồng bào khỏi ách nô lệ Ai Cập.
11 Như thế, khi ai nấy trong nước nghe tin này đều phải khiếp sợ, không dám phạm tội ác này nữa.
12,13 Nếu có tin đồn về một thành nào đó trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên có những người gian ác, dụ dỗ dân trong thành đi thờ thần lạ,
14 đồng bào phải điều tra thật kỹ lưỡng. Nếu đúng là cả thành đều phạm tội kinh khủng ấy,
15 thì phải dùng kiếm giết sạch dân trong thành, luôn cả thú vật của họ.
16 Xong rồi, phải thu góp tất cả đồ đạc của họ chất giữa phố chợ, đốt đi. Đồng thời cũng phóng hỏa toàn thành, tất cả sẽ như một lễ thiêu cho Chúa. Thành này sẽ vĩnh viễn là một đống tro tàn, không ai được phép xây cất lại.
17,18 Không ai được lấy một vật gì trong thành ấy, nhưng phải vâng lời Chúa, tuân hành mọi luật lệ tôi truyền hôm nay, làm điều phải dưới mắt Thượng Đế. Như thế, Ngài mới thương tình, thi ân cho đồng bào được gia tăng dân số, như Ngài đã hứa với các tổ tiên.
1 Đồng bào là con dân của Chúa Hằng Hữu, nên không được cắt da thịt mình hay cạo tóc trước đỉnh đầu trong dịp tang chế.
2 Vì người Y-sơ-ra-ên đã hiến dâng mình cho Chúa, và Ngài đã chọn Y-sơ-ra-ên trong toàn thể các dân tộc trên hoàn cầu cho mình.
3 Không được ăn thịt thú vật ô uế.
4,5 Chỉ được ăn các loại thú vật sau đây: bò, cừu, dê, nai, hoàng dương, hươu, dê rừng, bò rừng, sơn dương và cừu núi.
6 Đồng bào được ăn thịt con vật nào có móng chẻ hai và nhai lại; tuy nhiên, không được ăn thịt lạc đà, thỏ rừng, chồn núi, vì các loại này nhai lại nhưng không có móng chẻ hai.
8 Con heo tuy có móng chẻ hai nhưng không nhai lại, nên đồng bào không được ăn thịt nó, cũng đừng đụng đến xác chết của loài này.
9 Trong các sinh vật sống dưới nước, đồng bào chỉ được ăn loài nào có vi, có vảy;
10 loài nào không vi, không vảy là không sạch, không được ăn.
11,12 Đồng bào được ăn các loài chim, trừ ra phượng hoàng, kên kên, ó biển,
13 chim điêu, các loại chim ưng,
14 các loại quạ,
15 đà điểu, ó đêm, hải âu, các loại ó,
16 các loại chim cú, gà nước,
17 chàng bè, diều hâu, còng cọc,
18 các loại cò, diệc, chim rẽ quạt và con dơi.
19,20 Ngoài ra, đồng bào cũng không được ăn các loại côn trùng có cánh.
21 Đừng ăn một sinh vật chết tự nhiên, vì đồng bào đã hiến dâng mình cho Chúa. Tuy nhiên, đồng bào có thể đem con vật ấy bán hoặc cho người ngoại kiều. Đừng nấu thịt dê con chung với sữa của mẹ nó.
22 Phải nhớ dâng một phần mười mùa màng thu hoạch hằng năm.
23 Tại nơi Chúa Hằng Hữu sẽ chọn để làm Đền Thờ, đồng bào sẽ ăn phần mười mình đem dâng trước mặt Ngài. Đó là lễ vật phần mười của ngũ cốc, rượu, dầu, và các con sinh đầu lòng trong bầy gia súc. Đây là cách đồng bào học kính sợ Chúa suốt đời.
24 Nếu nơi Chúa chọn làm Đền Thờ xa quá, không tiện đem theo lễ vật một phần mười,
25 đồng bào có thể đem bán các lễ vật ấy, rồi lấy tiền đem lên Đền Thờ.
26 Đến nơi, đồng bào sẽ dùng tiền ấy mua bò, cừu, rượu nho, rượu mạnh, tùy sở thích, rồi ăn uống hân hoan trước mặt Chúa cùng với cả gia đình mình.
27 Tuy nhiên, đừng quên người Lê-vi, nhớ mời họ dự chung với mình, vì họ không có đất đai mùa màng như đồng bào.
28 Cuối mỗi ba năm, tại mỗi địa phương, đồng bào phải đem một phần mười mùa màng thu được năm ấy vào thành, góp chung lại.
29 Những người Lê-vi (vì không có tài sản), người ngoại kiều, mồ côi, quả phụ sống trong địa phương này sẽ đến, ăn uống thỏa mãn. Như vậy, đồng bào sẽ được Chúa ban phước lành, mọi việc mình làm sẽ được thịnh vượng.
1 Cuối mỗi bảy năm là thời kỳ giải trừ nợ nần.
2 Các chủ nợ sẽ hủy bỏ mọi món nợ đã cho anh em đồng bào mình vay mượn, không được đòi nữa, vì thời kỳ giải nợ được công bố theo lệnh Chúa.
3 Việc giải nợ này chỉ áp dụng giữa người Y-sơ-ra-ên với nhau, không áp dụng cho ngoại kiều. 4-6 Tuy nhiên, nếu đồng bào vâng lời Chúa, tuân hành các luật lệ tôi truyền hôm nay, thì sẽ không có một người Y-sơ-ra-ên nào nghèo khổ. Vì Chúa sẽ ban phước lành dồi dào cho đồng bào trong đất hứa như Ngài đã nói. Y-sơ-ra-ên sẽ cho các nước khác vay chứ không cần vay mượn ai, sẽ cai trị các nước khác chứ không phải bị trị.
7,8 Nếu trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên có người nghèo, thì đồng bào không được keo kiệt nhưng phải rộng lòng, cho họ mượn rộng rãi để họ thỏa mãn mọi nhu cầu. 9 Phải cảnh giác, đừng để tư tưởng đê tiện xúi giục mình nghĩ rằng thời kỳ giải nợ sắp đến, rồi lờ anh em mình đi, không cho mượn gì cả. Nếu người nghèo kêu đến Chúa, đồng bào phải chịu tội. 10 Phải sẵn lòng cho mượn, đừng vừa cho vừa thầm tiếc, như thế mới được Chúa ban phước lành, và mọi công việc của đồng bào mới được thịnh vượng. 11 Thế nào trong nước cũng có người nghèo nên tôi mới bảo đồng bào phải rộng lòng cho mượn.
12 Nếu đồng bào mua một người Hi-bá-lai khác - dù đàn ông hay đàn bà - làm nô lệ, đến năm thứ bảy, người ấy phải được phóng thích. 13 Nhưng không được để người ấy ra đi với hai bàn tay trắng. 14 Phải cho người ấy gia súc, dầu, rượu dồi dào, tùy theo số lượng lợi tức Chúa đã cho đồng bào. 15 Phải nhớ rằng đồng bào đã làm nô lệ trong nước Ai Cập, và đã được Chúa giải cứu. Vì vậy tôi mới truyền cho đồng bào lệnh này. 16 Trong trường hợp người nô lệ không muốn đi vì có lòng mến gia đình chủ, vì không khí hòa thuận, 17 đồng bào là chủ, phải lấy một cái dùi, kê tai người ấy vào cửa mà xỏ, và như thế người ấy sẽ làm nô lệ trọn đời. Thể thức này cũng áp dụng cho nữ nô lệ.
18 Trường hợp người nô lệ ra đi, đừng buồn tiếc. Vì trong sáu năm người ấy phục dịch, đồng bào chỉ tốn chừng phân nửa số tiền dùng để mướn một người làm công. Và như vậy, Chúa còn ban phước lành cho mọi công việc của đồng bào nữa.
19 Trong bầy gia súc, phải dành riêng các con đực đầu lòng ra cho Chúa. Đừng bắt bò đực đầu lòng làm việc, cũng đừng cắt lông cừu đực đầu lòng. 20 Nhưng đồng bào và gia đình mình sẽ ăn thịt các con vật ấy hàng năm tại Đền Thờ, trước mặt Chúa. 21 Nếu con vật đầu lòng này bị què, mù, hoặc có tật nguyền gì khác, thì không được dâng nó cho Chúa; 22 nhưng để nó ở nhà làm thịt mà ăn, cả người không tinh sạch cũng được ăn, như trường hợp người ta ăn thịt nai, thịt mang vậy. 23 Tuy nhiên, phải nhớ không được ăn huyết, phải đổ huyết xuống đất như đổ nước.
1 Phải cử hành lễ Vượt Qua trong tháng A-bíp, vì chính vào tháng này, Chúa Hằng Hữu đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập trong ban đêm.
2 Bắt bò hoặc cừu đem dâng cho Chúa trong lễ này tại nơi Ngài sẽ chọn làm Đền Thờ.
3 Đồng bào sẽ ăn bánh không men với thịt bò hoặc cừu trong bảy ngày. Ăn bánh không men sẽ nhắc nhở đồng bào luôn luôn nhớ đến bánh ăn lúc ra khỏi Ai Cập một cách vội vàng.
4 Không ai được giữ men trong nhà suốt bảy ngày này, và phải ăn hết thịt của sinh tế Vượt Qua trong ngày thứ nhất, không được để qua đêm.
5,6 Phải dâng sinh tế Vượt Qua tại nơi Chúa sẽ chọn làm Đền Thờ (chứ không được dâng bất kỳ nơi nào), vào lúc đêm xuống, vào giờ Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập.
7 Đồng bào sẽ nấu thịt con sinh tế để ăn tại đó, và đến sáng hôm sau đồng bào có thể trở về nhà.
8 Nhưng trong sáu ngày kế tiếp, phải ăn bánh không men. Đến ngày thứ bảy, sẽ có một cuộc hội họp long trọng trước mặt Chúa Hằng Hữu. Không ai được làm việc trong ngày ấy.
9 Tính bảy tuần kể từ ngày bắt đầu mùa gặt,
10 đồng bào sẽ ăn mừng lễ Các Tuần trước Chúa. Lễ vật đem dâng trong dịp này là lễ vật tình nguyện, dâng nhiều ít tùy theo mùa màng Chúa cho.
11 Đồng bào sẽ cùng gia đình, tôi tớ hân hoan trước Chúa Hằng Hữu, tại nơi Ngài sẽ chọn làm Đền Thờ. Đừng quên người Lê-vi, ngoại kiều, mồ côi, quả phụ trong địa phương mình. Nhớ mời họ chung dự.
12 Đừng quên rằng đồng bào đã từng làm nô lệ tại Ai Cập, vậy phải triệt để tuân hành lệnh này.
13 Sau ngày lúa đã đập, nho đã ép xong, đồng bào sẽ ăn mừng lễ Lều Tạm trong bảy ngày.
14 Đồng bào cùng với cả gia đình, tôi tớ mình, và người Lê-vi, ngoại kiều, mồ côi, quả phụ trong địa phương mình hân hoan dự lễ.
15 Lễ này sẽ kéo dài bảy ngày tại nơi Chúa sẽ chọn làm Đền Thờ, mọi người cùng nhau vui mừng vì Chúa ban phước lành, cho được mùa và cho mọi công việc đồng bào làm đều thịnh vượng.
16 Vậy, mỗi năm ba lần, tất cả nam đinh sẽ ra mắt Chúa Hằng Hữu tại Đền Thờ vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Các Tuần và lễ Lều Tạm. Họ sẽ đem lễ vật đến dâng cho Ngài.
