Title of the document

Bản Hiện Đại
Giô-suê
1

Chúa Dạy Giô-suê

1 Sau khi Mai-sen, tôi tớ của Chúa Hằng Hữu, qua đời, Chúa Hằng Hữu bảo Giô-suê con của Nun, người phụ tá của Mai-sen:
2 "Mai-sen, tôi tớ Ta đã khuất; bây giờ con đứng ra lãnh đạo nhân dân vượt sông Giô-đan tiến vào đất hứa.
3 Như Ta đã hứa với Mai-sen, nơi nào con đặt chân đến, nơi ấy sẽ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên,
4 từ sa mạc đến núi Li-ban, từ Địa Trung Hải chạy dài đến tận sông cái Phát-giang, kể cả lãnh thổ của dân tộc Hết.
5 Suốt đời con, quân thù đều phải khuất phục. Cũng như Ta đã ở với Mai-sen, Ta sẽ ở với con luôn, không quên, không bỏ con đâu.
6 Phải can đảm, và kiên cường! Con sẽ thành công trong việc lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên chinh phục vùng đất Ta đã hứa cho tổ tiên họ.
7 Chỉ cần can đảm và kiên cường, nghiêm chỉnh tuân hành tất cả những điều luật Mai-sen đầy tớ Ta truyền lại, không tẻ tách chút nào, thì con sẽ thành công trong mọi việc.
8 Đừng xao lãng việc đọc sách luật này, nhưng phải ngày đêm suy niệm và thận trọng tuân hành; như vậy con mới thành công và được hạnh phúc.
9 Ta đã bảo con phải mạnh dạn, can đảm, đừng sợ gì cả, vì Thượng Đế Hằng Hữu luôn luôn ở với con bất cứ nơi nào con đi."

10 Sau đó Giô-suê ra lệnh cho các cấp chỉ huy:
11 "Hãy thông báo cho nhân dân chuẩn bị sẵn sàng! Trong ba ngày nữa ta sẽ vượt sông Giô-đan, tiến chiếm vùng đất Chúa cho ta."

12,13 Riêng với người thuộc đại tộc Ru-bên, đại tộc Gát và phân nửa đại tộc Ma-na-se, Giô-suê nhắc lại lời của Mai-sen, tôi tớ Chúa: Chúa đã cho đồng bào phần đất bên này sông.

14 "Vợ con, súc vật đồng bào sẽ ở lại. Còn tất cả đồng bào là người dũng cảm, được vũ trang đầy đủ phải đi tiên phong vượt sông, chiến đấu cùng với các đại tộc khác.
15 Đồng bào chỉ trở về đất mình ở bên bờ phía đông sông Giô-đan do Mai-sen, tôi tớ Chúa cấp cho, khi nào các đại tộc kia hoàn tất cuộc chiếm hữu đất đai."
16 Họ thưa: "Chúng tôi xin tuân theo mọi điều ông bảo, đi bất cứ nơi nào ông sai.
17 Chúng tôi sẽ vâng lời ông như đã vâng lời Mai-sen. Cầu xin Chúa ở cùng ông như Ngài đã ở cùng Mai-sen trước kia.
18 Người nào dám cãi lệnh ông, người đó phải chết. Xin ông cứ vững lòng, yên trí."

Bản Hiện Đại
Giô-suê
2

Hai Thám Tử và Ra-háp

1 Từ Si-tim, Giô-suê sai hai thám tử đi trinh sát đất đai và tình hình quân địch, đặc biệt là thành Giê-ri-cô. Họ ra đi, vào trú đêm tại nhà của một gái điếm tên là Ra-háp.
2 Có người hay tin, liền báo cáo cho vua Giê-ri-cô: "Đêm nay có mấy người Y-sơ-ra-ên đến do thám thành này."
3 Vua Giê-ri-cô sai người đến nhà Ra-háp, bảo: "Đem mấy người mới đến ra nạp cho ta, vì họ là thám tử của địch."
4 Lúc ấy Ra-háp vừa dẫn hai thám tử đi giấu xong, nên thưa: "Có người đến đây thật; nhưng tôi không biết họ từ đâu tới.
5 Lúc trời vừa tối, khi cổng thành sắp đóng, họ bỏ đi, tôi không rõ họ đi đâu. Nếu nhanh chân; các ông có thể đuổi kịp họ."
6 Nhưng thực ra, Ra-háp đã đem họ lên mái nhà, giấu dưới đống cây gai bà phơi trên ấy.
7 Những người ấy tin lời, chạy ra sông Giô-đan, đến những nơi nước cạn truy tầm. Vừa lúc ấy, người ta đóng cửa thành.

8 Trước khi hai thám tử ngủ, Ra-háp lên nóc nhà, nói với họ:
9 "Tôi biết Thượng Đế sắp cho các ông đất này, vì ở đây ai nấy đều khiếp sợ, âu lo khi nghe tiếng các ông.
10 Chúng tôi có nghe tin khi các ông ra khỏi Ai Cập, Thượng Đế đã vạch một con đường để các ông đi ngay qua Biển Đỏ! Chúng tôi cũng nghe các ông tiêu diệt vua Si-hôn và vua Óc của dân A-mo ở bên kia sông.
11 Những tin ấy làm chúng tôi thất kinh khiếp vía. Thượng Đế của các ông thật là Chân Thần của trời cao đất rộng.
12,13 Bây giờ, tôi xin các ông thề trước mặt Thượng Đế sẽ bảo đảm an ninh cho gia đình tôi, để cho cha mẹ, anh chị em và tất cả các người trong gia đình tôi được sống còn. Vì tôi đã giúp các ông hôm nay, xin các ông cũng thương tình giúp lại."
14 Các thám tử đáp: "Chị đã cứu mạng chúng tôi, chúng tôi sẽ cứu mạng gia đình chị. Nếu chị không tiết lộ công tác chúng tôi đang thi hành, chúng tôi sẽ giữ chữ tín, chữ nhân với chị khi Chúa cho chúng tôi đất này."

15 Vì nhà của Ra-háp ở ngay bên tường thành nên chị dùng dây thừng buộc vào cửa sổ cho hai thám tử tụt xuống, ra ngoài thành.
16 Trước khi họ đi, chị bảo: "Các ông cứ chạy về phía núi, ẩn ở đó ba ngày, đợi đến khi toán tầm nã trở về thành rồi hẵng đi."
17 Họ dặn lại chị: "Muốn chúng tôi khỏi vi phạm lời thề,
18 khi chúng tôi trở lại, chị nhớ buộc sợi dây màu đỏ này vào cửa sổ chúng tôi dùng làm lối thoát đây; đồng thời chị cũng phải tập họp cha mẹ, anh em và mọi người khác trong gia đình tại dưới nóc nhà này.
19 Chúng tôi chỉ bảo đảm an ninh cho những ai ở trong nhà này mà thôi. Ai ra khỏi nhà, chúng tôi không chịu trách nhiệm.
20 Ngoài ra, nếu chị tiết lộ công tác của chúng tôi, lời thề kia sẽ không còn hiệu lực nữa."
21 Ra-háp nói: "Tôi xin thuận theo điều kiện các ông đặt ra." Họ thoát đi. Ra-háp buộc ngay sợi dây đỏ vào cửa sổ.

22 Hai người chạy lên núi, trốn tại đó ba ngày. Toán người đi tầm nã lục lọi dọc đường, không tìm thấy các thám tử, nên đành quay về.
23 Bấy giờ, hai người xuống núi, sang sông về phúc trình cho Giô-suê mọi việc.
24 Họ kết luận: "Chúa đã đặt trọn lãnh thổ vào tay chúng ta. Dân địa phương đều khiếp đảm cả rồi."

Bản Hiện Đại
Giô-suê
3

Vượt Sông Giô-đan

1 Trời vừa sáng, Giô-suê dẫn dân từ Si-tim đi đến bờ sông Giô-đan. Họ cắm trại chờ ngày sang sông.
2-4 Ngày thứ ba, các viên chức đi khắp các trại truyền chỉ thị: "Khi thấy các thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của Chúa đi, đồng bào cứ việc đi theo. Vì đồng bào chưa đi lối này bao giờ, nên cứ theo sự hướng dẫn của Rương Giao Ước. Nhưng đừng theo gần quá, phải giữ một khoảng cách chừng tám trăm mét."

5 Giô-suê kêu gọi dân chúng giữ mình thanh sạch. Ông quả quyết: "Ngày mai Chúa sẽ làm phép lạ."

6 Theo lệnh Giô-suê, các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước ra đi; toàn dân theo sau.

7 Chúa bảo Giô-suê: "Hôm nay Ta sẽ làm cho con được vinh dự trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên, họ sẽ biết rằng Ta ở với con cũng như Ta đã ở với Mai-sen.
8 Con nhớ dặn các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước phải dừng lại, đứng nguyên tại chỗ khi chân họ vừa chấm nước sông Giô-đan."
9,10 Và Giô-suê hiệu triệu nhân dân: "Đồng bào lại gần đây nghe lời Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên. Hôm nay đồng bào sẽ thấy rằng Thượng Đế Hằng Sống đang ở giữa đồng bào, Ngài sẽ đuổi các dân tộc đang sống bên kia đi. Các dân ấy gồm người Ca-na-an, Hết, Hê-vi, Phê-rết, Ghi-rê-ga, A-mo và Giê-bu.
11 Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của cả nhân loại, sẽ dẫn đồng bào qua sông.
12 Bây giờ chọn mười hai người, mỗi đại tộc một người để nhận công tác đặc biệt.
13 Khi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của cả nhân loại, dẫm chân vào nước sông Giô-đan, dòng sông sẽ bị chia đôi, nước sông từ nguồn chảy xuống dồn lại thành một khối."

14 Vậy, toàn dân xuất trại để sang sông, theo sau Rương Giao Ước của Chúa.
15 Lúc ấy nhằm mùa gặt, nước sông Giô-đan tràn lên khắp bờ. Nhưng khi những thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước vừa dẫm chân vào nước,
16 bỗng nhiên nước từ nguồn đổ xuống ngưng lại, dồn cao lên. Khúc sông bị nước dồn lên như thế trải dài ra về phía mạn ngược đến tận A-đam, một thành gần Xát-than. Vì thế, khi nước sông phía biển cứ tiếp tục chảy ra Biển Mặn, lòng sông bắt đầu cạn ráo. Nhân dân đi qua, và trước mặt họ sừng sững thành Giê-ri-cô.
17 Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của Chúa dừng lại giữa sông, chờ dân đi qua trước. Mọi người đều đi trên phần khô ráo của lòng sông.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
4

Mười Hai Tảng Đá

1 Khi toàn thể nhân dân qua khỏi sông, Chúa dạy Giô-suê:
2,3 "Con bảo mười hai người được chọn từ mười hai đại tộc lấy đá giữa dòng sông nơi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước đang đứng, mỗi người một tảng, dựng thành một trụ đá tại nơi nhân dân dừng chân đêm nay."
4-6 Giô-suê vâng lời, gọi mười hai người ấy đến, bảo họ: "Trở ra giữa lòng sông nơi Rương Giao Ước của Chúa dừng lại, mỗi người lấy một tảng đá vác lên vai: mười hai tảng đá tượng trưng cho mười hai đại tộc Y-sơ-ra-ên. Sau này, khi hàng con cháu hỏi đến ý nghĩa của các tảng đá kia,
7 đồng bào sẽ kể cho chúng nó nghe việc nước sông Giô-đan ngừng chảy khi Rương Giao Ước của Chúa đi qua. Như thế các tảng đá ấy sẽ trở nên một đài kỷ niệm của người Y-sơ-ra-ên mãi mãi."
8 Các người ấy vâng lời Giô-suê, lấy mười hai tảng đá từ giữa dòng sông (mỗi đại tộc một tảng) đem đặt tại nơi họ nghỉ chân đêm ấy, theo lời Chúa bảo Giô-suê.
9 Giô-suê cũng lấy mười hai tảng đá trên bờ đem xếp giữa lòng sông tại nơi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước dừng lại. Đá ấy vẫn còn cho đến ngày nay.
10 Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước tiếp tục đứng giữa lòng sông cho đến khi Giô-suê thi hành xong mọi chỉ thị của Chúa, kể cả những chỉ thị Giô-suê nhận được qua Mai-sen. Vậy nhân dân qua sông một cách vội vàng.
11 Khi mọi người đã qua hết, họ đứng nhìn Rương Giao Ước của Chúa và các thầy tế lễ đi qua.