17 Mỗi người sẽ dâng tùy theo khả năng, tương xứng với số lượng lợi tức Chúa cho mình.
18 Trong các thành Chúa Hằng Hữu sẽ cho các đại tộc Y-sơ-ra-ên, đồng bào sẽ bổ nhiệm các thẩm phán, các chức quyền hành chánh để điều hành công lý trong dân.
19 Không được bóp méo công lý. Không được thiên vị. Không được ăn hối lộ, vì của hối lộ làm mờ mắt người khôn, do đó lý lẽ của người ngay có thể bị bác bỏ.
20 Phải tuyệt đối tôn trọng công lý, đó là bí quyết sinh tồn trong đất hứa.
21 Không được dựng một tượng thần nào bên cạnh bàn thờ của Chúa.
22 Cũng không được lập một trụ thờ nào ở đó, vì đó là điều ghê tởm đối với Chúa.
1 Không được dâng cho Chúa Hằng Hữu một con bò hay một con cừu tật nguyền, vì đó là một điều ghê tởm đối với Chúa.
2,3 Nếu có ai trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên vi phạm giao ước của Chúa, phạm các trọng tội như thờ phụng các thần khác, thờ mặt trời, mặt trăng hay ngôi sao (những điều này tôi đã nghiêm cấm);
4 thì đồng bào phải thận trọng điều tra khi nghe được tin này, và nếu thấy đúng như thế,
5 thì phải điệu tội nhân - dù đàn ông hay đàn bà - ra ngoài cổng thành, lấy đá ném cho chết đi.
6 Tuy nhiên, ít nhất phải có hai hoặc ba nhân chứng buộc tội mới có thể xử tử phạm nhân. Chỉ một nhân chứng không đủ.
7 Các nhân chứng phải lấy đá ném vào phạm nhân trước tiên, rồi nhân dân sẽ tiếp tay. Như vậy, đồng bào diệt trừ kẻ ác trong dân.
8 Nếu gặp trường hợp khó xử liên hệ đến một vụ sát nhân, một vụ vi phạm quyền luật định, một vụ bạo hành v.v., thì thẩm phán thụ lý phải lên Đền Thờ
9 tìm gặp các thầy tế lễ, người Lê-vi và vị thẩm phán tối cao đương nhiệm, trình bày nội vụ cho họ. Họ sẽ quyết định đường lối xét xử.
10,11 Thẩm phán thụ lý sẽ trở về, thận trọng phân xử, tuyệt đối vâng theo mọi chỉ thị đã nhận được ở Đền Thờ, không được thay đổi gì cả.
12 Nếu thẩm phán thụ lý tự phụ, không vâng theo chỉ thị của vị thẩm phán tối cao và thầy tế lễ hầu việc Chúa tại Đền Thờ, thì ông phải bị xử tử. Như vậy, người ác trong Y-sơ-ra-ên sẽ bị diệt trừ.
13 Toàn dân nghe tin này sẽ kinh sợ, và từ đó không ai còn dám tự phụ nữa.
14 Khi an cư lạc nghiệp trong đất hứa rồi, nếu đồng bào nghĩ đến việc lập một vị vua lên trị nước, vì thấy các nước láng giềng đều có vua,
15 đồng bào nên nhớ lập người được Chúa chọn lựa. Người này đương nhiên sẽ là người Y-sơ-ra-ên chứ không phải người ngoại quốc.
16 Vua Y-sơ-ra-ên không được chú tâm vào việc gầy dựng cho mình một đàn ngựa đông đảo, để rồi vua ấy sẽ đem dân về Ai Cập chính vì mục đích này. Đồng bào đừng quên lời Chúa: "Các ngươi sẽ không trở lại Ai Cập nữa."
17 Vua cũng không được kén nhiều cung phi để lòng bị quyến dụ; cũng không được gom góp cho mình nhiều vàng bạc.
18 Vừa lên ngôi, vua phải sao chép cho mình bộ luật này từ bản chính, là bản do thầy tế lễ người Lê-vi giữ.
19 Vua phải luôn luôn giữ bản sao ấy bên mình, ngày đêm nghiền ngẫm để được giáo huấn trong sự kính sợ Chúa Hằng Hữu, tuân theo mọi điều răn luật lệ của Ngài.
20 Nhờ đó, vua mới khỏi kiêu căng, coi rẻ đồng bào; đồng thời cũng tránh khỏi sự quên lãng luật pháp của Chúa. Được vậy, vua và con cháu vua này sẽ trị vì Y-sơ-ra-ên lâu dài.
1 Vì các thầy tế lễ và toàn thể đại tộc Lê-vi không có một phần đất như các đại tộc khác của Y-sơ-ra-ên, họ sẽ sinh sống bằng các lễ vật người ta đem dâng cho Chúa, kể cả lễ vật thiêu trên bàn thờ.
2 Họ không có tài sản như các anh em mình, nhưng Chúa là sản nghiệp của họ như Ngài đã hứa.
3 Khi người ta đem dâng một con bò hay một con cừu, phần của thầy tế lễ sẽ gồm có cái vai, hai cái má và cái bụng.
4 Ngoài ra, thầy tế lễ còn nhận được các lễ vật đầu mùa gồm ngũ cốc, rượu, dầu và lông cừu,
5 vì Chúa Hằng Hữu đã chọn họ trong số các đại tộc Y-sơ-ra-ên để đứng hầu việc Ngài mãi mãi, hết thế hệ này đến thế hệ khác.
6,7 Một người Lê-vi, dù đang sống tại bất kỳ một nơi nào trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, luôn luôn được phép lên Đền Thờ để hầu việc Chúa, như tất cả những người Lê-vi khác đang có chức vụ hầu việc Ngài tại đó.
8 Người này sẽ được chia phần đồng đều với anh em mình ở Đền Thờ, dù người ấy có lợi tức riêng ở nhà.
9 Khi vào đến đất hứa, đồng bào không được bắt chước những hành động đáng tởm của các dân bản xứ đang sống tại đó.
10 Tuyệt đối không ai được thiêu sống con mình để tế thần, không ai được làm nghề thầy bói, giải điềm, phù thủy,
11 bỏ bùa mê, đồng cốt, thầy pháp, thầy chiêu hồn.
12 Ai làm những việc này đều bị Chúa ghê tởm. Chính vì thế mà Ngài đuổi những dân tộc kia đi.
13 Trước mặt Chúa, đồng bào phải là người hoàn hảo.
14 Các dân tộc kia bói toán đủ điều, nhưng Chúa không cho phép đồng bào làm những điều đó.
15 Nhưng, Chúa sẽ chọn một người trong đồng bào, đưa lên làm tiên tri cũng như tôi, và đồng bào phải nghe lời người đó.
16 Đây chính là điều đồng bào thỉnh cầu Chúa trong lúc hội họp tại núi Hô-rếp. Vì sợ chết, nên đồng bào xin đừng cho mình nghe tiếng của Chúa, đừng cho mình thấy lửa cháy hừng hực nữa.
17 Lúc ấy, Chúa bảo tôi: "Họ đã xin một điều hợp lý.
18 Ta sẽ chọn một người trong Y-sơ-ra-ên, đưa lên làm tiên tri như con. Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, người ấy sẽ nói cho dân nghe những lời Ta dạy.
19 Khi người ấy nhân Danh Ta nói điều gì, ai không vâng lời sẽ bị Ta trừng trị.
20 Nhưng nếu một tiên tri nhân Danh Ta nói điều gì Ta không bảo nói, hay nhân danh các thần khác để nói tiên tri, người ấy phải chết."
21 Nếu đồng bào thắc mắc: "Làm sao biết được lời nào của tiên tri nói không phải là lời của Chúa?"
22 Thì đây, khi một tiên tri nhân Danh Chúa nói điều gì, nếu việc không xảy ra đúng như thế, lời tiên tri ấy dĩ nhiên không phải do Chúa bảo nói, nhưng tiên tri chỉ nói vì tự phụ. Đừng sợ người ấy.
1 Khi Chúa Hằng Hữu tiêu diệt các dân tộc kia để cho đồng bào chiếm cứ đất đai của họ, và khi đồng bào vào ở trong các thành phố, nhà cửa của họ rồi,
2,3 đồng bào phải nhớ dành riêng ba thành cho những người ngộ sát trú ẩn. Chia toàn lãnh thổ ra làm ba phần và giữa mỗi phần sẽ có một thành trú ẩn. Phải đắp đường dẫn đến các thành ấy.
4 Các thành này dùng để bảo vệ những ai vô ý giết người, chứ không vì thù ghét. Chạy vào đó, người ấy được sống còn.
5 Thí dụ trường hợp một người vào rừng đốn củi với một người láng giềng. Khi người này vung rìu đốn cây, chẳng may lưỡi rìu tuột khỏi cán văng trúng người láng giềng gây thiệt mạng. Người này có thể chạy vào một thành trú ẩn để bảo tồn mạng mình.
6,7 Ba thành trú ẩn phải được phân phối ra ba nơi cách nhau; nếu không, khi có người nổi giận đuổi theo để báo thù, vì đường xa nên đuổi kịp và giết người kia đi, mặc dù người ấy không đáng chết (chỉ vì rủi ro giết người chứ không do thù oán).
8,9 Trường hợp Chúa Hằng Hữu mở rộng bờ cõi lãnh thổ, cho đồng bào tất cả đất đai Ngài hứa cho các tổ tiên, đồng bào sẽ lập thêm ba thành trú ẩn nữa. Việc mở rộng bờ cõi tùy thuộc vào việc đồng bào có yêu kính Chúa, đi theo đường lối Ngài dạy, tuân hành các điều răn luật lệ của Ngài - những điều tôi truyền lại cho đồng bào hôm nay - hay không.
10 Nếu không, máu vô tội sẽ đổ trên đất Chúa cho đồng bào chiếm hữu, và đồng bào phải chịu trách nhiệm các trường hợp đổ máu vô tội ấy.
11 Trong trường hợp có người thù ghét người khác, rình rập, giết nạn nhân chết đi, rồi chạy vào một thành trú ẩn,
12 thì các trưởng lão nơi nguyên quán của kẻ sát nhân sẽ sai người đi bắt người này về, giao cho người báo thù để giết đi.
13 Đừng thương hại, nhưng phải trừ những kẻ giết người vô tội đi. Như vậy đồng bào mới được may mắn.
14 Khi ai nấy đã nhận được phần đất Chúa cho mình rồi, tuyệt đối không người nào được lấn đất bằng cách di chuyển mộc giới đã được trồng.
15 Một nhân chứng không đủ để buộc tội. Phải có ít nhất hai hoặc ba nhân chứng.
16 Nếu có một người làm chứng gian đứng ra buộc tội một người khác,
17 cả bị cáo và nguyên cáo phải đến trước các thầy tế lễ và các thẩm phán đương nhiệm, là những người thi hành nhiệm vụ trước mặt Chúa.
18 Các thẩm phán phải điều tra kỹ lưỡng. Nếu xét thấy nhân chứng gian dối vu cáo người khác,
19 nhân chứng ấy phải chịu hình phạt đúng như hình phạt nhân chứng định gán cho người. Như vậy kẻ gian ác bị loại trừ khỏi cộng đồng nhân dân.
20 Khi nghe vụ này, sẽ không còn ai dám làm chứng gian nữa.
21 Đừng thương hại, vì mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.
1 Khi đồng bào ra chinh chiến với quân thù, nếu thấy nhiều ngựa, nhiều xe, và thấy địch quân đông hơn mình thì đừng sợ. Vì Chúa Hằng Hữu, Đấng đã đem đồng bào ra khỏi Ai Cập, luôn luôn ở với đồng bào.
2 Khi sắp xông trận, thầy tế lễ sẽ ra đứng trước đồng bào, kêu gọi:
3 "Đồng bào Y-sơ-ra-ên, xin lắng tai nghe tôi. Hôm nay quân ta ra trận chống quân thù. Đừng ai lo sợ gì cả,
4 vì ta có Chúa Hằng Hữu đi cùng. Ngài chiến đấu thay ta và đem lại chiến thắng cho ta."
5 Sau đó, các tướng sẽ nói với quân sĩ: "Trong anh em có ai mới cất nhà nhưng chưa kịp khánh thành? Người ấy được về, nếu sợ người khác sẽ khánh thành nhà mình khi mình tử trận.
6 Có ai trồng vườn nho nhưng chưa ăn trái? Người ấy được về, nếu ngại mình hi sinh, người khác sẽ hưởng hoa quả.
7 Có ai hỏi vợ chưa kịp cưới? Người ấy có thể về, nếu lo ngại người khác cưới vợ hứa mình khi mình bỏ mạng trong chiến trận.
8 Có ai nhát gan run sợ thì cũng về đi, đừng làm cho người khác sợ lây."
9 Khi các tướng nói xong, danh sách các sĩ quan chỉ huy trận địa sẽ được công bố.
10 Lúc kéo quân đến tấn công một thành nào, trước tiên đồng bào nên điều đình với thành ấy.
11 Nếu người trong thành chấp nhận điều kiện ta đưa ra, mở cửa đầu hàng, tất cả dân trong thành sẽ phải phục dịch Y-sơ-ra-ên.
12 Nếu họ ra mặt kháng cự, lúc ấy ta vây thành.
13 Và khi Chúa cho đồng bào hạ thành được rồi, phải giết hết đàn ông trong thành,
14 nhưng bắt đàn bà, trẻ con, súc vật, và chiếm giữ các chiến lợi phẩm khác.
15 Quy tắc này chỉ áp dụng cho những thành bên ngoài lãnh thổ đồng bào sắp chiếm cứ.
16 Bên trong lãnh thổ Chúa cho, đồng bào phải diệt hết mọi sinh vật.
17 Phải tận diệt dân Hết, dân A-mo, dân Ca-na-an, dân Phê-rết, dân Hê-vi và dân Giê-bu như Chúa đã truyền dạy;
18 như vậy họ không sống còn để dụ dỗ đồng bào làm tội ác, thờ cúng thần của họ mà mang tội với Chúa.
19,20 Trong trường hợp phải vây và tìm cách công hãm một thành quá lâu, đồng bào chỉ được đốn cây không sinh quả để dùng làm các dụng cụ tấn công thành; còn các cây có trái, đồng bào chỉ được hái trái ăn chứ không được đốn.
1 Khi sống trong đất hứa, nếu đồng bào thấy xác một người bị giết nằm ngoài đồng, nhưng không biết ai là thủ phạm,
2,3 thì các trưởng lão và thẩm phán sẽ đo đạc để tìm một thành gần tử thi nhất. Các trưởng lão của thành này sẽ bắt một con bò cái tơ chưa hề làm việc, chưa mang ách,
4 dẫn nó xuống một thung lũng không ai cày cấy, tại nơi có dòng nước chảy, vặn cổ con bò.
5 Sau đó, các thầy tế lễ sẽ đến (vì Chúa đã chọn con cháu Lê-vi để họ hầu việc Ngài, nhân Danh Ngài chúc phước lành cho dân, và xét xử dân trong các vụ tranh tụng, nhất là các vụ gây thương tích, thiệt mạng).
6 Các trưởng lão trong thành gần tử thi này sẽ rửa tay mình trên xác con bò cái tơ
7 và nói: "Tay chúng con không làm đổ huyết người ấy, mắt chúng con không thấy án mạng này.
8 Xin Chúa tha tội cho Y-sơ-ra-ên, dân Ngài đã chuộc. Xin đừng buộc Y-sơ-ra-ên tội giết người lành. Xin miễn xá tội này cho họ."
9 Nếu làm đúng theo ý Chúa như thế, tội này sẽ được giải trừ.
10 Khi tranh chiến với quân thù, được Chúa cho chiến thắng, và đồng bào bắt giữ nhiều tù binh,
11 nếu có ai thấy trong số người bị bắt giữ có một thiếu nữ xinh đẹp, muốn lấy làm vợ,
12 thì người ấy được phép đem thiếu nữ về nhà. Thiếu nữ phải cạo đầu, cắt móng tay,
13 thay áo tù, khóc cha mẹ mình một tháng tròn. Sau đó, người ấy được lấy thiếu nữ làm vợ.
14 Tuy nhiên, sau khi cưới, nếu người này không chuộng nàng nữa, thì phải để nàng ra đi tự do. Cấm không được bán hay đãi nàng như nô lệ, vì người ấy đã làm nhục nàng.
15 Nếu một người có hai vợ, nhưng chỉ yêu một, dù cả hai đều sinh con đẻ cái, và bà không được yêu lại sinh con trưởng nam,
16 thì người ấy không có quyền đặt con của vợ mình yêu lên trên con của vợ mình không yêu trong ngày chia gia tài,
17 nhưng phải tôn trọng quyền trưởng nam của con bà không được ái mộ. Phải cho người con trưởng nam này gấp đôi phần của những con khác như thường lệ, vì trưởng nam là kết quả đầu tiên của sức mạnh người làm cha.
18 Nếu ai có một người con cứng đầu, ngỗ nghịch, không vâng lời cha mẹ, không nghe lời răn dạy;
19 thì cha mẹ nó phải dẫn nó đến trước các trưởng lão họp tại cổng thành,
20 trình rằng: "Chúng tôi có đứa con cứng đầu ngỗ nghịch, không nghe lời răn dạy, chỉ ăn nhậu say sưa."
21 Dân thành sẽ lấy đá ném cho nó chết đi. Như thế đồng bào mới trừ được kẻ ác trong dân; toàn dân nghe tin này sẽ khiếp sợ.
22 Khi một người phạm trọng tội, bị xử tử và bị treo trên cây,
23 không được để xác người ấy trên cây suốt đêm, phải đem chôn ngay hôm ấy, vì Thượng Đế rủa sả người bị treo. Đừng làm ô uế đất Chúa cho mình.
1 Khi thấy bò, cừu của anh em mình đi lạc, không được làm ngơ, phải dẫn nó về cho chủ nó.
2 Nếu không biết ai là chủ con vật, hoặc biết chủ nó nhưng người này lại ở một nơi xa xôi, phải dẫn con vật về nhà mình, đợi khi chủ nó đến kiếm sẽ giao trả.
3 Lệ này cũng áp dụng cho lừa đi lạc, cho áo xống hoặc một vật gì người khác đánh mất.
4 Nếu thấy bò, lừa của anh em mình bị ngã bên đường, phải đỡ nó dậy, đừng làm ngơ.
5 Đàn bà không được mặc quần áo đàn ông; đàn ông không được mặc quần áo đàn bà. Đối với Chúa, đây là một điều đáng ghét.
6 Nếu gặp một tổ chim trên cây hay dưới đất, có chim mẹ đang ấp con hoặc ấp trứng, thì không được bắt cả mẹ lẫn con;
7 phải tha chim mẹ, chỉ được bắt các chim con mà thôi. Như thế đồng bào mới mong được may mắn và sống lâu.
8 Khi cất nhà mới, phải dựng lan can quanh mái nhà để tránh trường hợp có người từ nóc nhà ngã xuống chết.
9 Đừng trồng các loại hạt giống khác trong vườn nho. Nếu bất tuân, hoa quả của các hạt giống và trái nho trong vườn phải bị tịch thu, bỏ vào kho Đền Thờ.
10 Đừng bắt một con bò và một con lừa mang chung ách để đi cày.
11 Đừng may mặc bằng hàng pha hai thứ sợi, sợi len và sợi gai.
12 Nhớ kết tua nơi bốn chéo áo choàng mình mặc.
13 Nếu có người cưới vợ, ngủ với nàng rồi sau đâm ra khinh ghét,
14 buộc tội nặng nề, bảo nàng đã mất trinh từ trước,
15 thì cha mẹ người vợ sẽ đem trình cho các trưởng lão họp tại cổng thành bằng chứng trinh tiết của con mình.
16 Người cha sẽ nói: "Tôi gả con tôi cho người này làm vợ. Bây giờ vì chán ghét,
17 người này đặt điều buộc tội con tôi, bảo rằng nó đã mất trinh. Và đây là bằng chứng nó còn trong trắng." Rồi cha mẹ người vợ trải áo xống nàng ra trước các trưởng lão.
18 Các trưởng lão trong thành sẽ truyền đánh đòn người chồng,
19 và bắt người này nộp cho cha người vợ một trăm đồng bằng bạc, vì tội vu cáo một trinh nữ Y-sơ-ra-ên. Nàng sẽ tiếp tục làm vợ người ấy suốt đời, người ấy không được bỏ nàng.
20 Nhưng nếu lời buộc tội của người chồng là đúng, vì không tìm thấy bằng chứng trinh tiết,
21 thì người ta sẽ đem người vợ đến trước nhà cha nàng, dân trong thành sẽ lấy đá ném cho nàng chết đi, vì nàng đã phạm tội trong Y-sơ-ra-ên lúc còn ở trong nhà cha mình. Như thế, kẻ ác trong dân sẽ bị diệt trừ.
22 Nếu bắt được một người đàn ông thông gian với vợ người khác, thì cả hai phải bị xử tử. Như thế, kẻ ác trong dân sẽ bị diệt trừ.
23 Nếu một người đàn ông thông dâm với một gái trinh đã đính hôn, và việc này xảy ra trong thành,
24 thì cả hai phải bị dẫn ra ngoài thành, bị ném đá cho chết. Người con gái có tội vì đã không kêu cứu, dù việc xảy ra trong thành; còn người đàn ông, vì đã xúc phạm vợ hứa của anh em mình. Như thế, kẻ ác trong dân sẽ bị diệt trừ.
25 Nhưng nếu việc xảy ra ngoài đồng, nếu người đàn ông cưỡng dâm một thiếu nữ đã đính hôn, chỉ một mình người đàn ông bị xử tử.
26 Còn người thiếu nữ không phải chết, vì nàng chỉ là nạn nhân, cũng như trường hợp một người bị tấn công và sát hại vậy.
27 Hơn nữa, vì việc xảy ra ngoài đồng nên thiếu nữ dù có kêu cứu cũng chẳng ai nghe.
28 Trường hợp một người cưỡng dâm một trinh nữ chưa đính hôn và bị bắt gặp,
29 người đàn ông này phải nộp cho cha thiếu nữ năm mươi đồng bằng bạc, rồi họ sẽ thành vợ chồng suốt đời; người này không được bỏ vợ mình, vì đã xúc phạm nàng.
30 Tuyệt đối không ai được lấy vợ kế của cha mình.
1 Một người có tật (ngoại thận bị dập hay dương vật bị cắt) sẽ không được vào nhà hội của Chúa.
2 Một người con hoang không được vào cộng đồng dân Chúa. Con cháu người này dù đến đời thứ mười cũng không được vào.
3 Người Am-môn, người Mô-áp không được vào cộng đồng dân Chúa. Con cháu họ dù đến đời thứ mười cũng không bao giờ được vào.
4 Vì họ đã không mang thực phẩm, nước uống ra tiếp đón Y-sơ-ra-ên, khi đồng bào mới từ Ai Cập ra đi. Họ còn mướn Ba-la-am con Bê-ô, người Phê-thô-rơ xứ Lưỡng Hà, đi nguyền rủa đồng bào.