12,13 Người thuộc đại tộc Ru-bên, đại tộc Gát và phân nửa đại tộc Ma-na-se đều mang vũ khí đi tiên phong, như Mai-sen đã bảo họ. Họ gồm chừng bốn mươi ngàn người, dẫn đầu toàn dân ra trận, dưới sự chứng giám của Chúa. Họ kéo vào đồng bằng Giê-ri-cô.
14 Vậy, hôm ấy Chúa đã làm cho Giô-suê được toàn dân kính phục. Cũng như Mai-sen, Giô-suê suốt đời được nhân dân kính phục.

15-17 Giô-suê vâng lời Chúa ra lệnh cho các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước lên khỏi sông Giô-đan.
18 Vừa lúc các thầy tế lễ bước lên khỏi nước, sông Giô-đan tiếp tục chảy tràn khắp bờ như trước.

19 Nhân dân Y-sơ-ra-ên sang sông vào ngày mồng mười tháng giêng. Họ đóng trại tại Ghinh-ganh, một địa điểm phía đông thành Giê-ri-cô.
20 Đó là nơi Giô-suê xếp mười hai tảng đá đem từ giữa sông Giô-đan lên.
21 Ông nhắc lại với mọi người: "Về sau, khi con cháu chúng ta muốn biết ý nghĩa của trụ đá này,
22 chúng ta sẽ kể cho chúng nghe việc 'qua sông trên đất cạn' của nhân dân ta.
23 Thượng Đế Hằng Hữu của ta đã làm cho một khúc sông Giô-đan cạn ráo để ta đi qua, cũng giống như lúc Y-sơ-ra-ên vượt Biển Đỏ.
24 Những việc này khiến các dân tộc khác thấy quyền lực phi thường của Chúa, đồng thời làm cho người Y-sơ-ra-ên suy tôn Ngài mãi mãi."

Bản Hiện Đại
Giô-suê
5

1 Khi vua các dân tộc sống bên bờ phía tây Giô-đan (gồm dân A-mo và dân Ca-na-an sống dọc miền biển) nghe tin Chúa làm nước sông Giô-đan khô cạn cho người Y-sơ-ra ên đi qua, họ mất hết tinh thần, không còn nhuệ khí để đương đầu với người Y-sơ-ra-ên.

Lễ Cắt Bì

2 Trong lúc ấy, Chúa bảo Giô-suê: "Lấy dao bằng đá lửa để làm lễ cắt bì lần thứ hai cho người Y-sơ-ra-ên."

3 Giô-suê vâng lời, sắm dao, cắt bì cho dân tại Ghi-bê-át A-ra-lốt.
4,5 Lý do Giô-suê phải hành lễ cắt bì lần này là khi người Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai cập, những người đàn ông đủ tuổi ra trận đều đã được cắt bì, nhưng họ đều gửi thây trong sa mạc. Còn những người được sinh ra sau này chưa ai chịu lễ cắt bì.
6 Vì người Y-sơ-ra-ên không vâng lời Chúa, nên cuộc hành trình của họ phải kéo dài suốt bốn mươi năm trong sa mạc, cho đến khi toàn thế hệ ấy - những người đủ tuổi chiến đấu lúc ra khỏi Ai Cập - chết đi. -Chúa đã thề không cho họ vào đất hứa, một vùng đất phì nhiêu màu mỡ.)
7 Lần này Giô-suê làm lễ cắt bì cho thế hệ sau, gồm những người mới lớn lên thay thế địa vị cha mình, vì họ chưa chịu cắt bì.
8 Khi lễ này thi hành xong, họ ở yên trong trại cho đến khi vết cắt lành lặn.

Lễ Vượt Qua

9 Chúa bảo Giô-suê: "Ngày nay, Ta xóa sạch mối nhục Ai Cập cho con rồi." Và như thế, chỗ ấy được gọi là Ghinh-ganh cho đến ngày nay.
10 Trong thời gian cắm trại tại Ghinh-ganh trên đồng bằng Giê-ri-cô, họ ăn lễ Vượt Qua vào tối ngày mười bốn tháng giêng như thường lệ.
11,12 Ngay sau ngày lễ, họ bắt đầu dùng thổ sản làm thực phẩm, lấy hạt ngũ cốc làm bánh không men; vào ngày kế tiếp, ma-na không rơi xuống nữa. Từ đó, họ không còn thấy ma-na, nhưng sống bằng mùa màng của đất Ca-na-an.

Vị Thống Tướng

13 Đến gần thành Giê-ri-cô, Giô-suê chợt nhìn lên thấy một người cầm kiếm trần đứng trước mặt. Giô-suê bước tới, hỏi: "Ông là bạn hay thù?"
14 Người ấy đáp: "Ta là Thống Tướng quân đội của Chúa." Giô-suê vội sấp mình xuống lạy và thưa: "Chúa muốn dạy con điều gì?"
15 Vị tư lệnh quân đội Chúa bảo: "Cởi giày con ra, vì đây là đất thánh." Giô-suê vâng lời.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
6

Chiếm Đóng Giê-ri-cô

1 Lúc ấy, các cổng thành Giê-ri-cô đều đóng chặt vì sự hiện diện của người Y-sơ-ra-ên. Không một ai được phép ra vào.
2 Chúa bảo Giô-suê: "Đây, Ta cho con thành Giê-ri-cô với vua và lính chiến hùng hổ của họ.
3 Trong sáu ngày, toàn thể đội ngũ Y-sơ-ra-ên sẽ đi quanh thành mỗi ngày một vòng.
4 Bảy thầy tế lễ cầm kèn bằng sừng cừu đi trước Rương Giao Ước. Đến ngày thứ bảy, toàn quân sẽ đi quanh thành bảy vòng trong khi các thầy tế lễ thổi kèn.
5 Rồi đến khi họ thổi một tiếng kèn dài vang động, toàn dân phải hét lên thật lớn, tường thành sẽ đổ xuống. Lúc ấy, mỗi người sẽ cứ tiến thẳng vào."
6-9 Vậy, Giô-suê chỉ thị cho các thầy tế lễ và nhân dân: quân đội sẽ dẫn đầu cuộc tuần hành, kế đến là bảy thầy tế lễ vừa đi vừa thổi kèn, rồi đến Rương Giao Ước của Chúa, sau hết là đội quân hậu tập.
10 Giô-suê ra lệnh mọi người phải giữ yên lặng, đừng nói chuyện, chờ khi nào Giô-suê ra lệnh, toàn dân mới hét to lên.

11 Hôm ấy, Rương Giao Ước của Chúa được khiêng quanh thành một vòng. Mọi người về trại nghỉ ngơi qua đêm.

12-14 Ngày hôm sau, họ dậy sớm, đi quanh thành một vòng theo thứ tự như trước: quân đội, bảy thầy tế lễ thổi kèn, Rương Giao Ước của Chúa và toán hậu tập. Xong, họ trở về trại. Và mọi việc cứ được lặp lại như thế trong sáu ngày.

15 Ngày thứ bảy, mọi người dậy thật sớm. Riêng hôm ấy, họ đi quanh thành bảy vòng.
16 Đến vòng thứ bảy, khi các thầy tế lễ thổi tiếng kèn dài vang động, Giô-suê ra lệnh: "Hét lên! Chúa cho ta thành này rồi!"
17 (Ông có dặn họ: "Phải giết sạch mọi người ở trong thành trừ người gái điếm Ra-háp và tất cả những người ở trong nhà chị này, vì chị đã bao che cho các thám tử.
18 Đồng bào phải thận trọng. Cả thành phải bị tiêu diệt. Không ai được lấy một vật gì đem về trại, vì làm vậy là mang họa diệt vong cho dân ta.
19 Nhưng tất cả bạc, vàng và các dụng cụ bằng đồng, bằng sắt trong thành phải được hiến dâng cho Chúa, đem trữ vào kho của Ngài.")
20 Vừa nghe kèn lệnh thổi, toàn dân la hét vang trời, và tường thành đổ xuống. Quân Y-sơ-ra-ên xông vào, mọi người nhắm thẳng phía trước tiến lên, chiếm thành.
21 Họ dùng kiếm giết sạch cả người lẫn vật - nam, phụ, lão, ấu; bò, cừu, lừa...

22 Giô-suê bảo hai thám tử: "Vào nhà Ra-háp, dẫn chị ấy và mọi người trong nhà ra, vì các con đã có lời thề."
23 Hai thám tử vâng lời Giô-suê, đem Ra-háp và cha mẹ, anh em cùng tất cả người nhà chị này ra, cho họ trú ngụ tại một nơi bên ngoài trại Y-sơ-ra-ên.
24 Sau đó, người Y-sơ-ra ên phóng hỏa đốt thành, thiêu sạch tất cả, chỉ trừ bạc vàng, dụng cụ bằng đồng, bằng sắt được đem vào kho tàng của nhà Chúa.
25 Giô-suê tha chết cho Ra-háp và tất cả những người trong nhà chị, vì chị đã bao che cho các thám tử được sai đi trinh sát Giê-ri-cô. Gia đình này vẫn tiếp tục sống bên cạnh người Y-sơ-ra-ên.

26 Giô-suê tuyên bố: "Xin Chúa chứng giám, nếu có ai xây lại thành Giê-ri-cô này, người ấy phải bị nguyền rủa. Con trưởng nam người ấy sẽ chết khi đặt nền móng thành; con trai út sẽ chết khi dựng cổng thành."

27 Vậy Chúa ở với Giô-suê, và danh tiếng ông vang lừng khắp nơi.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
7

Thua Trận A-hi

1 Nhưng người Y-sơ-ra-ên liên đới mang tội với Chúa, vì có người phạm luật liên hệ đến các vật phải bị tiêu hủy. Người ấy là A-can (con trai Cạt-mi, cháu Xáp-đi, chắt Xê-rách, thuộc đại tộc Giu-đa); ông đã lấy trộm một vài thứ trong thành Giê-ri-cô. Vì thế Chúa giận Y-sơ-ra-ên lắm.

2 Từ Giê-ri-cô, Giô-suê sai người đi do thám thành A-hi. Thành này gần Bết A-ven, về phía đông Bê-tên.
3 Ở A-hi về, các thám tử đề nghị: "Ta chỉ cần gửi vài ngàn quân đi đánh A-hi là đủ. Không cần xuất toàn lực vì thành này nhỏ bé, ít dân."
4 Vậy, chừng ba ngàn quân ra đi, nhưng họ bị đánh bại và phải bỏ chạy.
5 Người A-hi đánh đuổi họ từ cổng thành đến tận Sê-ba-rim, tấn công lúc xuống đồi và giết chừng ba mươi sáu người. Lòng người Y-sơ-ra-ên tan ra như nước.

6 Giô-suê và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên xé áo mình, bốc bụi đất bỏ lên đầu, quì mọp xuống đất trước Rương Giao Ước của Chúa cho đến tối.
7 Giô-suê nói: "Thượng Đế Hằng Hữu ôi! Ngài đem chúng con qua sông Giô-đan làm gì? Để cho người A-mo tiêu diệt chúng con sao? Nếu thế, chúng con thà ở lại bên kia sông cho xong.
8 Chúa ôi! Khi Y-sơ-ra-ên phải quay lưng chạy trốn quân địch, con còn nói gì được nữa?
9 Dân Ca-na-an và các dân địa phương khác khi nghe tin này, sẽ kéo đến bao vây và xóa tên Y-sơ-ra-ên khỏi lịch sử nhân loại. Còn tên cao cả của Chúa thì sao?"