5 Tuy nhiên, Chúa Hằng Hữu đâu có nghe Ba-la-am, Ngài đã biến lời nguyền rủa ra lời chúc phước, vì Chúa yêu thương đồng bào.
6 Đừng bao giờ giúp họ kiến tạo hòa bình, thịnh vượng.
7 Đối với người Ê-đôm, không được khinh ghét, vì họ là anh em của đồng bào. Cũng đừng khinh ghét người Ai Cập, vì đồng bào đã kiều ngụ trong nước họ.
8 Cháu đời thứ ba của họ được phép vào cộng đồng dân Chúa.
9,10 Trong lúc chiến tranh với quân thù, phải gìn giữ lều trại cho được tinh khiết. Nếu có ai bị mộng tinh, không được vào trại;
11 đến chiều, người ấy phải tắm rửa sạch sẽ, và chỉ vào trại lại lúc mặt trời lặn.
12 Dành một khu vực bên ngoài trại để đi ngoài.
13 Mỗi người phải có một xuổng con trong bộ đồ lề của mình mang theo. Khi đi ngoài, phải đào lỗ, xong phải lấp đất lại.
14 Vậy, trại phải được giữ sạch sẽ, vì Chúa đi giữa trại để cứu giúp đồng bào, làm cho kẻ thù bại trận. Nếu trại ô uế, Ngài sẽ bỏ đi.
15 Nếu có một người nô lệ trốn khỏi nhà chủ chạy đến với đồng bào, không được giao trả người ấy cho chủ.
16 Phải cho người ấy ở với đồng bào, tại thành nào tùy ý người ấy chọn, không được bạc đãi.
17,18 Trong dân Y-sơ-ra-ên không được có gái mãi dâm hay người đồng tính luyến ái. Không được đem tiền công của họ vào Nhà Chúa, vì Ngài ghê tởm cả hai thứ này.
19 Không được cho anh em mình vay lấy lãi, dù cho vay tiền, thức ăn hay bất cứ vật gì khác.
20 Đối với người ngoại quốc, đồng bào được phép cho vay lấy lãi, nhưng không được lấy lãi người Y-sơ-ra-ên. Như vậy, Chúa sẽ chúc phước cho đồng bào trong đất hứa.
21 Khi hứa nguyện với Chúa điều gì, phải làm theo điều mình đã hứa nguyện, phải dâng vật mình đã hứa. Vì Chúa đòi hỏi đồng bào thực hiện lời hứa nguyện mình; nếu không, đồng bào mang tội.
22 Nhưng nếu đồng bào tự hạn chế mình, không hứa nguyện, như thế không phải là tội.
23 Khi hứa nguyện rồi, phải thận trọng làm theo lời mình, vì đồng bào đã tự ý hứa nguyện với Chúa.
24 Khi vào vườn nho của người láng giềng, đồng bào có thể ăn bao nhiêu cũng được, tùy ý, nhưng không được hái đem về.
25 Cũng thế, khi vào đồng lúa của người láng giềng, đồng bào được lấy tay ngắt lúa, chứ không được dùng lưỡi liềm cắt lúa.
1 Khi biết được vợ mình không đoan chính và không yêu nàng nữa, người chồng có thể làm giấy để vợ và cho nàng ra khỏi nhà mình;
2,3 nếu nàng đi lấy chồng khác và người chồng sau lại không ưa nàng, làm giấy để nàng, hoặc nếu người chồng sau chết đi,
4 thì người chồng trước không được cưới nàng lại, vì nàng đã lấy người khác.Chúa ghê tởm điều này. Đừng làm cho đất mang tội, vì đất đồng bào chiếm hữu là của Chúa cho.
5 Một người mới lập gia đình sẽ được miễn công tác quân sự và mọi công tác khác trong một năm tròn. Người này được ở nhà hưởng hạnh phúc với vợ mình.
6 Không ai được nhận cầm một cái cối xay, vì như thế tức là nhận cầm sinh mạng của người khác.
7 Ai bắt cóc một anh em Y-sơ-ra-ên để làm nô lệ hay đem bán, người ấy phải bị xử tử. Kẻ ác như thế phải bị diệt trừ khỏi nhân dân.
8 Trường hợp có người bị bịnh phung, đồng bào phải thận trọng tuân theo mọi sự chỉ bảo của các thầy tế lễ, vì tôi đã có huấn thị cho họ rồi.
9 Đồng bào nên nhớ lại việc Chúa làm cho M-lâm ngày ta ra khỏi Ai Cập.
10 Khi một người cho anh em mình mượn bất kỳ vật gì, không được vào nhà người ấy để lấy vật thế chân.
11 Nhưng người cho vay phải đứng bên ngoài, đợi người ấy đem vật thế chân ra.
12,13 Trường hợp một người nghèo đi cầm áo xống mình, người cho vay không được giữ áo qua đêm, nhưng phải trả lại lúc mặt trời lặn. Như vậy người nghèo kia sẽ có áo đắp mình lúc đi ngủ, sẽ cầu phúc cho người cho vay, và Chúa sẽ ghi nhận việc thiện này.
14 Đừng ức hiếp một công nhân nghèo nàn, dù người ấy là Y-sơ-ra-ên hay ngoại kiều.
15 Phải trả tiền công cho người ấy mỗi ngày trước khi mặt trời lặn, vì người nghèo túng mong chờ lúc lãnh lương; nếu không, người ấy sẽ kêu thấu Chúa, và người chủ phải mang tội.
16 Cha không bị xử tử vì tội của con; con không bị xử tử vì tội của cha - ai làm nấy chịu.
17 Không được xử bất công với người ngoại kiều hay kẻ mồ côi trong những vụ tranh chấp. Không được cầm áo xống của một bà góa.
18 Phải nhớ rằng đồng bào đã làm nô lệ ở Ai Cập, và Chúa Hằng Hữu đã cứu chuộc đồng bào, vì vậy tôi truyền lệnh này.
19 Khi gặt lúa, nếu ai bỏ quên một bó lúa ngoài đồng, đừng trở lại nhặt, nhưng phải để đó cho người ngoại kiều, kẻ mồ côi, góa bụa. Như thế, Chúa sẽ cho đồng bào được may mắn trong mọi công việc.
20 Khi đập cây ô-liu để nhặt quả, đừng mót quả còn lại trên cành, nhưng để đó cho người ngoại kiều, kẻ mồ côi, góa bụa.
21 Cũng như khi hái nho, đừng nhặt nhạnh các trái còn sót, nhưng để đó cho người ngoại kiều, mồ côi, góa bụa.
22 Phải nhớ rằng đồng bào đã làm nô lệ ở Ai Cập. Vì vậy, tôi truyền lệnh này.
1 Tại tòa án, thẩm phán sẽ phân xử những vụ tranh chấp, tuyên bố người vô tội được trắng án và xử phạt kẻ có tội.
2 Nếu xét thấy một người có tội đáng phạt đòn, thì thẩm phán sẽ truyền cho người ấy nằm xuống, sai đánh đòn ngay trước mặt mình. Số đòn nhiều hay ít tùy theo tội nặng hay nhẹ.
3 Nhưng bốn mươi roi là tối đa, đừng đánh quá, đừng làm cho một người anh em mình ra hèn hạ.
4 Đừng khớp miệng một con bò đang đạp lúa.
5 Nếu hai anh em sống chung với nhau trong gia đình, một người chết đi không có con trai, thì người còn lại sẽ lấy vợ góa của anh em mình làm vợ, đừng để người đàn bà này đi lấy chồng ngoài gia đình.
6 Đứa con trai đầu tiên họ sinh được sẽ nối dõi cho người anh em đã mất, và tên tuổi của người này sẽ được tồn tại.
7 Nhưng nếu người anh em còn sống không chịu lấy người đàn bà ấy làm vợ, bà này sẽ đến trình với các trưởng lão trong thành: "Người anh em chồng tôi từ khước việc lấy tôi làm vợ để có con trai nối dõi cho người đã khuất."
8 Các trưởng lão sẽ gọi người ấy đến khuyên bảo. Nếu người ấy vẫn khăng khăng từ chối,
9 người đàn bà sẽ đến lột giày người ấy, nhổ vào mặt người ấy trước sự hiện diện các trưởng lão, và nói: "Đây là điều người từ khước xây dựng nhà anh em mình phải chịu!"
10 Và từ đó, người ta sẽ gọi nhà người ấy là "nhà của ông bị lột giày."
11 Khi hai người đàn ông đánh nhau, nếu vợ của một người xông vào tiếp cứu chồng và nắm vào chỗ kín của người kia,
12 bà này phải bị chặt tay, đừng thương xót.
13-15 Trong việc cân lường, phải ngay thật. Không ai được dùng hai thứ trái cân (một trái già, một trái non), hoặc hai đơn vị đo lường (một già, một non). Phải dùng đơn vị đo lường chính xác. Như vậy đồng bào mới được sống lâu trong đất Chúa cho mình. 16 Ai gian lận, sẽ bị Chúa ghê tởm.
17,18 Đồng bào còn nhớ việc người A-ma-léc tấn công khi ta ra khỏi Ai Cập? Lúc ấy họ đánh cắt ngang đoàn người của ta đang đi trên đường, tấn công những người mỏi mòn, mệt lả đi đằng sau. Họ chẳng kiêng nể Chúa gì cả. 19 Vì thế, khi Chúa cho đồng bào được rảnh tay, không còn phải lo đối địch kẻ thù trong đất hứa nữa, đồng bào phải nhớ xóa tên A-ma-léc khỏi lịch sử nhân loại.
1 Khi đã vào sống trong đất hứa rồi,
2 đồng bào sẽ chọn một số hoa quả đầu mùa, bỏ vào giỏ, đem lên nơi Chúa sẽ chọn làm Đền Thờ,
3 trao cho thầy tế lễ đang thi hành nhiệm vụ tại đó, và nói: "Hôm nay tôi xin phép được thưa trình với Chúa, Đấng đã đem tôi vào đất này như Ngài đã hứa với các tổ tiên."
4 Thầy tế lễ sẽ lấy giỏ hoa quả để trước bàn thờ Chúa.
5 Người đứng dâng lễ vật sẽ thưa với Chúa: "Tổ tiên tôi là một người A-ram du mục. Người xuống Ai Cập với một gia đình vỏn vẹn có mấy người, nhưng về sau họ trở thành một dân tộc mạnh mẽ đông đúc.
6 Người Ai Cập ngược đãi chúng tôi, bắt chúng tôi làm nô lệ cực nhục.
7 Chúng tôi kêu thấu Chúa, Thượng Đế của tổ tiên, và Ngài nghe tiếng kêu than, nhìn thấy cảnh khổ đau, cực nhọc, áp bức chúng tôi phải chịu.
8 Với cánh tay đầy quyền năng, với nhiều phép lạ, Ngài đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập.
9 Ngài dắt chúng tôi vào đây, cho chúng tôi đất phì nhiêu này.
10 Chúa ôi, giờ đây tôi kính dâng lên Ngài các hoa quả đầu tiên của đất đai Ngài cho tôi." Xong, người này đặt hoa quả trước mặt Chúa và thờ lạy Ngài.
11 Sau đó, gia đình người này sẽ cùng với người Lê-vi và ngoại kiều trong thành ăn mừng, vì Chúa đã ban phước lành cho mình.
12 Cuối mỗi năm thứ ba, đồng bào sẽ lấy một phần mười của mùa màng thu hoạch được trong năm ấy (gọi là năm dâng hiến một phần mười) đem phân phối cho người Lê-vi, ngoại kiều, cô nhi, quả phụ trong thành, cho họ có đủ thực phẩm.
13 Và, đồng bào sẽ trình với Chúa: "Tôi đã đem phần mười cho người Lê-vi, ngoại kiều, cô nhi, quả phụ đúng như lệnh Chúa truyền. Tôi không dám vi phạm hay lãng quên lệnh Chúa.
14 Tôi không hề động đến phần mười khi tôi ở trong tình trạng ô uế, không ăn của này lúc tang chế, cũng không dùng để lo cho người chết. Tôi vâng theo lời Chúa dạy, làm mọi điều Ngài truyền bảo tôi.
15 Xin Chúa từ trời nhìn xuống, chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, chúc phước đấtNgài cho họ, cho đất này phì nhiêu như Ngài đã hứa với các tổ tiên."
16 Đồng bào phải hết lòng vâng giữ tất cả các giới luật ngày nay Chúa truyền cho.
17 Hôm nay đồng bào đã công khai xác nhận Chúa là Thượng Đế mình, nhận đi theo đường lối Ngài, giữ các giới luật Ngài, vâng theo lời Ngài.
18 Và hôm nay Chúa cũng công nhận đồng bào là dân Ngài như Ngài đã hứa. Nếu đồng bào vâng giữ mọi giới luật Chúa truyền,
19 Ngài sẽ làm cho Y-sơ-ra-ên được vinh dự, danh tiếng, và được ca ngợi hơn mọi dân tộc khác, vì đồng bào là một dân thánh của Chúa - sống đúng như lời Ngài dặn bảo."
1 Sau đó, Mai-sen và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên bảo nhân dân: "Đồng bào phải tuân giữ mọi mệnh lệnh tôi truyền ngày nay. 2-4 Ngày qua sông Giô-đan tiến vào đất hứa, đồng bào phải lấy đá lớn, dùng hồ trát lên, dựng một bia ở trên núi Ê-banh, bên kia sông. Đồng bào phải khắc vào bia đá các luật lệ của Chúa Hằng Hữu, Đấng cho đồng bào đất đai phì nhiêu như Ngài đã hứa với các tổ tiên. 5,6 Đồng bào cũng phải xây một bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, bằng đá nguyên tảng, không đục không đẽo. Trên đó, đồng bào sẽ dâng lễ thiêu cho Ngài. 7 Đồng bào cũng dâng lễ vật thù ân và ăn mừng tại đó trước Chúa Hằng Hữu. 8 Nhớ viết tất cả luật lệ lên bia đá thật rõ ràng."
9 Mai-sen và các thầy tế lễ người Lê-vi cũng kêu gọi toàn thể nhân dân: "Lẳng lặng mà nghe, Y-sơ-ra-ên ơi! Hôm nay đồng bào được làm dân của Chúa Hằng Hữu rồi. 10 Vậy đồng bào phải vâng lời Ngài, tuân lệnh Ngài truyền."
11 Hôm ấy, Mai-sen cũng buộc nhân dân làm điều này: 12 Khi sang sông Giô-đan rồi, người thuộc các đại tộc Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Giô-sép và Bên-gia-min phải đứng trên núi Ga-ri-xim để chúc phước; 13 còn người thuộc các đại tộc Ru-bên, Gát, A-se, Sa-bu-luân, Đan và Nép-ta-li phải đứng trên núi Ê-banh để nguyền rủa. 14 Người Lê-vi sẽ lớn tiếng tuyên bố với toàn dân Y-sơ-ra-ên như sau:
15 "Người nào làm và thờ hình tượng phải bị nguyền rủa, dù tượng được giấu tại một nơi kín, dù tượng chạm hay tượng đúc cũng vậy." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
16 "Ai khinh bỉ cha mẹ mình phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
17 "Ai dời trụ ranh giới để lấn đất láng giềng phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
18 "Ai làm cho người mù lạc lối phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
19 "Ai xử bất công với người ngoại kiều, cô nhi, quả phụ phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
20 "Ai ngủ với vợ kế cha mình phải bị nguyền rủa, vì người ấy xúc phạm vợ cha mình." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
21 "Ai ngủ với thú vật phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
22 "Ai ngủ với chị em mình, dù chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
23 "Ai ngủ với bà gia mình phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
24 "Ai ám sát người khác phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
25 "Ai nhận của hối lộ để giết người vô tội phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
26 "Ai không tuân hành luật này phải bị nguyền rủa." Toàn dân sẽ đáp: "A-men."
1,2 Nếu đồng bào triệt để tuân hành mọi giới luật của Chúa Hằng Hữu tôi truyền lại hôm nay, thì Ngài sẽ làm cho Y-sơ-ra-ên thành một quốc gia hùng cường hơn mọi quốc gia khác, và cho đồng bào hưởng nhiều phước lành;
3 phước lành trong thành thị, phước lành ngoài đồng ruộng,
4 phước lành trên con cái hậu tự, phước lành trong việc trồng trọt, chăn nuôi.
5 Giỏ đầy trái, thùng đầy bột.
6 Phước lành khi đồng bào đi ra cũng như lúc đi vào.
7 Chúa sẽ đánh bại quân thù trước mặt đồng bào. Họ cùng nhau kéo ra đánh đồng bào, nhưng rồi tán loạn tẩu thoát.
8 Chúa sẽ làm cho vựa lẫm đồng bào tràn đầy, mọi công việc đều thịnh vượng, khi đồng bào sống trong đất Ngài cho.
9 Chúa sẽ làm cho đồng bào thành dân thánh của Ngài như Ngài đã hứa, nếu đồng bào tuân giữ giới lệnh và đi trong đường lối Ngài.
10 Mọi dân tộc trên hoàn cầu sẽ nhận biết Y-sơ-ra-ên và sẽ kính nể đồng bào, vì đồng bào mang Danh Chúa Hằng Hữu.
11 Chúa sẽ cho đồng bào thịnh vượng trong đất Ngài ban, kể cả con cháu đông đảo, súc vật đầy đàn, mùa màng phong phú, như Ngài đã hứa với tổ tiên ta.
12 Chúa sẽ mở cửa kho tàng kỳ diệu trên trời cho đồng bào, mưa sẽ rơi đúng mùa, mọi việc đồng bào làm đều thành công mỹ mãn. Đồng bào sẽ cho các nước khác vay, nhưng Y-sơ-ra-ên không mượn của ai.
13,14 Vậy, nếu đồng bào vâng theo các giới lệnh của Chúa Hằng Hữu do tôi truyền lại hôm nay, nghiêm chỉnh thi hành các lệnh này, không đi thờ cúng các thần khác, thì Chúa sẽ cho đồng bào đứng đầu chứ không đứng cuối, đồng bào sẽ luôn luôn thăng tiến chứ không suy đồi.
15 Nhưng nếu đồng bào không vâng lời Chúa Hằng Hữu, không tuân giữ các giới lệnh tôi truyền hôm nay, đồng bào phải hứng chịu các lời nguyền rủa sau đây:
16 nguyền rủa trong thành thị, nguyền rủa ngoài đồng ruộng;
17 nguyền rủa trên bánh, trái;
18 nguyền rủa trên con cái hậu tự, trên việc trồng trọt, chăn nuôi;
19 nguyền rủa khi đồng bào đi ra cũng như lúc đi vào.
20 Chính Chúa sẽ nguyền rủa đồng bào. Đồng bào sẽ hoang mang, thất bại trong mọi công việc mình làm, cho đến ngày bị tiêu diệt vì tội ác đã phạm khi từ bỏ Ngài.
21 Chúa sẽ làm cho đồng bào mắc bệnh dịch cho đến lúc bị tiêu diệt hết, không còn ai sống trên đất Ngài cho nữa.
22 Chúa sẽ hành hại đồng bào bằng các bệnh: lao, sốt, phù thũng; và các thiên tai: nóng gắt, hạn hán; cây cỏ phải chết vì khô héo, vì nấm mốc. Tất cả những tai nạn này sẽ theo đuổi đồng bào cho đến khi đồng bào bị diệt sạch.
23 Đối với đồng bào, trời sẽ trở nên như đồng, đất trở nên như sắt.
24 Thay vì mưa, Chúa sẽ cho bụi rơi xuống, cho đến lúc đồng bào bị hủy diệt.
25 Chúa sẽ làm cho đồng bào bị quân thù đánh bại. Đồng bào cùng nhau ra trận, nhưng rồi chạy trốn tán loạn. Đồng bào sẽ bị các dân tộc khác ghê tởm.
26 Xác chết của đồng bào sẽ bị chim rỉa thú ăn; đồng bào chẳng còn ai để đuổi chúng đi.
27 Chúa sẽ làm cho đồng bào bị ung nhọt Ai Cập, bướu, hoại huyết, ghẻ ngứa - không cách nào chữa khỏi.
28 Ngài cũng bắt đồng bào phải mang bệnh điên, mù, lãng trí.
29 Ngay giữa trưa, đồng bào đi quờ quạng như người mù trong đêm tối. Công việc đồng bào làm đều thất bại. Đồng bào sẽ bị áp bức, cướp giật thường xuyên mà không ai cứu giúp.
30 Vợ hứa của đồng bào sẽ bị người khác lấy. Đồng bào cất nhà mới nhưng không được ở; trồng nho nhưng không được ăn trái.
31 Bò của đồng bào nuôi sẽ bị kẻ khác giết trước mặt mình, mà đồng bào không được ăn thịt; lừa sẽ bị cướp ngay trước mặt, người ta không bao giờ trả lại; cừu sẽ bị giao nạp cho quân thù, nhưng chẳng có ai giúp đỡ đồng bào.
32 Con trai, con gái đồng bào sẽ bị người nước khác bắt đi ngay trước mắt mình; suốt ngày đồng bào chỉ mỏi mòn trông chờ con, nhưng không làm gì được vì bất lực.
33 Dân một nước xa lạ sẽ ăn hết mùa màng do công khó của đồng bào trồng trọt, suốt ngày đồng bào bị áp bức, chà đạp;
34 đồng bào sẽ điên dại vì những điều trông thấy.
35 Chúa sẽ làm cho đồng bào nổi ung nhọt từ đầu đến chân, không chữa khỏi được.
36,37 Chúa sẽ đày đồng bào cùng với vua mình sang một nước xa lạ, tên của nước này đồng bào cũng như các tổ tiên chưa hề biết đến. Tại đó, đồng bào sẽ thờ cúng các thần bằng đá, bằng gỗ. Đồng bào sẽ trở thành trò cười, tục ngữ, và là giống dân ghê tởm giữa các dân tộc khác.
38 Đồng bào sẽ gieo giống thật nhiều nhưng gặt thật ít, vì châu chấu sẽ ăn hết mùa màng.
39 Đồng bào sẽ trồng tỉa vườn nho nhưng không có nho ăn, rượu uống, vì sâu sẽ ăn hết.
40 Mặc dù đồng bào có cây ô-liu khắp nơi trong lãnh thổ mình, đồng bào không có dầu ô-liu để xức, vì trái cây đã héo rụng cả.
41 Đồng bào sinh con đẻ cái nhưng sẽ không có con ở với mình, vì chúng nó bị bắt đi làm nô lệ.
42 Châu chấu sẽ cắn phá cây cối, mùa màng.
43 Người ngoại kiều sống trong nước sẽ được tôn trọng, còn chính đồng bào sẽ trở nên hèn hạ;
44 họ sẽ cho đồng bào vay, chứ đồng bào đâu có cho ai vay được; họ đứng đầu, đồng bào đứng chót.
45 Những lời nguyền rủa trên sẽ theo đuổi và bắt kịp đồng bào, cho đến khi đồng bào bị tuyệt diệt vì không vâng lời Chúa, không tuân theo giới lệnh của Ngài.