10 Chúa bảo Giô-suê: "Đứng lên! Tại sao con phải sấp mình xuống đất như vậy?
11 Y-sơ-ra-ên có tội. Họ đã không tuân lệnh Ta, lấy trộm vật đáng bị hủy diệt, đem giấu diếm trong trại mình.
12 Vì lý do đó, Y-sơ-ra-ên bị bại trận. Họ bị quân thù đuổi chạy vì đã phạm luật về các vật phải bị hủy diệt. Nếu các vật ấy không bị đem ra tiêu hủy, Ta sẽ không ở cùng Y-sơ-ra-ên nữa.
13,14 Con đứng lên, bảo nhân dân: 'Phải dọn mình thanh sạch, vì Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên phán: Trong nhân dân, có người đang giấu giếm vật đáng bị hủy diệt. Y-sơ-ra-ên sẽ không cự nổi địch quân nếu không loại trừ các vật ấy. Vì sáng ngày mai, các đại tộc sẽ được gọi đến trước Chúa. Đại tộc nào bị Ngài điểm tên, các họ trong đại tộc ấy phải được gọi đến. Họ nào bị Ngài điểm tên, các gia đình thuộc họ ấy phải được gọi đến. Gia đình nào bị Ngài điểm tên, những người trong gia đình ấy phải được gọi đến.
15 Người bị điểm tên là người trộm của đáng bị hủy diệt, sẽ bị hỏa thiêu chung với tất cả những gì thuộc về người ấy, vì đã vi phạm giao ước Chúa và làm điều xấu xa, nhơ nhuốc cho Y-sơ-ra-ên.' "

16 Ngày hôm sau, Giô-suê dậy sớm, gọi các đại tộc đến chầu Chúa. Đại tộc Giu-đa bị điểm tên.
17 Giô-suê gọi các họ thuộc đại tộc Giu-đa đến, họ Xê-rách bị điểm tên. Ông gọi các gia đình thuộc họ Xê-rách đến, gia đình Xáp-đi bị điểm tên.
18 Ông gọi những người trong gia đình Xáp-đi đến, A-can (con Cát-mi, cháu Xáp-đi, chắt Xê-rách, đại tộc Giu-đa) bị điểm tên.

19 Giô-suê nói với A-can: "Con nhường vinh quang cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, và thú tội đi. Đừng giấu giếm gì cả, cứ khai ra mọi điều con đã làm."
20 A-can thú: "Đúng, con đã phạm tội với Chúa.
21 Con đã sinh lòng tham khi thấy chiếc áo choàng lộng lẫy hàng Ba-by-luân, hai trăm lạng bạc và một thỏi vàng nặng chừng năm mươi lạng. Con lấy các vật ấy đem giấu dưới đất trong trại, để bạc dưới cùng."

22 Giô-suê liền sai mấy người đến trại A-can. Họ tìm thấy các vật chôn trong trại, bạc ở dưới cùng.
23 Họ đem tất cả về đặt dưới đất trước mặt Giô-suê và mọi người, có Chúa chứng giám.
24 Giô-suê và mọi nguời có mặt tại đó bắt A-can con Xê-rách dẫn đến thung lũng A-cô. Họ cũng đem theo bạc, áo choàng, vàng, các con A-can, cùng với bò, lừa, cừu, trại và tất cả những gì thuộc về A-can.
25 Giô-suê nói: "Vì con gây tai họa cho Y-sơ-ra-ên, nên Chúa cho con gặp tai họa hôm nay." Mọi người lấy đá ném, lấy lửa đốt A-can và tất cả những gì thuộc về ông.
26 Sau đó, họ lấy đá chất thành một đống lớn trên người và vật vừa bị hỏa thiêu. Cho đến ngày nay, đống đá ấy vẫn còn, và nơi ấy vẫn được gọi là thung lũng A-cô. Sau việc ấy, Chúa nguôi giận.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
8

Thắng Trận A-hi

1 Chúa bảo Giô-suê: "Đừng sợ gì cả. Con đem tất cả quân đội đi đánh A-hi, vì Ta cho con cả vua lẫn dân, cả thành lẫn đất này.
2 Con sẽ đối xử với A-hi và vua thành này như con đã đối xử với Giê-ri-cô, chỉ có điều khác là con được giữ chiến lợi phẩm và súc vật bắt được cho mình. Con sẽ phục kích phía sau thành này."

3 Trước khi Giô-suê đem toàn quân đến A-hi, ông chọn ba mươi ngàn chiến sĩ dũng cảm sai đi phục kích thành vào đêm ấy.
4 Ông dặn họ: "Anh em đi phục kích phía sau thành. Đừng ở xa thành, nhưng phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.
5 Tôi sẽ dẫn tất cả quân còn lại tiến đến trước thành. Địch quân sẽ kéo ra nghênh chiến, và như lần trước, chúng tôi sẽ chạy trốn.
6 Họ sẽ đuổi theo, bụng bảo dạ: 'Chúng nó lại chạy trốn như lần trước rồi.' Và như thế, chúng tôi dụ họ ra khỏi thành.
7 Lúc ấy, đạo quân phục kích sẽ xông lên chiếm thành, vì Chúa đã cho anh em thành ấy.
8 Phải phóng hỏa đốt thành theo lệnh Chúa. Tất cả phải nhớ lời dặn."
9 Đêm ấy đạo quân phục kích đến mai phục tại khoảng giữa Bê-tên và phía tây A-hi, còn Giô-suê và đạo quân còn lại vẫn ở nguyên trong trại tại Giê-ri-cô.

10 Sáng hôm sau, Giô-suê dậy sớm kiểm điểm quân đội, rồi cùng các trưởng lão Y-sơ-ra-ên dẫn quân đi đánh A-hi.
11 Họ đến khá gần thành, chỉ còn cách một thung lũng nữa là đến A-hi. Họ cắm trại tại đó, về phía bắc của thành.
12 Giô-suê cắt thêm năm ngàn quân nữa đi phục kích giữa Bê-tên và phía tây A-hi.
13 Vậy, toán chủ lực đóng ở phía bắc, còn toán phục kích nằm ở phía tây thành. Nhưng đêm ấy, Giô-suê một mình đi vào giữa thung lũng.

14 Khi thấy người Y-sơ-ra-ên, vua A-hi vội vàng đốc thúc quân sĩ dậy sớm. Họ kéo nhau ra khỏi thành, tiến về phía đồng bằng, đến một điểm tập trung định sẵn để nghênh chiến. Nhưng vua A-hi không ngờ có một cánh quân phục kích phía sau thành.
15 Giô-suê và chủ lực quân Y-sơ-ra-ên vờ thua, bỏ chạy về phía sa mạc.
16 Người A-hi gọi nhau rượt đuổi quân thù và càng lúc họ càng ra xa thành.
17 Và như thế, thành A-hi và Bê-tên đều bỏ trống, không có lấy một tên quân canh giữ.

18 Lúc ấy, Chúa bảo Giô-suê: "Chỉ mũi giáo của con hướng về thành A-hi, vì Ta cho con thành ấy." Giô-suê vâng lời.
19 Ngay khi ông đưa giáo chỉ thành A-hi, đội phục binh nhảy ra khỏi vị trí, xông vào chiếm thành, rồi vội vàng nổi lửa đốt thành.

20-22 Khói xông lên mù mịt. Giô-suê và quân sĩ theo ông thấy khói, biết rằng cánh phục binh đã chiếm thành, liền quay lại phản công. Quân A-hi cũng quay lại, thấy thành mình đang cháy, và thấy quân Y-sơ-ra-ên từ thành xông ra chặn mất lối về. Trong khi người A-hi tiến thoái lưỡng nan, người Y-sơ-ra-ên hai mặt xáp lại, chém giết tơi bời, đến nỗi không còn một binh sĩ A-hi nào sống sót hoặc tẩu thoát.
23 Vua A-hi bị bắt sống và bị giải đến cho Giô-suê.

24 Khi quân Y-sơ-ra-ên đã giết sạch đám quân A-hi bên ngoài thành, họ quay vào thành giết hết những người còn lại.
25 Toàn dân A-hi, cả đàn ông lẫn đàn bà gồm chừng mười hai ngàn người, đều bị tiêu diệt hôm ấy.
26 Giô-suê tiếp tục chỉ mũi giáo vào thành cho đến khi mọi người A-hi bị giết hết.
27 Người Y-sơ-ra-ên bắt súc vật, thu chiến lợi phẩm cho mình, vì Chúa có bảo Giô-suê cho phép.
28 Vậy, thành A-hi bị quân đội Giô-suê thiêu hủy, đến nay chỉ còn một đống gạch vụn.
29 Giô-suê treo vua A-hi lên cây cho đến khi mặt trời lặn. Tối đó ông cho người gỡ xác xuống, ném ra ngoài cổng thành, rồi lấy đá chất lên thành một đống lớn, còn cho đến ngày nay.

Bàn Thờ Trên Núi Ê-banh

30 Sau đó, Giô-suê xây một bàn thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên trên núi Ê-banh,
31 đúng theo lệnh của Mai-sen, tôi tớ Chúa. Bàn thờ này được xây bằng đá nguyên tảng, không đục đẻo, như đã chép trong sách luật của Mai-sen. Trên bàn thờ ấy, người ta dâng tế lễ thiêu và tế lễ thù ân cho Chúa.
32 Giô-suê khắc trên đá bàn thờ bộ luật Mai-sen, trước sự chứng kiến của nhân dân Y-sơ-ra-ên.

33 Vì Mai-sen có dặn bảo trước về việc chúc phước cho Y-sơ-ra-ên, nên vào hôm ấy, toàn thể nhân dân kể cả các trưởng lão, viên chức thẩm phán, công dân và ngoại kiều đều chia nhau ra làm hai nhóm: Phân nửa đứng trước núi Ga-ri-xim, phân nửa đứng trước núi Ê-banh. Giữa hai nhóm ấy có Rương Giao Ước với các thầy tế lễ người Lê-vi, những người khiêng Rương Giao Ước.
34 Giô-suê đọc tất cả những lời chúc phước và những lời nguyền rủa đã được ghi trong sách luật.
35 Mọi người, gồm cả nam phụ lão ấu và khách ngoại kiều, đều nghe Giô-suê đọc tất cả luật lệ của Mai-sen.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
9

Liên Minh Ca-na-an

1,2 Khi nghe được tin này, các vua của người Hết, A-mo, Ca-na-an, Phê-rơ, Hê-vi và Giê-bu liền liên minh với nhau để kháng cự Giô-suê và người Y-sơ-ra-ên. Đó là vua của các dân tộc sống bên bờ phía tây, ở dưới đồng bằng cũng như ở trên núi, cho đến tận núi Li-ban.