46 Những lời nguyền rủa này sẽ đổ trên đồng bào và con cháu đồng bào mãi mãi, đó là một điềm dữ, một điều kinh khiếp hãi hùng.
47 Khi được thịnh vượng, đồng bào không hết lòng phục vụ Chúa Hằng Hữu,
48 cho nên Ngài sẽ bắt đồng bào phục dịch quân thù trong cảnh đói khát, trần truồng, thiếu thốn đủ mọi phương diện: Ngài tra ách bằng sắt vào cổ đồng bào cho đến ngày đồng bào bị tiêu diệt.
49 Chúa sẽ dẫn một dân tộc từ nơi xa xôi đến đánh đồng bào đột ngột như phượng hoàng tấn công. Họ nói một thứ tiếng đồng bào không hiểu.
50 Vẻ mặt họ hung dữ; họ không trọng người già, không quý người trẻ.
51 Họ sẽ ăn hết súc vật, mùa màng của đồng bào, chẳng để lại cho đồng bào gì cả, dù là ngũ cốc, rượu, dầu hay bò, cừu.
52 Họ sẽ vây hãm các thành, phá vỡ các tường thành cao và kiên cố, là những tường thành đồng bào từng tin tưởng.
53 Trong cảnh bị vây hãm quẫn bách, có người phải ăn cả thịt con mình.
54,55 Một người đàn ông dù mềm mỏng, tế nhị nhất cũng trở nên bủn xỉn, keo cú với anh em, vợ con còn sống sót. Trong cảnh bị vây hãm đói khổ, người ấy không muốn chia sẻ thức ăn mình có, đó là thịt của con mình.
56,57 Một người đàn bà dù mềm mỏng, tế nhị đến nỗi không dám dẫm chân lên đất, lúc ấy cũng phải từ chối, không chia thức ăn của mình cho chồng con, giấu kín đứa con mới sinh và cái nhau để ăn một mình, vì quân thù vây thành quẫn bách quá.
58 Nếu đồng bào không tuân theo mọi luật lệ chép trong sách này, không kính sợ uy danh vinh hiển của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của đồng bào,
59 thì Ngài sẽ cho đồng bào và con cháu đồng bào gặp những tai họa, bệnh hoạn nặng nề và dai dẳng.
60 Chúa cũng để đồng bào mắc những bệnh người Ai Cập phải chịu trước kia, là những bệnh đồng bào rất sợ và không ai chạy chữa gì nổi.
61 Chúa còn bắt đồng bào mang mọi thứ bệnh không được ghi trong sách này, cho đến ngày đồng bào bị tiêu diệt.
62 Dù đồng bào vốn đông như sao trời, chỉ một ít người còn sống sót, vì đồng bào không vâng lời Chúa.
63 Chúa đã vui lòng làm cho đồng bào gia tăng dân số và thịnh vượng thế nào, lúc ấy Ngài cũng vui lòng tàn phá, tiêu diệt đồng bào thế ấy, và đồng bào sẽ bị trừ tiệt khỏi đất mình đang chiếm hữu.
64 Chúa sẽ phân tán đồng bào khắp nơi trên mặt đất, cho sống với những dân tộc khác. Tại những nơi ấy, đồng bào sẽ thờ cúng các thần khác, những thần bằng gỗ, bằng đá trước kia đồng bào và các tổ tiên chưa hề biết.
65 Tại những nước ấy, đồng bào không được yên nghỉ, nhưng Chúa sẽ cho đồng bào trái tim run rẩy, đôi mắt mờ lòa, tinh thần suy nhược;
66 mạng sống không được bảo toàn, đêm ngày phập phồng lo sợ.
67 Buổi sáng, đồng bào sẽ nói: "Ước gì đêm đến!" buổi tối lại nói: "Ước gì trời sáng!" vì lòng đầy lo sợ, vì những điều mắt mình chứng kiến.
68 Rồi, Chúa sẽ chở đồng bào trở lại Ai Cập bằng tàu bè, một chuyến đi tôi đã bảo đồng bào chẳng bao giờ nên đi. Tại Ai Cập, đồng bào sẽ bán mình cho kẻ thù làm nô lệ, nhưng chẳng ai mua.
1 Tại đất Mô-áp, Chúa Hằng Hữu bảo Mai-sen kết lập với Y-sơ-ra-ên một giao ước, ngoài giao ước đã kết lập tại Hô-rếp. Sau đây là giao ước tại Mô-áp.
2,3 Mai-sen triệu tập toàn dân, bảo rằng: "Đồng bào đã thấy tận mắt tất cả những phép lạ lớn lao, những thử thách phi thường Chúa đã làm tại Ai Cập để trừng trị Pha-ra-ôn và dân này.
4 Tuy nhiên cho đến ngày nay, Chúa vẫn chưa cho đồng bào trí tuệ để hiểu biết, mắt để thấy, tai để nghe.
5 Suốt bốn mươi năm, Chúa dẫn đồng bào đi trong sa mạc, áo không rách, giày không mòn.
6 Đồng bào đã không phải làm bánh để ăn, cất rượu (rượu nho, rượu mạnh) để uống, điều này cho đồng bào ý thức rằng Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế mình.
7 Khi chúng ta đến nơi này, Si-hôn vua Hết-bôn và Óc vua Ba-san đem quân ra nghênh chiến, nhưng chúng ta đánh bại họ,
8 chiếm lấy đất của họ cho đại tộc Ru-bên, đại tộc Gát và phân nửa đại tộc Ma-na-se thừa hưởng.
9 Vậy, phải thận trọng tuân hành giao ước này, nhờ đó mọi việc đồng bào làm mới được thành công.
10,11 Hôm nay, toàn thể đồng bào, gồm các đại tộc trưởng, các trưởng lão, các viên chức, nhân dân, cùng với vợ con mình, các ngoại kiều giúp việc đốn củi, múc nước, đang đứng trước Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình,
12 sẵn sàng thề nguyện chấp nhận giao ước của Chúa kết lập với đồng bào hôm nay.
13 Theo giao ước này, đồng bào được Chúa xác nhận là dân của Ngài, và Ngài là Thượng Đế của đồng bào, như Ngài đã hứa với đồng bào và các tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
14,15 Giao ước này chẳng những có hiệu lực với những người đang đứng đây, nhưng cũng áp dụng cho mọi người Y-sơ-ra-ên không có mặt hôm nay nữa.
16 Đồng bào còn nhớ ngày chúng ta sống ở Ai Cập như thế nào, còn nhớ các nước chúng ta đi qua trên đường đến đây;
17 đồng bào đã thấy các thần tượng bằng gỗ, đá, vàng, bạc của người ngoại đạo.
18 Coi chừng, ngày nào có ai - dù đàn ông hay đàn bà, một gia đình hay một đại tộc - thay lòng đổi dạ từ bỏ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, mà đi thờ cúng thần của các nước kia, ngày ấy rễ độc sẽ mọc, trái đắng sẽ nảy sinh.
19 Khi nghe những lời tuyên cáo này, đừng ai mừng thầm tự nhủ: Ta được an nhiên vô sự, mặc dù ta cứ tiếp tục đường lối ngoan cố mình, thà say khướt còn hơn khát khô.
20 Chúa không tha hạng người ấy đâu. Cơn thịnh nộ và sự kỵ tà của Ngài sẽ nổi lên cùng người ấy, những lời nguyền rủa trong sách này sẽ ứng cho người ấy. Ngài sẽ xóa tên người ấy giữa thiên hạ.
21 Chúa sẽ tách người ấy ra khỏi nhân dân để một mình hứng chịu mọi lời nguyền rủa chép trong sách này.
22 Ngày sau, khi con cháu đồng bào và các du khách từ viễn phương đến, thấy cảnh tàn phá và bệnh hoạn của đất đai,
23 (đất đầy diêm sinh và muối, cháy rụi, không cây cỏ, mùa màng, giống như cảnh Sô-đôm, Gô-mo, Át-ma và Sê-bô-im, các thành đã bị Chúa thiêu hủy trong cơn thịnh nộ),
24 sẽ hỏi: "Tại sao Chúa làm cho đất ra thế này? Tại sao Ngài giận họ đến thế?"
25 Có người sẽ đáp: "Vì họ bội ước với Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ tiên họ, tức là giao ước Ngài kết với họ khi đem họ ra khỏi Ai Cập.
26 Họ đi thờ cúng các thần xa lạ, mặc dù Ngài đã nghiêm cấm.
27 Đấy là lý do Chúa trút cơn thịnh nộ trên đất này, và đất hứng chịu mọi lời nguyền rủa đã ghi trong sách.
28 Trong cơn lôi đình, Chúa đã bứng họ khỏi đất này, ném họ ra đất khác, là nơi họ đang sống ngày nay."
29 Có nhiều điều huyền nhiệm Chúa không cho chúng ta biết; nhưng Ngài tiết lộ những luật lệ này để chúng ta và con cháu chúng ta tuân giữ đời đời.
1 Một khi các điều này xảy ra, hoặc phước hoặc họa như tôi đã trình bày, nếu đồng bào hồi tâm tỉnh ngộ, giữa cảnh đất lạ quê người là nơi Chúa đuổi đồng bào đến;
2 nếu đồng bào và con cháu mình quay lại với Chúa, đem hết lòng dạ vâng theo lời Ngài, là những điều tôi truyền lại cho đồng bào hôm nay,
3 thì Chúa Hằng Hữu sẽ thương xót và cho đồng bào thoát cảnh lưu đày. Ngài sẽ đem đồng bào về, thu góp đồng bào lại, mặc dù đã bị tản mác khắp nơi.
4 Dù có người ở xa tận chân trời, Ngài cũng đem người ấy về.
5 Chúa sẽ đem đồng bào về quê cha đất tổ, cho đồng bào chiếm lại quê hương. Ngài sẽ cho đồng bào thịnh vượng, đông đúc hơn cả thời cha ông mình.
6 Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho đồng bào và con cháu mình một lòng dứt khoát với tội lỗi, yêu kính Thượng Đế Hằng Hữu mình hết lòng, hết linh hồn, và đồng bào sẽ sống lại.
7,8 Nếu đồng bào hết lòng ăn năn, vâng giữ mọi giới luật của Chúa mà tôi truyền lại hôm nay, Chúa sẽ đem những lời nguyền rủa kia trút trên kẻ thù đã áp bức đồng bào.
9 Chúa Hằng Hữu sẽ cho đồng bào cực kỳ thịnh vượng, mọi công việc đều thành công, con cái đông đúc, thú vật đầy đàn, mùa màng sung mãn, vì Chúa vui lòng làm cho đồng bào thịnh vượng, cũng như Ngài đã vui lòng làm cho các tổ tiên,
10 miễn là đồng bào tuân theo mọi giới luật chép trong sách này, hết lòng, hết linh hồn quay về với Chúa.
11 Giới luật tôi truyền hôm nay không phải là những luật khó quá sức đồng bào;
12 cũng không phải từ trời cao xa, đến nỗi đồng bào không với tới, không nghe được để tuân hành;
13 cũng không phải từ bên kia đại dương xa vời, đến độ không ai tới được, để đem về truyền lại cho đồng bào tuân giữ.
14 Nhưng nó ở ngay cạnh đồng bào, trong miệng, trong lòng đồng bào, để đồng bào làm theo.
15 Đây, hôm nay tôi đặt trước đồng bào phúc và họa, sống và chết.