Dân Ga-ba-ôn

3 Thế nhưng, khi dân ở Ga-ba-ôn nghe tin Giô-suê phá thành Giê-ri-cô và A-hi,
4,5 thì dùng mưu kế để đối phó. Họ sai mấy sứ giả lên đường. Những người này ăn mặc áo quần tả tơi, mang giày mòn đế; họ chất lên lưng lừa những bao cũ nát và các bình da đựng rượu thủng rách được vá víu lại; lương thực của họ là những mẩu bánh vụn khô đét.
6 Họ đến trại của người Y-sơ-ra-ên đóng ở Ghinh-ganh, gặp Giô-suê, nói với ông và người Y-sơ-ra-ên: "Chúng tôi đến từ một xứ xa xôi để xin kết hòa ước với các ông."
7 Nhưng người Y-sơ-ra-ên hỏi mấy người Hê-vi đó: "Các ông là người địa phương chứ gì? Làm sao kết hòa ước được?"
8 Họ nói với Giô-suê: "Chúng tôi là đầy tớ của ông." Giô-suê hỏi: "Các ông là ai? Từ đâu tới?"
9 Họ đáp: "Chúng tôi đến từ một xứ rất xa. Chúng tôi được nghe uy Danh Thượng Đế của các ông qua những tin tức từ Ai Cập,
10 và qua những điều Ngài làm cho hai vua A-mo: Si-hôn vua Hết-bôn, và Óc vua Ba-san ở Ách-ta-nốt, bên kia sông Giô-đan.
11 Vì vậy, các trưởng lão và nhân dân sai chúng tôi đến gặp các ông, trình rằng: Dân chúng tôi cam phận tôi tớ, không dám kháng cự, chỉ xin được kết hòa ước.
12 Này, các ông xem, bánh lúc chúng tôi ra đi còn nóng hổi, nhưng bây giờ đã khô đét, vỡ vụn.
13 Các bầu đựng rượu này vốn là bầu mới, nhưng nay đã rách. Áo quần, giày dép chúng tôi cũng cũ mòn vì hành trình lâu ngày."
14 Các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên nghe lời họ, không chờ cầu xin chỉ thị của Chúa.
15 Giô-suê kết ước với họ, hứa cho họ sống còn. Các nhà lãnh đạo nhân dân thề tôn trọng hòa ước.
16 Nhưng chỉ ba ngày sau, người ta khám phá ra rằng những người ấy là dân địa phương.
17 Người Y-sơ-ra-ên liền lên đường lùng kiếm. Sau ba ngày, họ tìm ra các thành của những người ấy ở, gồm thành Ga-ba-ôn, Kê-phi-ra, Bê-ê-rốt và Ki-ri-át Giê-a-rim.
18 Nhưng vì các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên đã có lời thề trước Chúa, nên quân đội không ra tay được; vì thế, trong cộng đồng Y-sơ-ra-ên, ai cũng phàn nàn các nhà lãnh đạo mình.
19 Các nhà lãnh đạo lên tiếng: "Vì chúng tôi đã thề với họ trước Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, nên bây giờ không ai được đụng đến họ.
20,21 Chúng ta phải để cho họ sống. Nếu chúng ta không giữ lời thề, cơn thịnh nộ của Chúa sẽ trút trên chúng ta." Vậy, dân các thành ấy trở nên những người giúp việc cho Y-sơ-ra-ên, lo việc đốn củi xách nước.

22 Giô-suê gọi dân các thành ấy đến trách: "Tại sao các ông đánh lừa chúng tôi, nói rằng ở cách đây rất xa trong khi chỉ là người địa phương?
23 Thế nên bây giờ các ông sẽ bị nguyền rủa, không một ai sẽ thoát khỏi ách nô dịch. Mọi người phải lo đốn củi xách nước, làm nô dịch cho nhà của Thượng Đế chúng tôi."
24 Họ đáp lời Giô-suê: "Vì có một nguồn tin tức xác đáng cho chúng tôi hay rằng Thượng Đế các ông đã ra lệnh cho tôi tớ Ngài là Mai sen phải chiếm trọn đất này và giết sạch mọi người. Chúng tôi sợ các ông quá cho nên mới làm như vậy.
25 Bây giờ, chúng tôi ở trong tay các ông, các ông muốn đối xử thế nào tùy ý."
26,27 Và như thế, Giô-suê không cho người Y-sơ-ra-ên giết họ. Từ đó, họ trở thành nô dịch, phải cung cấp củi, nước cho dân Y-sơ-ra-ên và cho bàn thờ của Chúa tại nơi nào bàn thờ của Ngài được xây lên.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
10

Chiến Thắng Năm Vua Miền Nam

1 A-đô-ni-xê-đéc vua Giê-ru-sa-lem khiếp sợ khi nghe Giô-suê chiếm và tiêu diệt A-hi, giết vua thành ấy như Giô-suê đã làm ở Giê-ri-cô, lại được tin Ga-ba-ôn đã kết hòa ước và đứng về phe Y-sơ-ra-ên.
2 (Ga-ba-ôn là một thành phố lớn vào loại đế đô, lớn hơn A-hi nhiều, lại có nhiều người dũng cảm.)
3 Thế nên, A-đô-ni-xê-đéc vua Giê-ru-sa-lem sai người đi cổ động Hô-ham vua Hếp-rôn Phi-ram vua Giạt-mút, Gia-phia vua La-ki và Đê-bia vua éc-lôn như sau:
4 "Xin đến đây giúp tôi đánh Ga-ba-ôn vì họ đã kết hòa ước với Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên."
5 Vậy, năm vua người A-mo (vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki và éc-lôn) liên minh kéo quân đến đánh thành Ga-ba-ôn.

6 Dân Ga-ba-ôn liền sai người đến Ghinh-ganh cầu cứu với Giô-suê: "Xin đừng bỏ chúng tôi! Xin đến cứu viện chúng tôi ngay, vì tất cả các vua A-mo ở miền đồi núi đang liên minh kéo đến tấn công."
7 Từ Ghinh-ganh, Giô-suê dẫn toàn lực lượng quân đội ra đi.
8 Chúa bảo Giô-suê: "Đừng sợ, vì Ta nạp tính mạng họ vào tay con, không ai kháng cự với con được cả."
9 Vậy, Giô-suê rời Ghinh-ganh, đi suốt đêm, đến tấn công địch đột ngột.
10 Chúa khiến địch quân hoảng hốt. Vì thế, quân Y-sơ-ra-ên chém giết vô số địch quân ở Ga-ba-ôn, và đuổi theo đám tàn quân chạy xuống dốc Bết-hô-rôn, chận giết họ tại A-xê-ca và Ma-kê-đa.
11 Khi họ bị đuổi chạy xuống dốc Bết-hô-rôn, Chúa cho một trận mưa đá rất lớn trút trên họ từ đó cho đến A-xê-ca. Số địch chết vì mưa đá nhiều hơn cả số chết vì lưỡi kiếm của người Y-sơ-ra-ên.

12 Trong khi Chúa giao nạp tính mạng quân thù vào tay người Y-sơ-ra-ên, Giô-suê đứng trước toàn quân, cầu xin Chúa cho mặt trời dừng lại trên Ga-ba-ôn, mặt trăng dừng lại trên thung lũng A-gia-long.
13 Bóng mặt trời không di động, mặt trăng không chuyển vần cho đến lúc quân Y-sơ-ra-ên tiêu diệt xong quân thù. Việc này được chép trong sách Gia-sa. Người ta thấy ánh dương vẫn tiếp tục chiếu sáng vòm trời thêm chừng một ngày nữa, chưa vội tắt.
14 Trong quá khứ cũng như tương lai, không có một ngày nào như hôm ấy; vì Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của một người, và Ngài chiến đấu cho Y-sơ-ra ên.

15 Sau đó, Giô-suê rút quân về Ghinh-ganh.

16,17 Trong trận này, năm vua của địch dẫn nhau chạy vào một cái hang ở Ma-kê-đa để ẩn mình. Nhưng người Y-sơ-ra-ên thấy được, liền báo cáo lên Giô-suê.
18 Giô-suê ra lệnh: "Lăn đá lấp miệng hang rồi canh gác cẩn thận!
19 Còn các anh em khác cứ tiếp tục đuổi theo địch quân, tấn công hậu tập vì Chúa đã giao tính mạng họ vào tay anh em."
20 Vậy, Giô-suê và quân Y-sơ-ra-ên chém giết vô số, tiêu diệt quân thù, chỉ còn một số ít chạy thoát vào các thành kiên cố mà thôi.
21 Quân Y-sơ-ra-ên rút về trại mình ở Ma-kê-đa, hoàn toàn vô sự, vì địch quân không dám kháng cự.

22,23 Giô-suê hạ lệnh khai hang, đem năm vua địch (vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki và éc-lôn) ra.
24 Giô-suê triệu tập toàn thể quân sĩ lại. Ông bảo các tướng giẫm chân trên cổ của các vua kia,
25 và nói với mọi người: "Đừng sợ gì cả. Anh em hãy can đảm lên, vì tất cả những kẻ thù ta phải đương đầu sẽ bị Chúa xử trí như vậy."
26 Nói xong, Giô-suê giết chết năm vua ấy, đem xác treo trên năm cái cây cho đến tối.
27 Lúc mặt rời lặn, Giô-suê cho người gỡ xác từ trên cây xuống, đem quăng vào cái hang họ đã trốn trước đó. Người ta lấy đá lớn lấp miệng hang lại, và đá ấy vẫn còn cho đến nay.

28 Cùng ngày hôm ấy, Giô-suê chiếm thành Ma-kê-đa, dùng lưỡi kiếm giết cả vua lẫn dân thành ấy không sót một người. Vậy, vua Ma-kê-đa cũng chịu đồng số phận với vua Giê-ri-cô.

29 Sau đó, Giô-suê đem quân tấn công Líp-na.
30 Chúa giao nạp vua và thành Líp-na cho Y-sơ-ra-ên, họ không để một ai sống sót. Vua Líp-na cũng chịu chung số phận với vua Giê-ri-cô.

31 Từ Líp-na, Giô-suê kéo quân đến La-ki. Sau khi cắm trại, họ tấn công thành.
32 Vào ngày thứ hai, Chúa cho Y-sơ-ra-ên thành La-ki. ễ đây, họ cũng giết sạch mọi người như ở Líp-na.

33 Hô-ram vua Ghê-xe đem quân cứu viện La-ki, nhưng cũng bị quân của Giô-suê tiêu diệt.

34 Giô-suê kéo quân từ La-ki đến éc-lôn. Hạ trại xong, họ tấn công thành.
35 Quân Y-sơ-ra-ên chiếm thành éc-lôn ngay hôm ấy, giết hết mọi người cũng như ở La-ki.

36 Từ éc-lôn, Giô-suê kéo quân đi tấn công Hếp-rôn.
37 Họ chiếm Hếp-rôn và các thành phụ cận, giết hết dân cư ở đó cũng như ở éc-lôn, không sót một người.

38 Sau đó, Giô-suê đem quân về tấn công thành Đê-bia.
39 Y-sơ-ra-ên chiếm Đê-bia và các thành phụ cận, không để cho một ai sống sót cũng như ở Hếp-rôn và Líp-na.

40 Vậy, Giô-suê bình định lãnh thổ, từ miền núi cho đến đồng bằng và đồi dốc, cả niền nam, tiêu diệt các vua, không để cho một người dân sống sót, đúng theo lệnh Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên.
41 Giô-suê thôn tính từ Ca-đe-ba-nê-a đến Ga-xa, từ Gô-sen đến Ga-ba-ôn.
42 Các vua và lãnh thổ của họ đồng loạt bị chinh phục, vì chính Chúa chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên.

43 Sau chiến dịch càn quét, Giô-suê rút quân về căn cứ Ghinh-ganh.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
11

Chiến Thắng Miền Bắc

1 Khi Gia-bin, vua Hát-so, nghe các tin này, liền liên minh với các vua sau đây: vua Giô-báp ở Ma-đôn, vua Sim-rôn, vua ạc-sáp,
2 các vua miền núi phía bắc, các vua miền đồng bằng phía nam Ki-nê-rết, miền thung lũng và miền biên giới Đô-rơ ở phía tây,
3 các vua Ca-na-an ở miền đông và miền tây, các vua A-mo, Hết, Phê-rết, vua Giê-bu ở miền núi, vua Hê-vi ở chân núi Hẹt-môn trong xứ Mích-ba.
4 Các vua này động viên toàn lực - chiến sĩ, chiến xa và chiến mã - kéo ra đông như cát biển.
5 Họ liên minh với nhau, đem quân đến đóng ở các dòng nước Mê-rôm để tranh chiến với Y-sơ-ra-ên.
6 Chúa bảo Giô-suê: "Đừng sợ họ, vì ngày mai, vào giờ này, họ đều là những xác không hồn. Con phải cắt nhượng chân ngựa và đốt chiến xa họ đi."
7 Giô-suê liền đem toàn lực đến tấn công đột ngột gần Mê-rôm,
8 Chúa nạp tính mạng địch vào tay Y-sơ-ra-ên; họ chém giết một phần, đuổi theo phần còn lại cho đến Si-đôn Lớn, Mít-rê-phốt Ma-im và thung lũng Mích-bê ở phía đông, rồi giết không còn một mạng.
9 Theo lệnh Chúa, Giô-suê cho cắt nhượng chân ngựa và thiêu hủy chiến xa địch.

10 Giô-suê quay về chiếm Hát-so, giết vua Gia-bin, vì Hát-so vốn là kinh đô của các vương quốc kia.
11 Dân trong thành đều bị giết và thành bị đốt cháy.
12 Giô-suê cũng chiếm và tàn phá thành của các vua kia, giết hết các vua ấy theo đúng lệnh Mai-sen, tôi tớ Chúa đã truyền.
13 Nhưng Giô-suê không đốt những thành xây trên đồi, trừ thành Hát-so.
14 Người Y-sơ-ra-ên tịch thu chiến lợi phẩm, kể cả súc vật, nhưng họ giết sạch dân các thành ấy.
15 Tất cả những điều Chúa dặn bảo Mai sen, tôi tớ Ngài, đều được Mai-sen truyền lại cho Giô-suê, và Giô-suê nghiêm chỉnh thi hành.

16 Vậy Giô-suê chinh phục toàn vùng đất hứa gồm miền cao nguyên, miền nam, đất Gô-sen, miền thung lũng, miền đồng bằng, vùng núi đồi và thung lũng Y-sơ-ra-ên;
17 từ núi Ha-lác đối diện Sê-i-rơ, đến Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban, dưới chân núi Hẹt-môn. Tất cả vua của các miền này đều bị giết chết.
18 Giô-suê phải mất một thời gian khá dài để bình định lãnh thổ.
19 Ngoại trừ thành Ga-ba-ôn của người Hê-vi, các thành khác đều bị Y-sơ-ra-ên chinh phục bằng quân lực, không bằng hòa ước.
20 Vì Chúa làm cho các dân tộc ấy trở nên ngoan cố, quyết định chiến đấu với Y-sơ-ra-ên, và Y-sơ-ra-ên có dịp tận diệt họ như lời Chúa bảo Mai-sen.

21,22 Đồng thời, Giô-suê cũng chinh phạt người A-na-kim trên các đồi núi Hếp-rôn, Đê-bia, A-náp, Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Ngọai trừ một số ít còn sót ở Ga-xa, Gát và Ách-dốt, người A-na-kim và thành trì của họ nằm trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên đều bị tiêu diệt.

23 Như thế, Giô-suê chiếm toàn diện lãnh thổ, thực hiện lời Chúa hứa với Mai-sen. Ông đem đất chia cho nhân dân Y-sơ-ra-ên, mỗi đại tộc chiếm một vùng. Trong khắp nước, chiến tranh không còn nữa.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
12

Ba Mươi Mốt Vua

1 Đây là danh sách các vua phía đông sông Giô-đan bị người Y-sơ-ra-ên đánh bại và lãnh thổ của họ đã bị Y-sơ-ra-ên chiếm hữu: (Đất của họ chạy dài từ thung lũng sông ạt-nôn đến núi Hẹt-môn, gồm cả các đồng bằng miền đông.)

2 Si-hôn, vua người A-mo, đóng đô ở Hết-bôn, cai trị một vùng từ thành A-rô-e bên bờ sông ạt-nôn, và từ giữa thung lũng này cho đến sông Gia-bộc, (biên giới của đất Am-môn), gồm phân nửa đất Ga-la-át.
3 Đất vua này còn gồm các đồng bằng miền đông, từ bờ phía đông biển Ki-nê-rốt chạy cho đến Biển Mặn (đường đi về Bết-giê-si-mốt) và triền núi Phích-ga về phía nam.

4 Óc, vua Ba-san (người khổng lồ còn sót lại), đóng đô ở Ách-ta-rốt ết-rê-i,
5 cai trị vùng núi Hẹt-môn, vùng Sanh-ca, toàn đất Ba-san (giáp giới với đất của người Ghê-sua và người Ma-ca) và phân nửa đất Ga-la-át (giáp giới với đất của Si-hôn vua Hết-bôn).
6 Các vua trên bị người Y-sơ-ra-ên đánh bại dưới thời Mai-sen. Mai-sen, tôi tớ của Chúa, lấy phần đất này chia cho đại tộc Ru-bên, đại tộc Gát và phân nửa đại tộc Ma-na-se.

7 Và đây là danh sách các vua phía tây sông Giô-đan bị Giô-suê và người Y-sơ-ra-ên đánh bại: (Đất của họ chạy dài từ Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban cho đến núi Ha-lác ngang núi Sê-i-rơ. Đất này được Giô-suê đem chia cho các đại tộc còn lại,
8 gồm cả vùng cao nguyên, thung lũng, đồng bằng, triền núi, sa mạc và miền nam. Đó là đất của người Hết, A-mo, Ca-na-an, Phê-rết, Hê-vi và Giê-bu.)

9 Vua Giê-ri-cô, vua A-hi gần Bê-tên,

10 vua Giê-ru-sa-lem, vua Hếp-rôn,

11 vua Giạt-mút, vua La-ki,

12 vua éc-lôn, vua Ghê-xe,

13 vua Đê-bia, vua Ghê-đe,

14 vua Họt-ma, vua A-rát,

15 vua Líp-na, vua A-đu-lam,

16 vua Ma-kê-đa, vua Bê-tên,

17 vua Tháp-bu-ách, vua Hê-phe,

18 vua A-phéc, vua La-sa-rôn,

19 vua Ma-đôn, vua Hát-so,

20 vua Sim-rôn-Mê-rôn, vua ạc-sáp,

21 vua Tha-a-nác, vua Mê-ghi-đô,
22 vua Kê-đe, vua Giốc-nê-am ở Cát-mên,

23 vua Đô-rơ ở Na-phát-đo, vua Gô-im ở Ghinh-ganh,

24 và vua Thiệt-sa.

Tổng cộng ba mươi mốt vua.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
13

Chia Đất

1 Thời gian trôi qua, Giô-suê đã cao tuổi. Chúa nói với ông: "Tuổi con đã cao, đất chưa chiếm còn nhiều.
2,3 Đó là vùng đất của người Phi-li-tin, của người Ghê-sua (được coi như người Ca-na-an) từ sông Si-ho gần Ai Cập chạy về phía bắc cho đến biên giới éc-rôn, đất của năm lãnh chúa Phi-li-tin gồm Ga-xa, Ách-đốt, Ách-kê-lôn, Gát và éc-rôn, đất của người A-vim
4 ở phía nam, đất của người Ca-na-an từ Mê-a-ra gần Si-đôn cho đến A-phéc gần biên giới A-môn,
5 đất của người Ghi-ba, đất Li-ban từ Ba-anh Gát ở phía đông, dưới chân núi Hẹt-môn cho đến lối vào Ha-mát,
6 các vùng núi non của người Si-đôn từ núi Li-ban cho đến Mích-rê-phốt Ma-im. Ta sẽ đuổi các dân này ra, họ sẽ bị Y-sơ-ra-ên đánh bại. Con sẽ theo lời Ta dặn, chia đất cho người Y-sơ-ra-ên.
7 Đất này sẽ thuộc về chín đại tộc và nửa đại tộc Ma-na-se còn lại."

Tả Ngạn Giô-đan

8 Trước đây Mai-sen, tôi tớ Chúa, đã chia đất bên bờ phía đông sông Giô-đan cho đại tộc Ru-bên, đại tộc Gát và nửa đại tộc Ma-na-se.
9 Đất của họ chạy dài từ A-rô-e trên triền thung lũng ạt-nôn, gồm các thành ở giữa thung lũng này và các miền cao nguyên Mê-đê-ba cho đến tận Đi-bôn;
10 đất này cũng gồm các thành của Si-hôn vua A mo, có kinh đô ở Hết-bôn, cho đến biên giới người Am-môn;
11 gồm cả đất Ga-la-át; đất của dân Ghê-sua, dân Ma-a-cát; vùng núi Hẹt-môn; đất Ba-san và Sanh-ca;
12 đất của Óc vua Ba-san, có kinh đô ở Ách-ta-rốt và ết-rê-i (vua này là vua người khổng lồ cuối cùng còn lại, vì Mai-sen đã đánh đuổi họ đi.
13 Còn người Ghê-sua và Ma-a-cát không bị Y-sơ-ra-ên đuổi đi nên cho đến nay họ vẫn sống chung với người Y-sơ-ra-ên trong địa phương này.)

14 Khi chia đất cho các đại tộc, Mai-sen đã không chia cho người Lê-vi, vì phần của họ là các lễ vật do người Y-sơ-ra-ên đem dâng cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên. Ngài đã bảo họ như thế.

15 Mai-sen chia cho đại tộc Ru-bên một phần đất tương xứng với số gia đình của đại tộc này.
16 Đất của họ chạy từ A-rô-e trên triền thung lũng ạt-nôn, gồm có thành ở giữa thung lũng này và các cao nguyên Mê-đê-ba
17 cho đến Hết-bôn với các thành trong đồng bằng: Đi-bôn, Ba-mốt-ba-anh, Bết-ba-anh-mê-ôn,
18 Gia-hát, Kê-đê-mốt, Mê-phát,
19 Ki-ri-a-ta-im, Síp-ma, Xê-rết-sa-ha trên ngọn đồi đứng giữa thung lũng,
20 Bết-phê-o, triền núi Phích-ga và Bết-giê-si-mốt.
21 Như vậy, đất của họ gồm tất cả các thành trong đồng bằng và toàn giang san của Si-hôn vua Am-môn có kinh đô là Hết-bôn. Vua này cùng với các tù trưởng Ma-đi-an: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ và Rê-ba (các chư hầu của Si-hôn) đều bị Mai-sen đánh bại.
22 Lúc ấy người Y-sơ-ra-ên cũng giết luôn thuật sĩ Ba-la-am con của Bê-ô.
23 Sông Giô-đan là biên giới phía tây của đất Ru-bên. Vậy, người Ru-bên chia nhau chiếm hữu các thành với các thôn ấp phụ cận trong giới hạn đất mình.

24 Mai-sen chia cho đại tộc Gát một phần đất tương xứng với số gia đình của đại tộc này.
25 Đất của họ gồm có Gia-xe, các thành Ga-la-át, phân nửa đất của người Am-môn cho đến A-rô-e đối diện Ráp-ba,
26 và từ Hết-bôn đến Ra-mát-mít-bê, Bê-tô-nim, từ Ma-ha-ra-im đến biên giới Đê-bia;
27 các thành trong thung lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Su-cốt, Xa-phôn; phần đất còn lại của Si-hôn vua Hết-bôn; và đất dọc theo sông Giô-đan bên bờ phía đông, cho đến biển Ki-nê-rết. Sông này là biên giới phía tây.
28 Người Gát chia nhau chiếm hữu các thành với các thôn ấp phụ cận trong giới hạn đất mình.

29 Mai-sen cũng chia cho phân nửa đại tộc Ma-na-se một phần đất tương xứng với số gia đình của họ.
30 Đất của họ chạy từ Ma-ha-na-im qua toàn lãnh vực Ba-san - đất của Óc vua Ba-san - và sáu mươi thôn xã Giai-rơ trong vùng Ba-san;
31 phân nửa đất Ga-la-át; các thành của Óc vua Ba-san là Ách-ta-rốt và ết-rê-i. Vậy các con cháu Ma-ki gồm phân nửa đại tộc Ma-na-se chia nhau chiếm hữu phần đất này.

32 Đó là cách Mai-sen phân phối đất đai bên bờ phía đông sông Giô-đan. Lúc ấy Y-sơ-ra-ên đang ở trong đồng bằng Mô-áp đối diện Giê-ri-cô.
33 Mai-sen không chia cho đại tộc Lê-vi phần đất nào cả, vì Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-a-ên là phần của Lê-vi, như Ngài đã bảo họ.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
14

Chia Đất Hữu Ngạn Giô-đan

1,2 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun và các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên phân chia đất Ca-na-an ra, và chín đại tộc rưỡi rút thăm lấy đất làm sản nghiệp như lời Chúa Hằng Hữu dặn Mai-sen.

3,4 Còn hai đại tộc rưỡi kia, Mai-sen đã chia cho họ đất bên bờ phía đông sông Giô-đan rồi. Riêng cho đại tộc Lê-vi không nhận được một phần đất riêng biệt như những đại tộc khác; họ chỉ có những thành lẻ tẻ để ở và đất để nuôi súc vật. Đặc biệt có đại tộc Giô-sép được kể là hai đại tộc: Ma-na-se và ép-ra-im.
5 Vậy, việc chia đất được thực hiện đúng theo chỉ thị của Chúa truyền cho Mai-sen.