16 Hôm nay, tôi khuyên đồng bào phải yêu kính Thượng Đế Hằng Hữu mình, đi theo đường lối Ngài, tuân giữ giới lệnh, luật pháp của Ngài; như vậy đồng bào mới được sống, được gia tăng nhân số, và Chúa mới ban phước lành cho đồng bào trong lãnh thổ đồng bào sắp chiếm hữu.
17 Nhưng nếu đồng bào không chịu nghe tôi, đi thờ lạy các thần khác,
18 thì hôm nay tôi xin quả quyết rằng đồng bào sẽ bị diệt vong, chỉ được sống một thời gian ngắn ngủi trên đất đồng bào sắp chiếm hữu bên kia sông Giô-đan.
19 Tôi xin trời đất chứng giám, hôm nay tôi có đặt trước đồng bào phúc và họa, sống và chết. Tôi kêu gọi đồng bào chọn con đường sống, để đồng bào và con cháu mình được sống.
20 Tôi kêu gọi đồng bào yêu kính Chúa, vâng lời Ngài, khắng khít với Ngài, vì Ngài là Nguồn Sống. Ngài sẽ làm cho đồng bào sống lâu dài trên đất Ngài hứa cho các tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
1,2 Mai-sen nói tiếp: "Bây giờ tôi đã già, tuổi đã một trăm hai mươi, không còn đi lại như xưa được nữa, và Chúa cũng đã bảo tôi không được qua sông Giô-đan.
3 Nhưng chính Chúa Hằng Hữu sẽ dẫn đồng bào qua sông. Ngài sẽ tiêu diệt các dân tộc sống bên ấy để đồng bào chiếm đất. Theo lệnh của Chúa, Giô-suê sẽ lãnh đạo đồng bào qua sông.
4 Chúa sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy, như Ngài đã tiêu diệt các vua A-mo là Si-hôn và Óc, cùng với vương quốc của họ.
5 Chúa sẽ giao các dân tộc ấy cho đồng bào, và đồng bào phải tận diệt họ đúng theo lệnh tôi đã truyền.
6 Phải mạnh bạo và can đảm lên! Đừng sợ gì cả! Có Chúa đi với đồng bào. Ngài không lìa bỏ đồng bào đâu."
7 Nói xong, Mai-sen cho mời Giô-suê đến, và nói với ông trước mặt toàn dân: "Phải mạnh bạo, can đảm, vì ông sẽ dẫn dân ta vào đất Chúa cho họ, theo lời Ngài hứa với các tổ tiên. Ông sẽ chỉ huy cuộc chiếm đóng này.
8 Chúa sẽ hướng dẫn đường đi. Chính Ngài sẽ ở cùng ông, không quên, không bỏ ông đâu, đừng sợ!"
9 Mai-sen chép trọn bộ luật, đem đến cho các thầy tế lễ, con cháu Lê-vi (những người khiêng Rương Giao Ước của Chúa), các trưởng lão Y-sơ-ra-ên và giao cho họ giữ.
10,11 Rồi ông truyền lệnh: "Luật này phải được đem đọc cho toàn thể nhân dân nghe bảy năm một lần, vào năm giải trừ, trong dịp lễ Lều Tạm, khi toàn dân Y-sơ-ra-ên kéo nhau lên Đền Thờ (tại nơi Ngài sẽ chọn) để ra mắt Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình.
12 Phải tập họp nhân dân, nam phụ lão ấu, và người ngoại kiều sống trong lãnh thổ, cho họ nghe đọc bộ luật này, để họ học tập kính sợ Chúa Hằng Hữu và thận trọng tuân hành luật lệ Ngài.
13 Nhờ vậy, con cháu đồng bào ai chưa nghe luật này sẽ được nghe và học tập kính sợ Chúa suốt thời gian sống trong đất đồng bào sắp chiếm hữu."
14 Hôm ấy, Chúa bảo Mai-sen: "Này con, ngày qua đời của con sắp đến. Con gọi Giô-suê đi với con vào Lều Hội Kiến, tại đó Ta sẽ có lời ủy nhiệm Giô-suê." Hai ông vâng lời.
15 Chúa hiện ra tại Lều Hội Kiến, trong một trụ mây. Trụ mây dừng lại tại cửa Lều.
16 Chúa bảo Mai-sen: "Con sẽ an giấc cùng tổ tiên. Còn dân này sẽ đi thờ các thần của những nơi họ sắp vào. Họ sẽ bỏ Ta, bội ước với Ta.
17 Ta sẽ nổi giận và lìa bỏ họ. Khi Ta quay mặt làm ngơ, họ sẽ bị tiêu vong, sẽ gặp nhiều tai họa khủng khiếp. Đến lúc ấy, họ sẽ thắc mắc: 'Chắc Thượng Đế không ở cùng ta, nên ta mới gặp hoạn nạn thế này!'
18 Nhưng Ta quay mặt đi vì những điều ác họ đã làm, bởi họ đi thờ các thần khác.
19 "Thế thì bây giờ, con viết một bài ca và đem dạy cho dân Y-sơ-ra-ên. Bài ca đó dùng để cảnh cáo họ.
20 Vì Ta sẽ đem họ vào đất Ta hứa cho tổ tiên họ, một vùng đất phì nhiêu; nhưng khi họ đã no béo liền khinh bỏ Ta, bội ước với Ta, đi thờ các thần khác.
21 Họ sẽ gặp tai họa khủng khiếp. Lúc ấy bài ca này (vì được truyền tụng từ đời này qua đời kia) sẽ là những lời cảnh cáob họ. Vì Ta biết họ, biết cả tư tưởng họ, trước khi đem họ vào đất hứa."
22 Vậy hôm ấy, Mai-sen chép bài ca này, đem dạy cho nhân dân Y-sơ-ra-ên.
23 Chúa ủy nhiệm chức vụ cho Giô-suê con của Nun và bảo ông: "Phải mạnh bạo, đầy lòng can đảm, vì con sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên vào đất Ta hứa cho họ. Ta sẽ luôn luôn ở cạnh bên con."
24 Khi Mai-sen chép xong hết các luật lệ vào một cuốn sách,
25 ông bảo những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của Chúa:
26 "Đem đặt sách luật này bên cạnh Rương Giao Ước, dùng để cảnh cáo nhân dân Y-sơ-ra-ên.
27 Vì tôi biết họ là một dân tộc ngoan cố và bướng bỉnh. Ngay lúc tôi còn sống, họ đã dám nổi loạn chống Chúa, huống chi khi tôi chết rồi, họ còn loạn đến đâu.
28 Xin các ông mời các trưởng lão và viên chức trong các đại tộc họp lại để tôi có đôi lời nói với họ. Tôi cũng xin trời đất chứng giám cho những lời này.
29 Tôi biết rằng, sau khi tôi chết đi, họ sẽ hư hỏng, từ bỏ đường lối tôi đã dạy họ, và trong tương lai, tai ương sẽ xảy đến cho họ, vì họ làm điều ác trước Chúa, chọc Ngài giận."
30 Sau đó, Mai-sen lặp lại từ đầu đến cuối bài ca này cho toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe:
1 Cả trời lẫn đất hãy nghe ta!
2 Lời ta êm nhẹ như sương sa
Có lúc tầm tã như mưa móc
Nhuần tưới đồng xanh và thảo mộc.
3 Ta tung hô Danh Chúa Vĩnh Hằng,
Ca tụng công ơn Ngài vĩ đại.
4 Chúa là Vầng Đá hiên ngang.
Đường lối Ngài chính là công lý
Tuyệt đối chính trực và công bằng
Luôn thành tín, không hề nhiễm tội.
5 Nhưng Y-sơ-ra-ên phản phúc bất thần
Nên không tình nghĩa cha con.
Họ là một giống nòi lừa đảo, thông gian.
6 Phải chăng đây là cách báo đền ơn Chúa?
Hỡi dân tộc khờ khạo, điên cuồng!
Chúa là Thiên Phụ từ nhân
Chăn nuôi dưỡng dục, tác thành con dân.
7 Thử nhớ lại những ngày dĩ vãng,
Thử hỏi xem các bậc trưởng thành,
Họ sẽ ân cần dạy bảo.
8 Khi Đấng Tối Cao phân chia lãnh thổ,
Phân phối dòng dõi A-đam khắp thế gian,
Cho mỗi dân tộc đều hưởng một phần,
Thì Ngài căn cứ trên số dân
Của cộng đồng con cái Chân Thần.
9 Nhưng Chúa là phần của Y-sơ-ra-ên,
Vì Gia-cốp thuộc về Ngài.
10 Chúa tìm thấy họ trong sa mạc,
Giữa tiếng gào thét của chốn hoang vu;
Bảo vệ họ như con ngươi tròng mắt.
11 Như phụng hoàng lay động tổ,
Bay quanh các con bé bỏng mình,
Dang cánh ra hứng đỡ,
Rồi cõng đàn con trên cánh.
12 Dân ta cũng được Ngài dắt dìu.
Chỉ có Chúa, chẳng có thần nào khác.
13 Ngài cho họ ở trên đồi cao,
Hưởng hoa mầu của đất.
Đá lửa bỗng phun dầu,
Khe núi tuôn dòng mật.
14 Họ được sữa bò, cừu dư dật,
Lấy giống cừu, dê Ba-san,
Gieo giống lúa mì thượng hạng,
Và uống rượu nho thuần chất.
15 Nhưng khi Y-sơ-ra-ên vừa mập béo,
Liền từ bỏ Thượng Đế, là Đấng Sáng Tạo,
Coi rẻ Vầng Đá cứu chuộc họ.
16 Họ cúng thờ thần tượng ghê tởm,
Khiến cơn giận Ngài nổi lên
Vì Ngài gớm ghét tà thần.
17 Họ dâng lễ vật cho quỉ
(Chứ không thờ Chân Thần),
Cúng tế các thần xa lạ
Họ và tổ tiên chưa từng biết.
18 Họ không chú tâm đến Vầng Đá sáng tạo,
Lãng quên Thượng Đế sinh thành họ.
19 Thấy thế, Chúa buộc lòng ghét bỏ,
Vì con cái Chúa dám khiêu khích Ngài.
20 Chúa phán: "Ta sẽ lánh mặt,
Để xem cuối cùng họ ra sao,
Họ chỉ là một dòng giống bất trung gian tà.
21 Họ làm Ta gớm ghét các tượng họ thờ,
Dù đó chỉ là tượng vô dụng, vô tri,
Chứ chẳng phải là thần.
Ta sẽ làm cho họ ganh với nhiều dân,
Làm cho họ tị hiềm những nước ngu đần.
22 Vì lửa giận Ta bốc cháy
Thiêu đốt Âm Phủ đến tận đáy,
Đốt đất và hoa mầu ruộng đất,
Thiêu rụi cả nền tảng núi non.
23 "Tai họa sẽ chồng chất.
Ta bắn tên trúng vào người họ.
24 Họ sẽ bị tiêu hao vì đói khát,
Thiêu nuốt vì nhiệt, và bệnh dịch độc địa;
Ta sẽ sai thú dữ cắn xé họ,
Cùng với các loài rắn rít đầy nọc độc.
25 Bên ngoài vây bọc, rừng gươm giáo,
Bên trong nhung nhúc 'kinh hoàng trùng;'
Già trẻ lớn bé đều tiêu vong.
26 "Ta định phân tán họ đến các nơi xa
Và xóa sạch tàn tích dân này.
27 Thế nhưng, Ta nghĩ rằng,
Kẻ thù sẽ hiểu lầm, tự phụ:
Ta đánh Y-sơ-ra-ên tan tành,
Chứ Chúa có làm gì họ!
28 Y-sơ-ra-ên là một dân
Có óc lại ngu đần.