6 Một số người Giu-đa do Khanh-lý con của Giê-phu-nê, người Kên, hướng dẫn đến gặp Giô-suê tại Ghinh-ganh và trình bày như sau: "Ông còn nhớ Chúa dặn Mai-sen tôi tớ Chúa tại Ca-đe Ba-nê-a về trường hợp của ông và tôi chứ?
7 Tại Ca-đê Ba-nê-a, Mai-sen tôi tớ Chúa sai chúng ta đi trinh sát đất hứa. Khi trở về, tôi phúc trình đúng sự thật.
8 Trong khi các anh em khác nói những lời làm nhụt chí đồng bào, tôi vẫn một lòng trung thành với Thượng Đế Hằng Hữu.
9 Vì vậy, hôm ấy Mai-sen có thề sẽ cho tôi và con cháu tôi nơi nào tôi đặt chân đến, vì tôi đã hết lòng theo Chúa.
10 Từ đó đến nay đã ngót bốn mươi lăm năm. Từ ngày dân ta còn lang thang trong sa mạc hoang vắng, Chúa vẫn cho tôi sống còn cho đến ngày nay, và bây giờ tôi đã tám mươi lăm tuổi.
11 Tôi vẫn mạnh khỏe như ngày Mai-sen sai tôi đi, khả năng chiến đấu và di chuyển của tôi vẫn như ngày nào.
12 Vậy, theo lời Chúa ngày ấy, xin ông cho tôi vùng đồi núi này. Mặc dù ngày ấy ông cũng đã nghe rằng đây là đất của dân khổng lồ A-na-kim với nhiều thành quách vững chắc, nhưng nếu Chúa ở cùng tôi, tôi sẽ đuổi họ đi."

13 Giô-suê chúc phước lành cho Khanh-lý và chia cho ông đất Hếp-rôn.
14 Vậy Hếp-rôn trở thành tài sản của nhà Khanh-lý (con Giê-phu-nê ở Kên) cho đến ngày nay, vì ông đã hết lòng theo Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên.
15 (Xưa kia Hếp-rôn được gọi là thành ạc-ba, theo tên của một anh hùng người A-na-kim.) Và từ đó, chiến tranh chấm dứt.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
15

Lãnh Thổ Giu-đa

1 Phần đất của đại tộc Giu-đa chạy dài từ biên giới Ê-đôm, ngang qua sa mạc Sin đến tận cuối miền nam bộ.
2-4 Nói rõ hơn, biên giới phía nam của Giu-đa chạy từ vịnh phía nam của Biển Mặn, xuống phía nam qua dốc ạc-ráp-bim, dọc theo sa mạc Sin, vòng qua Ca-đe Ba-nê-a ở cực nam, qua Hết-rôn, lên Át-đa, vòng qua Cát-ca, qua Át-môn, lên đến sông Ai Cập, ra đến biển.
5 Biên giới phía đông chạy dài từ Biển Mặn cho đến cửa sông Giô-đan. Biên giới phía bắc chạy từ vịnh nơi sông Giô-đan đổ vào Biển Mặn,
6 qua Bết-hốt-la, dọc theo phía bắc Bết-a-ra-ba, lên phía tảng đá Bô-han (con của Ru-bên),
7 qua Đê-bia trong thung lũng A-cô, chạy lên phía bắc đến Ghinh-ganh, đối diện dốc A-đu-mim ở phía nam thung lũng này, rồi chạy qua mé nước Ên-sê-mết, đến Ên-rô-ghên.
8 Biên giới này tiếp tục chạy qua thung lũng Hi-nôm đến phía nam đất Giê-bu (Giê-ru-sa-lem), lên đến đỉnh núi đối diện phía tây thung lũng Hi-nôn, đến bờ phía bắc thung lũng Rê-pha-im.
9 Từ đó, biên giới chạy từ đỉnh núi đến suối Nép-thô-ách, qua các thành trên núi ép-rôn, vòng quanh Ba-la tức Ki-ri-át Giê-a-rim.
10 Rồi biên giới vòng qua phía tây Ba-la, đến núi Sê-i-rơ, qua Kê-sa-long bên triền phía bắc núi Giê-a-rim, xuống Bết-sê-mết, qua Thim-na,
11 qua góc phía bắc của éc rôn, quanh Siếc-rôn, qua núi Ba-la, đến Giáp-nê-ên và chấm dứt ở biển.
12 Biên giới phía tây là bờ Biển Lớn. Đó là giới hạn của đất Giu-đa.

13 Giô-suê tuân lệnh Chúa, cho Khanh-lý con Giê-phu-nê một phần đất Giu-đa. Đó là thành ạc-ba (tên của cha A-nác), nay gọi là Hếp-rôn.
14 Có ba người con trai của A-nác (Sê-sai, A-hi-man và Tha-mai) đang ở trong thành, nhưng họ đều bị Khanh-lý đuổi đi.
15 Khanh-lý tiến lên đánh dân thành Đê-bia (tên cũ là Ki-ri-át Sê-phe).
16 Ông nói: "Tôi sẽ gả con gái tôi là Hạc-sa cho người nào có công đánh chiếm Ki-ri-át Sê-phe."
17 Người cháu của ông là ốt-ni-ên (con Kê-na) đánh chiếm thành, và được cưới Hạc-sa làm vợ.
18 Hạc-sa có giục chồng xin cha mình một sở ruộng. Lúc sắp lên đường theo chồng, nàng đột nhiên leo xuống lừa. Thấy thế, Khanh-lý hỏi: "Con muốn gì?"
19 Nàng thưa: "Con xin cha một ân huệ. Vì cha đã cho con vùng đất phía nam khô cằn, xin cha cho con thêm mấy suối nước nữa." Khanh-lý cho nàng các suối nước thượng và hạ.

20 Vậy, sản nghiệp của đại tộc Giu-đa gồm có:

21 Các thành miền cực nam, gần biên giới Ê-đôm: Cáp-xê-ên, Ê-đe, Gia-gu-a,

22 Ki-na, Đi-mô-na, A-đa-đa,

23 Kê-đe, Hát-so, ích-nan,

24 Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt,

25 Hát-so, Ha-đa-ta, Kê-ri-ốt (Hát-so, tức Hếp-rôn),

26 A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa,

27 Hát-sa Ga-đa, Hết-môn, Bết-pha-lê,

28 Hát-sa Su-anh, Biệt-sê-ba, Bi-sốt-gia,

29 Ba-la, Y-im, Ê-xem,

30 Ê-thô-lát, Kê-sinh, Họt-ma,

31 Xiếc-lác, Mát-ma-na, San-sa-na,

32 Lê-ba-ốt, Si-lim, A-in và Rim-môn -tất cả là hai mươi chín thành với các thôn ấp phụ cận.

33 Các thành trong đồng bằng:

ết-tha-ôn, Xô-ra, Át-na,

34 Xa-nô-a, Ên-ga-nim, Tháp-bu-a, Ê-nam,

35 Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cô, A-xê-ca,

36 Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, Ghê-đê-ra và Ghê-đê-rô-tha-im - cộng là mười bốn thành với các thôn ấp phụ cận.

37 Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đanh-Gát,

38 Đi-lan, Mít-bê, Giốc-thê-ên,

39 La-ki, Bốt-cát, éc-lôn,

40 Cáp-bôn, La-mam, Kít-lít,

41 Ghê-đê-rốt, Bết-đa-gôn, Na-a-ma và Ma-kê-đa - cộng là mười sáu thành với các thôn ấp phụ cận,

42 Líp-na, Ê-the, A-san,

43 Íp-ta, Ách-na, Nê-xíp,

44 Ki-la, Ách-xíp và Ma-rê-sa - cộng là chín thành với các thôn ấp phụ cận,
45 éc-rôn với các thành và các thôn ấp phụ cận.

46 Các thành giữa éc-rôn và biển gồm cả các thành gần Ách-đốt với các thôn ấp phụ cận,
47 Ách-đốt với các thành và thôn ấp phụ cận, Ga-xa với các thành và thôn ấp phụ cận chạy dài cho đến suối Ai Cập và bờ Biển Lớn.

48 Các thành trên đồi núi: Sa-mia, Gia-tia, Sô-cô,

49 Đa-na, Ki-ri-át Sa-na cũng gọi là Đê-bia,

50 A-náp, ết-tê-mô, A-nim,
51 Gô-sen, Hô-lôn và Ghi-lô - cộng là mười một thành với các thôn ấp phụ cận -
52 A-ráp, Ru-ma, Ê-sau,
53 Gia-nim, Bết-ta-bu-a, A-phê-ca,
54 Hum-ta, Ki-ri-át A-ra-ba cũng gọi là Hếp-rôn và Si-lô - cộng là chín thành với các thôn ấp phụ cận -
55 Ma-ôn, Cát-mên, Xíp, Giu-ta,
56 Giê-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-a,
57 Ca-in, Ghi-bê-a và Thim-na - cộng là mười thành với các thôn ấp phụ cận -
58 Hanh-hun, Bết-xua, Ghê-đô,
59 Ma-a-rát, Bết-a-nốt và Ên-tê-côn - cộng là sáu thành với các thôn ấp phụ cận -
60 Ki-ri-át Ba-anh cũng gọi là Ki-ri-át Giê-a-rim và Ráp-ba, hai thành với các thôn ấp phụ cận.

61 Các thành trong sa mạc: Bết-A-ra-ba, Mi-đin, Sê-ca-na,
62 Níp-san, thành Muối và Ên-ghê-đi - cộng là sáu thành và các thôn ấp phụ cận.

63 Nhưng người Giu-đa không đuổi người Giê-bu ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nên họ vẫn còn sống chung với người Giu-đa cho đến ngày nay.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
16

Lãnh Thổ ép-ra-im

1 Phần đất của con cháu Giô-sép có biên giới chạy từ sông Giô-đan ngang Giê-ri-cô (phía đông của suối Giê-ri-cô) xuyên qua sa mạc, lên miền đồi núi cho đến Bê-tên.
2 Biên giới này tiếp tục từ Bê-tên chạy đến Lu-xơ, qua A-ta-rốt (thuộc đất người ạc-ki),
3 xuống phía tây giáp đất người Giáp-lê-ti, cho đến đất Bết-hô-rôn Hạ, Ghê-xe, và dừng lại ở biển.
4 Vậy, con cháu Giô-sép gồm đại tộc ép-ra-im và đại tộc Ma-na-se lãnh phần đất mình.

5 Đất của đại tộc ép-ra-im có biên giới phía đông chạy từ A-ta-rốt A-đa đến Bết-hô-rôn thượng,
6 và từ đó chạy ra đến biển gặp phía bắc của Mít-mê-thát. Biên giới lại vòng qua phía đông tại Ta-a-nát Si-lô và tiếp tục về phía đông cho đến Gia-nô-a.
7 Từ Gia-nô-a biên giới chạy xuống A-ta-rốt, Ma-a-ra, đụng Giê-ri-cô rồi gặp sông Giô-đan.
8,9 Từ Tháp-bu-a, biên giới chạy về hướng tây đến suối Ca-na và chấm dứt ở biển. Đó là sản nghiệp của đại tộc ép-ra-im. Ngoài ra, một số gia đình người ép-ra-im nhận được mấy thành nằm trong đất của người Ma-na-se và các thôn ấp phụ cận của mấy thành ấy.
10 Tuy nhiên người Ca-na-an ở Ghê-se không bị đuổi đi, và cho đến ngày nay họ vẫn còn đó, làm nô lệ cho người ép-ra-im.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
17

Lãnh Thổ Ma-na-se

1 Phần đất của đại tộc Ma-na-se (con trưởng nam của Giô-sép) đươc phân chia như sau: họ Ma-ki (Ma-ki là con trưởng nam của Ma-na-se, cha của Ga-la-át và là một chiến sĩ) lãnh đất Ga-la-át và Ba-san.
2 Các họ còn lại của đại tộc này gồm có A-bi-ê-se, Hê-léc, Át-ri-ên, Si-chen, Hê-phe và Sê-mi-đa cũng lãnh phần đất mình.