29 Ước gì họ khôn ngoan,
Ý thức được cuối cùng họ sẽ ra sao!
30 Vì sao một người đuổi ngàn người chạy trốn?
Hai tên địch đuổi nổi mười ngàn lính Y-sơ-ra-ên?
Vì Vầng Đá đã bán họ, Chúa lìa bỏ họ.
31 Nhưng hòn đá của kẻ thù đâu sánh nổi
Với Vầng Đá của chúng ta?
(Chính kẻ thù cũng phải nhìn nhận)
32 Quân thù trồng rặt loại nho
Vườn Sô-đôm với cánh đồng Gô-mo
Nên sinh toàn trái nho chua và đắng;
33 Rượu nho của họ là nọc độc rắn.
34 "Nhưng Ta đã thu thập và tồn trữ toàn dân
Như châu báu trong kho tàng.
35 Báo ứng là việc của Ta.
Ta sẽ làm cho kẻ thù trượt ngã;
Vì tai họa ào đến, diệt họ trong nháy mắt."
36 Chúa sẽ xét xử dân Ngài cách công minh.
Xót thương tôi trai tớ gái mình
Khi thấy năng lực họ tàn tắt,
Người tự do lẫn nô tỳ.
37 Ngài phán: "Các thần họ đâu rồi?
Các hòn đá họ cầu xin phù hộ,
38 Thần được họ cúng tế rượu, mỡ,
Sao không chịu đứng ra giúp đỡ?
39 Chỉ có một mình Ta là Chân Thần.
Ta giết và truyền cho sự sống,
Gây thương tích, rồi chữa lành.
Chẳng quyền lực nào của trần gian
Giải thoát nổi người nào khỏi tay Ta.
40 Ta đưa tay lên thề: 'Thật như Ta Hằng Sống'
41 Ta sẽ mài gươm sáng loáng,
Tay Ta cầm cán cân công lý
Xét xử công minh, đền báo lại
Báo ứng những người thù ghét Ta.
42 Mũi tên Ta say máu kẻ gian tà
Lưỡi kiếm Ta nghiến nghiền xương thịt
Đẫm máu những người bị giết
Gom thủ cấp tướng lãnh địch quân."
43 Này dân các nước thế gian!
Hãy cùng dân Chúa hân hoan ca mừng.
Dù tiêu diệt địch tàn hung,
Chúa thương xót mãi dân cùng nước ta.
44,45 Sau khi Mai-sen và Giô-suê con của Nun đọc lại bài ca cho toàn dân nghe xong,
46,47 Mai-sen căn dặn thêm: "Phải cố tâm ghi nhớ mọi điều tôi truyền lại cho đồng bào hôm nay, để rồi truyền lại cho con cháu mình. Vì các luật lệ này không phải là những lời nhảm nhí, nhưng là nguồn sống của đồng bào. Tuân hành các luật lệ này, đồng bào mới được sống lâu dài trên đất hứa, đất nước bên kia sông Giô-đan mà đồng bào sắp chiếm hữu."
48 Cùng ngày hôm ấy, Chúa bảo Mai-sen:
49 "Con lên núi Nê-bô thuộc dãy A-ra-bim trong đất Mô-áp, đối diện Giê-ri-cô để xem đất Ca-na-an là đất Ta cho Y-sơ-ra-ên.
50 Con sẽ qua đời trên núi ấy, được về cùng các tổ tiên, như A-rôn đã qua đời trên núi Hô-rơ.
51 Vì con đã không tôn kính Ta trước mặt nhân dân Y-sơ-ra-ên, tại suối nước Mê-ri-ba, vùng Ca-đe trong sa mạc Sin,
52 nên con không được vào đất Ta cho Y-sơ-ra-ên, nhưng chỉ được nhìn đất ấy từ đàng xa."
1 Trước khi qua đời, Mai-sen, người của Thượng Đế, chúc phước lành cho nhân dân Y-sơ-ra-ên như sau:
2 "Chúa Hằng Hữu đến với dân mình
Tại núi Si-nai và núi Sê-i-rơ,
Ngài chiếu sáng từ núi Pha-ran.
Chúa đến với muôn ngàn vị thánh,
Lửa bốc cháy từ tay phải Ngài.
3 Ngài yêu quý dân mình.
Các thánh của Chúa được tay Ngài bảo bọc.
4 Luật lệ Chúa do tôi tớ Ngài truyền lại
Là một kho tàng của nhà Gia-cốp.
5 Khi các nhà lãnh đạo nhân dân hội họp,
Khi các đại tộc quy tụ một nơi,
Chúa đã đăng quang trị vì
Cả quốc dân Y-sơ-ra-ên."
6 "Xin cho Ru-bên sống mãi muôn đời
Cho con cháu họ đông như sao trời."
7 Mai-sen nói về Giu-đa:
"Chúa ôi! Xin nghe lời kêu cầu của Giu-đa,
Đem họ về lãnh đạo dân ta,
Giúp họ chiến đấu chống quân thù."
8 Về đại tộc Lê-vi, Mai-sen chúc:
"Xin giao Thu-mim của Chúa cho Lê-vi,
Và U-rim cho những người đầy lòng tin kính,
Vì Chúa đã thử họ tại Ma-sa và Mê-ri-ba.
9 Một lòng tôn trọng giao ước Chúa,
Quyết tâm vâng giữ lời Ngài dạy,
Nên họ dám sẵn lòng coi nhẹ
Anh em, con cái và cha mẹ.
10 Họ sẽ dạy nhân dân luật lệ,
Thắp hương, dâng lễ thiêu trên bàn thờ Chúa.
11 Xin Chúa giúp cho họ thịnh vượng,
Chấp nhận các công việc họ làm cho Ngài.
Xin đánh nát hông kẻ thù và người ghét họ,
Khiến chúng nó không ngóc đầu lên nổi."
12 Mai-sen chúc đại tộc Bên-gia-min như sau:
"Người được Chúa yêu quý
Sẽ sống an ninh bên Ngài.
Chúa bảo bọc người mãi mãi,
Vì Ngài ngự trên người."
13 Về Giô-sép, Mai-sen chúc:
"Đất họ được Chúa ban phước lành,
Với những bổng lộc chọn lọc từ trời xanh,
Và từ nơi sâu thẳm của lòng đất.
14 Xin cho họ các sản phẩm quý nhất,
Dưới đôi vầng nhật nguyệt
Tháng tháng mùa màng thu hoạch đầy kho.
15 Cho họ hưởng hoa mầu tuyệt hảo,
Tài vật ngàn năm của núi đồi,
16 Và các thổ sản thượng hạng.
Xin ân sủng của Đấng hiện ra nơi bụi gai đang cháy
Đổ trên Giô-sép, ông hoàng của tất cả anh em.
17 Người lẫm liệt như bò đực đầu lòng,
Với cặp sừng dũng mãnh của bò rừng,
Người sẽ báng các dân tộc khác chạy đến cuối trời,
Với hàng muôn người Ép-ra-im,
Và hằng ngàn người Ma-na-se."
18 Mai-sen nói về Sa-bu-luân và Y-sa-ca:
"Sa-bu-luân hân hoan lúc ra đi,
Còn Y-sa-ca hớn hở khi ở trong trại.
19 Họ sẽ mời nhân dân lên núi
Cùng nhau dâng lễ vật cho Chúa.
Họ hưởng hải sản phong phú
Và các kho tàng chôn vùi trong cát."
20 Ông nói về Gát:
"Ngợi khen Đấng mở rộng bờ cõi Gát!
Như sư tử rình rập rồi xé nát,
Đầu và tay chân các con mồi,
21 Người chọn cho mình phần tốt nhất,
Là đất dành cho người lãnh đạo.
Người cùng các vị lãnh tụ nhân dân
Thực thi công lý của Chúa,
Xét xử toàn dân cách công minh."
22 Về Đan, Mai-sen nói:
"Đan là một sư tử con
Từ Ba-san nhảy xổ tới."
23 Ông chúc đại tộc Nép-ta-li:
"Nép-ta-li sẽ thỏa nguyện về các ân huệ,
Hưởng phước lành của Chúa tràn đầy.
Người sẽ chiếm đóng vùng đất phía tây,
Còn phía nam cũng nằm trong lãnh địa."
24,25 Về A-se, ông chúc:
"Cầu cho A-se sinh sôi con đống cháu đàn.
Xin cho người được anh em yêu chuộng,
Người sang đến độ lấy dầu rửa chân.
Then cửa người bằng đồng, bằng sắt,
Tuổi càng cao, sức người càng tăng."
26 Nào có ai như Thượng Đế ngươi?
Uy nghi ngự các tầng trời
Sẵn sàng cứu giúp khi ngươi kêu cầu.
27 Thượng Đế ngươi là Thần Hằng Hữu
Với cánh tay bao phủ đời đời
Bất luận nơi nào ngươi trú ngụ.
Ngài đuổi kẻ thù trước mặt ngươi
Và ra lệnh: Tiêu diệt đi cho rồi!
28 Nhờ thế, Y-sơ-ra-ên sống riêng biệt
An cư lạc nghiệp một nơi
Trong miền đầy rượu và ngũ cốc,
Vì đất họ đượm nhuần sương móc.
29 Y-sơ-ra-ên hạnh phúc tuyệt vời!
Khắp muôn dân ai sánh kịp ngươi,
Những người được Chúa thương cứu độ?
Ngài là thuẫn đỡ đần, che chở,
Là lưỡi kiếm thần tuyệt luân!
Kẻ thù khúm núm đầu hàng,
Nhưng ngươi chà nát tượng thần địch quân."
1 Từ đồng bằng Mô-áp, Mai-sen leo lên đỉnh Phích-ga của núi Nê-bô, đối diện Giê-ri-cô. Chúa chỉ cho ông xem toàn miền đất hứa, từ Ga-la-át cho đến đất của Đan,
2 của Nép-ta-li, Ép-ra-im, Ma-na-se, đất của Giu-đa chạy dài tận Địa Trung Hải,
3 đất miền nam và miền đồng bằng, thung lũng Giê-ri-cô (thành Cây Chà Là), và cuối cùng là Xoa.
4 Chúa bảo ông: "Đây chính là đất Ta hứa cho con cháu Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Ta đã cho con xem, nhưng con không được vào đất ấy."
5 Vậy Mai-sen, tôi tớ Chúa, qua đời trong đất Mô-áp, như Chúa đã phán.
6 Ngài chôn ông tại một thung lũng đối ngang Bết Phê-o, thuộc đất Mô-áp. Nhưng không ai biết đích xác chỗ táng xác ông.
7 Mai-sen qua đời lúc ông được một trăm hai mươi tuổi, nhưng mắt ông không làng, sức ông không giảm.
8 Nhân dân Y-sơ-ra-ên khóc thương Mai-sen tại đó suốt ba mươi ngày.
9 Giô-suê con của Nun được đầy Thần khôn ngoan, vì Mai-sen có đặt tay trên ông. Nhân dân đều vâng phục ông và làm đúng theo mọi điều Chúa truyền dạy Mai-sen.
10 Về sau, trong dân Y-sơ-ra-ên chẳng bao giờ còn xuất hiện một nhà tiên tri nào giống như Mai-sen, được Thượng Đế quen biết và thường xuyên gặp mặt như thế.
11 Không ai sánh được với Mai-sen, về các dấu kỳ phép lạ Chúa sai ông thực hiện trong nước Ai Cập, trước mặt vua quan và nhân dân Ai Cập,
12 hoặc về tất cả các công việc lớn lao và đáng sợ do bàn tay Toàn Năng của Chúa mà Mai-sen bày tỏ cho toàn dân Y-sơ-ra-ên.