3 Riêng trường hợp của Xê-lô-phát (con Hê-phe, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki, chít Ma-na-se), ông này không có con trai, chỉ sinh được năm cô con gái: Mộc-lan, Nữ-lan, Hạ-lan, Minh-ca và Thiệt-sa.
4 Các cô này đến gặp thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê và các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, thưa rằng: "Chúa có dặn bảo Mai-sen cho chúng tôi một phần đất đồng đều cũng như các anh em khác." Và họ lãnh được phần đất mình theo lệnh của Chúa.
5,6 Vậy, ngoài đất Ga-la-át và Ba-san bên kia sông Giô-đan, có mười phần đất được chia cho đại tộc Ma-na-se, vì các cô kia cũng có một phần.

7 Biên giới phía bắc của Ma-na-se chạy từ A-se đến Mít-mê-thát ở phía đông Si-chem, rồi chạy về phía nam cho đến đất của người Tháp-bu-a.
8 (Đất Tháp-bu-a thuộc đại tộc Ma-na-se, nhưng thành Tháp-bu-a ở biên giới lại thuộc về đại tộc ép-ra-im).

9 Biên giới tiếp tục xuống cho đến sông Ca-na, (các thành ở phía nam sông này thuộc về đại tộc ép-ra-im) chạy lên phía bắc của sông này rồi chấm dứt ở biển.
10 Đất phía nam sông thuộc về ép-ra-im, phía bắc thuộc Ma-na-se. Đất Ma-na-se còn giáp bờ Biển Lớn, đất A-se ở phía bắc và đất Y-sa-ca ở phía đông.
11 Ngoài ra, trong đất Y-sa-ca và A-se, người Ma-na-se lại được thêm các thành Bết-sê-an, Díp-lê-am, Na-phát và các thôn ấp phụ cận của các thành này; dân Đô-rơ, Ên-đô-rơ, Tha-a-nác, Mê-ghi-đô và các thôn ấp của họ.
12 Nhưng con cháu Ma-na-se không đuổi nổi các dân này, không chiếm được các thành trên.
13 Về sau, khi người Y-sơ-ra-ên hùng mạnh hơn, họ bắt người Ca-na-an làm nô dịch cho mình, chứ vẫn không đuổi đi.

14 Con cháu Giô-sép đến thưa với Giô-suê: "Chúng tôi là một dân đông vì Chúa chúc phước lành cho chúng tôi. Vậy tại sao chúng tôi chỉ được có một phần đất thôi?"
15 Giô-suê đáp: "Nếu anh em có đông nguời, miền đồi núi ép-ra-im không đủ chỗ sống, sao anh em không đi khai phá rừng của người Phê-rết và Rê-pha-im?"
16 Con cháu Giô-sép trả lời: "Miền đồi núi thì hẹp, còn miền đồng bằng thì đầy người Ca-na-an hùng mạnh; ở Bết-sê-an và thung lũng Đê-rê-ên họ có cả xe thiết giáp!"
17 Giô-suê bảo: "Đúng đó, đông đúc và hùng cường như anh em không thể chỉ có một phần đất được.
18 Anh em sẽ có cả miền rừng núi nữa. Dù người Ca-na-an có xe thiết giáp và mạnh đến đâu, anh em cũng sẽ đuổi họ đi, chiếm toàn miền ấy."

Bản Hiện Đại
Giô-suê
18

Lãnh Thổ Bên-gia-min

1 Toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên họp nhau tại Si-lô, dựng Lều Hội Kiến lên.
2 Tuy đất đã chinh phục xong, nhưng vẫn còn bảy đại tộc chưa lãnh phần mình.
3 Giô-suê hỏi họ: "Đến bao giờ anh em mới đi chiếm đất Chúa cho?
4 Bây giờ mỗi đại tộc hãy chọn cho tôi ba người. Họ có nhiệm vụ đi khắp đất còn lại, khảo sát địa hình rồi trở về đây báo cáo với tôi.
5,6 Họ phải chia đất này thành bảy phần dựa theo địa lý. Và tôi sẽ bắt thăm cho bảy đại tộc trước mặt Chúa. Giu-đa vẫn tiếp tục ở phía nam, Giô-sép phía bắc. Người Lê-vi sẽ không có phần, vì phần của họ là tế lễ phụng sự Chúa. Đại tộc Gát, Ru-bên và phân nửa đại tộc Ma-na-se đã được Mai-sen, tôi tớ của Chúa, cấp đất ở phía đông sông Giô-đan rồi."

8 Vậy, những người ấy phải đi khắp phần đất còn lại, vẽ bản đồ, đem về báo cáo cho Giô-suê, và dựa vào đó ông sẽ bắt thăm chia cho các đại tộc trước mặt Chúa.
9 Họ theo đúng chỉ thị, chia đất ra làm bảy phần, vẽ bản đồ của mỗi phần và các thành trong phần đất ấy, rồi trở về trại quân ở Si-lô phúc trình cho Giô-suê.
10 Tại Si-lô, Giô-suê bắt thăm chia đất cho bảy đại tộc trước mặt Chúa, kết quả như sau:

11 Thăm thứ nhất chỉ định đất của đại tộc Bên-gia-min. Lô đất này nằm giữa đất của Giu-đa và Giô-sép.
12 Biên giới phía bắc chạy từ sông Giô-đan lên phía bắc Giê-ri-cô rồi về phía tây qua miền đồi núi và sa mạc Bết-a-ven.
13 Từ đó biên giới chạy về phía nam đến Lu-xơ (tức Bê-tên) rồi tiếp tục xuống đến A-ta-rốt A-đa trên cao nguyên, phía nam Bết-hô-rôn hạ.
14 Biên giới đổi hướng chạy về phía tây nam qua hòn núi đối diện mặt nam Bết-hô-rôn, rồi chấm dứt ở Ki-ri-át Ba-anh tức Ki-ri-át Giê-a-rim của Giu-đa. Đó là biên giới phía tây.
15 Biên giới phía nam chạy từ ngoại ô Ki-ri-át Giê-a-rim qua phía tây, thẳng đến suối Nép-tô-ách,
16 xuống đến chân hòn núi cạnh thung lũng của con trai Hi-nôm, phía bắc thung lũng Rê-pha-im. Từ đó, biên giới chạy xuống thung lũng Hi-nôm, qua phía nam đất Giê-bu, rồi tiếp tục xuống đến Ên-rô-ghên.
17 Biên giới chuyển lên hướng bắc đến Ên-Sê-mết, qua Ghê-li-lốt ở ngang dốc A-đu-mim, rồi chạy xuống đến Đá Bô-han (Bô-han là con Ru-bên).
18 Từ đó biên giới chạy về góc bắc của A-ra-ba, rồi chạy qua A-ra-ba.
19 Biên giới tiếp tục chạy qua góc bắc của Bết-hốt-la, rồi chấm dứt ở vịnh bắc của Biển Mặn, ở cửa sông Giô-đan. (Sông này chảy từ bắc xuống nam, đổ vào Biển Mặn). Đó là biên giới phía nam.
20 Biên giới phía đông là sông Giô-đan. Đó là giới hạn phần đất của đại tộc Bên-gia-min.

21 Các thành trong lô đất của con cháu Bên-gia-min gồm có: Giê-ri-cô, Bết-hốt-la, Ê-méc-kê-sít,
22 Bết-A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên,
23 A-vim, Pha-ra, Óp-ra,
24 Kê-pha, A-mô-rai, Óp-ni và Ghê-ba,
25 (Gi-bê-ôn) Ra-ma, Bê-ê-rốt,
26 Mít-bê, Kê-phi-ra, Mô-sa
27 Rê-kem I-ê-bê-ên, Ta-ra-la,
28 Xê-la, Ha-ê-lép, Giê-bu tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át và Ki-ri-át Giê-a-rim - gồm hai mươi sáu thành với các thôn ấp phụ cận. Đó là phần của con cháu Bên-gia-min.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
19

Lãnh Thổ của Sáu Đại Tộc Sau Cùng

1 Thăm thứ hai chỉ định lô đất của con cháu Si-mê-ôn. Lô này nằm trong đất Giu-đa.
2 Các thành trong đất Si-mê-ôn gồm có: Biệt-sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa,
3 Hát-sa-su-anh, Ba-la, Ê-xem,
4 Ên-thô-lát, Bê-thu, Họt-ma,
5 Xiếc-lác, Bết-ma-ca-bốt, Hát-sa-su-sa,
6 Bết-lê-ba-ốt và Sa-ru-hên;
7,8 A-im, Rim-môn, Ê-the và A-san, bốn thành và các thôn ấp phụ cận. Phần của con cháu Si-mê-ôn gồm có mười bảy thành và các thôn ấp phụ cận. Ngoài ra, còn có các thành ở xa xôi, Ba-lát Bê-e, Ra-ma ở miền nam.
9 Vậy, đất của đại tộc Si-mê-ôn được trích ra từ trong lô đất của đại tộc Giu-đa, vì đất Giu-đa quá rộng.

10 Thăm thứ ba chỉ định lô đất của đại tộc Sa-bu-luân. Biên giới của lô này bắt đầu từ Sa-rít,
11 một hướng chạy về phía tây đến Ma-rê-anh, đụng Đáp-bê sết và suối nước ở phía đông Giốc-nê-am;
12 hướng kia (cũng từ Sa-rít) chạy về phía đông cho đến biên giới Kít-lốt Tha-bô, từ đó đến Đáp-rát, rồi lên Gia-phia.
13 Biên giới tiếp tục chạy về phía đông Gát Hê-phe, đến ết-cát-sin, thẳng đến Rim-môn rồi quay về Nê-a,
14 quay lên hướng bắc đến Ha-na-thôn và chấm dứt ở thung lũng Díp-tha-ên.
15,16 Các thành của lô này còn có Cát-tát, Na-ha-la, Sim-rôn, Y-đa-la, và Bết-lê-hem. Tổng cộng là mười hai thành và các thôn ấp phụ cận. Đó là phần của con cháu Sa-bu-luân.

17 Thăm thứ tư chỉ định lô đất của đại tộc Y-sa-ca.
18 Biên giới của lô này chạy qua Đê-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem,
19 Ha-pha-ra-im, Si-ôn, A-na-ha-rát,
20 Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bết,
21 Rê-mết, Ên-ga-nim, Ên Ha-đa, Bết-phát-sết,
22 Tha-bô, Sa-ha-su-ma và Bết-sê-mết rồi biên giới chấm dứt ở sông Giô-đan. Vậy, lô này gồm mười sáu thành với các thôn ấp phụ cận.
23 Đó là phần của con cháu Y-sa-ca.

24 Thăm thứ năm chỉ định lô đất của đại tộc A-se.
25 Biên giới của lô này chạy qua Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, ạc-sáp,
26 A-lam-mê-léc, A-mát, Mi-sanh; về phía tây, biên giới chạy từ Cát-mên đến Si-hô Líp-nát,
27 rồi chuyển về hướng đông, chạy qua Bết-đa-gôn, Sa-bu-luân, thung lũng Díp-ta-hên, chuyển lên hướng bắc qua Bết-ê-méc và Nê-i-ên, chạy thẳng lên Ca-bun,
28 Hếp-rôn, Rê-hốp, Ham-môn, Ka-na và Si-đôn Lớn,
29 qua Ra-ma, đến thành có hào lũy kiên cố Ty-rơ, chạy qua Hô-sa và chấm dứt ở biển. Lô này còn gồm các thành Ma-ha-láp, Ách-xíp,
30 U-ma, A-phác và Rê-hốp. Tổng cộng là mười hai thành với các thôn ấp phụ cận.
31 Đó là phần con cháu A-se.

32 Thăm thứ sáu chỉ định lô đất của đại tộc Nép-ta-li.
33 Biên giới của lô này chạy từ Hê-lép, từ cây sồi ở Sa-na-nim, qua A-đa-mi, Nê-hép, Giáp-nê-ên, chạy đến tận Lạc-cum rồi chấm dứt ở sông Giô-đan.
34 Biên giới phía tây chạy qua Át-nốt-tha-bô, Hục-cốc, phía nam giáp giới Sa-bu-bôn, phía tây giáp giới A-se và phía đông giáp sông Giô-đan.
35 Lô này gồm các thành có hào lũy kiên cố: Xi-đim-xe, Ha-mát, Ra-cất, Ki-nê-rết,
36 A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so,
37 Kê-đe, Êt-rê-i, Ên-hát-so,
38 Di-rôn, Mít-đa-ên, Hô-rem, Bết-a-nát và Bết-sê-mết. Tổng cộng là mười chín thành với các thôn ấp phụ cận.
39 Đó là phần của đại tộc Nép-ta-li.

40 Thăm thứ bảy chỉ định lô đất của đại tộc Đan.
41 Lô này gồm có các thành Xô-ra, ết-tha-ôn, Y-sê-mết,
42 Sa A-la-bin, A-gia-lôn, ích-la,
43 Ê-lôn, Thim-na, éc-rôn,
44 Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát,
45 Giê-hút, Bê-nê Bê-rác, Gát Rim-môn,
46 Mê-giạt-côn và Ra-côn và phần đất chung quanh Gióp-ba.
47 Ngoài lô đất được Giô-suê bắt thăm chỉ định, con cháu Đan còn đi đánh Lê-sem, giết dân, chiếm thành cho dân mình ở, lấy tên ông tổ mình là Đan đặt cho thành.
48 Đó là phần của đại tộc Đan.

49 Khi đất đai đã phân chia cho các đại tộc, nhân dân Y-sơ-ra-ên lấy một phần đất mình cấp cho Giô-suê con của Nun.
50 Theo lệnh Chúa, họ cấp cho ông thành ông chọn. Đó là thành Thim-nát Sê-ra trên cao nguyên ép-ra-im. Ông xây lại thành và cư ngụ tại đó.

51 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun và những nhà lãnh đạo các đại tộc Y-sơ-ra-ên thực hiện việc chia đất tại Si-lô, trước cửa Lều Hội Kiến, dưới sự chứng giám của Chúa.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
20

Sáu Thành Trú ẩn

1 Chúa Hằng Hữu dạy Giô-suê:

2,3 "Con bảo người Y-sơ-ra-ên chọn một số thành làm nơi trú ẩn cho những kẻ ngộ sát tránh khỏi tay người báo thù, như Ta đã chỉ thị Mai-sen.
4 Kẻ ngộ sát sẽ chạy đến một trong những thành này. Tại cổng thành, người này sẽ trình bày nội vụ cho các trưởng lão của thành. Họ sẽ đem người ấy vào, cho ở trong thành.
5 Nếu người báo thù đến tìm, họ không được giao nạp kẻ ngộ sát, vì người này đã không chủ tâm giết người, không hành động vì thù hận nạn nhân.
6 Kẻ ngộ sát sẽ ở lại trong thành, được dân chúng xét xử, và chỉ được về nhà mình khi nào thầy tế lễ thượng phẩm đương nhiệm qua đời."

7 Vậy, các thành sau đây được chọn làm nơi trú ẩn: Kê-đe thuộc Ga-li-lê, trên đồi núi Nép-ta-li; Si-chem trên đồi núi ép-ra-im; và Ki-ri-át A-ra-ba tức Hếp-rôn trên đồi núi Giu-đa.
8 Bên bờ phía đông sông Giô-đan, (đối diện Giê-ri-cô) cũng có ba thành: Bết-se trong sa mạc thuộc đất Ru-bên; Ra-mốt thuộc Ga-la-át trong đất Gát; và Gô-lan thuộc Ba-san trong đất Ma-na-se.
9 Các thành trú ẩn nầy đều cho người Y-sơ-ra-ên và ngoại kiều xử dụng. Ai rủi ro giết người sẽ chạy đến một nơi trong những thành ấy để tránh kẻ báo thù, chờ ngày ra tòa cho nhân dân xét xử.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
21

Bốn Mươi Tám Thành Phố Lê-vi

1,2 Các trưởng lão người Lê-vi đến trình bày với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê và các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên tại Si-lô, trong đất Ca-na-an: "Chúa có chỉ thị Mai-sen cấp cho chúng tôi các thành để ở và đất để nuôi súc vật."
3 Tuân lệnh Chúa, người Y-sơ-ra-ên trích trong phần mình các thành và đất để nuôi gia súc, cấp cho người Lê-vi (theo lối bắt thăm):

4 Mười ba thành trong đất Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min được cấp cho con cháu thầy tế lễ A-rôn thuộc họ Kê-hát.
5 Còn những gia đình khác trong họ Kê-hát nhận được mười thành trong đất ép-ra-im, Đan và phân nửa đại tộc Ma-na-se.
6 Họ Ghẹt-sôn nhận được mười ba thành trong đất Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li và phân nửa đại tộc Ma-na-se (ở Ba-san).
7 Họ Mê-ra-ri nhận được mười hai thành trong đất Ru-bên, Gát và Sa-bu-luân.

8 Vậy, chỉ thị của Chúa truyền cho Mai-sen trước kia được thực hiện, người Y-sơ-ra-ên cắt đất và thành mình, và người Lê-vi nhận phần theo lối bắt thăm.

9-16 Con cháu thầy tế lễ A-rôn thuộc họ Kê-hát trong đại tộc Lê-vi nhận phần trước tiên. Đại tộc Giu-đa và Si-mê-ôn nhượng cho họ chín thành có tên sau đây, cùng với đất chung quanh thành để nuôi súc vật:

Ki-ri-át A-ra-ba (A-ra-ba là cha A-nác) còn gọi là Hếp-rôn, một thành trú ẩn của kẻ ngộ sát (trừ các đồng ruộng và thôn ấp phụ cận thành này đã được cấp cho Khanh-lý con Giê-phu-nê), Líp-na, Giạt-thia, Ê-thê-mô-a, Hô-lôn, Đê-bia, A-in, Giu-ta và Bết-sê-mết.

17,18 Đại tộc Bên-gia-min nhượng cho họ bốn thành sau đây, cùng với đất chung quanh thành để nuôi súc vật:

Ga-ba-ôn, Ghê-ba, A-na-tốt và Anh-môn.

19 Vậy, các thầy tế lễ, con cháu A-rôn được tất cả mười ba thành và đất quanh thành để chăn nuôi.

20-22 Những người còn lại trong họ Kê-hát thuộc đại tộc Lê-vi nhận đuợc bốn thành và đất phụ cận để nuôi súc vật, do đại tộc ép-ra-im trích nhượng: Si-chem (một thành trú ẩn của kẻ ngộ sát trên cao nguyên ép-ra-im), Ghê-xê, Kíp-sa-im và Bết Hô-rôn.

23,24 Đại tộc Đan nhượng cho họ bốn thành và đất phụ cận sau đây: Ên-thê-ên, Ghi-bê-thôn, A-gia-long và Gát-rim-môn.

25 Nửa đại tộc Ma-na-se nhượng cho họ hai thành Tha-a-nác và Gát-rim-môn với đất quanh thành.
26 Vậy những người còn lại trong họ Kê-hát được tất cả mười thành và đất phụ cận để chăn nuôi.
27 Con cháu Ghẹt-sôn, một họ khác trong đại tộc Lê-vi, nhận hai thành và đất phụ cận từ nửa đại tộc Ma-na-se: Gô-lan thuộc Ba-san (một thành trú ẩn của kẻ ngộ sát) và Bết-tê-ra.

28,29 Đại tộc Y-sa-ca nhượng cho họ bốn thành và đất phụ cận: Ki-si-ôn, Đa-bê-rát, Giạt-mút và Ên-Ga-nim.

30,31 Đại tộc A-se nhượng bốn thành và đất phụ cận: Mi-sê-anh, Áp-đôn, Hên-cát và Rê-hốp.

32 Đại tộc Nép-ta-li nhượng ba thành và đất phụ cận: Kê-đe ở Ga-li-lê (một thành trú ẩn), Ha-mốt Đô-rơ và Cạt-than.

33 Vậy họ Ghẹt-sôn được tất cả mười ba thành và đất để chăn nuôi.

34,35 Họ Mê-ra-ri, họ còn lại của đại tộc Lê-vi, nhận bốn thành và đất phụ cận do đại tộc Sa-bu-long nhường lại: Giốc-nê-am, Cát-ta, Đim-na và Na-ha-la.

36,37 Đại tộc Ru-bên nhượng cho họ bốn thành và đất Bê-se, Giát-sa, Kê-đê-mốt và Mê-phát.

38,39 Đại tộc Gát nhượng bốn thành và đất phụ cận: Ra-mốt ở Ga-la-át (thành trú ẩn), Ma-ha-na-im, Hết-bôn và Ghê-xe.
40 Vậy, họ Mê-ra-ri thuộc Lê-vi được tất cả mười hai thành.

41,42 Cả đại tộc Lê-vi được tổng số bốn mươi tám thành, ở rải rác trong đất Y-sơ-ra-ên. Mỗi thành đều gồm luôn đất bao bọc chung quanh, dùng để chăn nuôi.

43 Như thế, Chúa thực hiện lời Ngài hứa với các tổ tiên, cho Y-sơ-ra-ên lãnh thổ này. Họ chiếm lấy và lập nghiệp tại đó.
44 Chúa cũng cho họ hưởng thái bình như đã hứa, không ai chống nổi họ, vì Chúa nạp hết kẻ thù vào tay họ.
45 Tất cả những lời hứa tốt lành của Chúa với Y-sơ-ra-ên đều được Ngài thực hiện.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
22

Người Ru-bên, Gát và Ma-na-se Về Xứ

1 Giô-suê triệu tập người trong đại tộc Ru-bên, Gát và nửa đại tộc Ma-na-se.
2 Ông nói: "Anh em đã tuân lệnh Mai-sen, tôi tớ Chúa và vâng lời tôi.
3 Anh em đã không bỏ rơi bà con mình tức các đại tộc khác trong một thời gian dài đằng đẵng. Như vậy anh em đã nghiêm chỉnh tuân hành mệnh lệnh của chính Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình.
4 Ngày nay, Chúa cho các đại tộc kia nghỉ ngơi như Ngài đã hứa; nên bây giờ anh em được về cùng gia đình, đất đai mình ở bên kia sông Giô-đan, nơi Mai-sen tôi tớ Chúa cấp cho anh em.
5 Nhưng anh em phải luôn luôn hết lòng tuân giữ mệnh lệnh và luật lệ Mai-sen đã truyền, yêu kính Chúa, Thượng Đế Hằng Hữu, theo đúng đường lối Ngài, khắng khít với Ngài, đem hết tâm hồn phụng sự Ngài."
6 Rồi Giô-suê chúc phước lành cho họ, và tiễn họ về trại.
7,8 (Trước kia, Mai-sen cấp đất Ba-san cho nửa đại tộc Ma-na-se; nửa đại tộc còn lại được Giô-suê chia cho đất bên phía tây sông Giô-đan.) Trong lúc tiễn đưa, sau khi chúc phước lành xong, Giô-suê tiếp: "Anh em ra về với bao nhiêu của cải trong tay: súc vật, vàng, bạc, đồng, sắt, áo xống đầy dẫy. Xin nhớ chia sẻ chiến lợi phẩm với các anh chị em mình."

Vụ Bàn Thờ Mới

9 Người đại tộc Ru-bên, Gát và nửa đại tộc Ma-na-se từ Si-lô trong đất Ca-na-an từ giã người Y-sơ-ra-ên về Ga-la-át, đất Mai-sen cho họ.
10-12 Đi gần đến sông Giô-đan, tại một nơi còn thuộc đất Ca-na-an, họ xây lên một bàn thờ rất lớn. Người Y sơ-ra-ên nghe tin này, liền họp nhau tại Si-lô và định đi đánh hai đại tộc rưỡi kia.
13 Nhưng, trước tiên họ phái Phi-nê-a con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa đến Ga-la-át để nói chuyện với đại tộc Ru-bên, Gát và nửa đại tộc Ma-na-se.
14 Phi-nê-a dẫn đầu một phái đoàn gồm mười nhà lãnh đạo, mỗi người đại diện một đại tộc Y-sơ-ra-ên; họ đều thuộc hàng trưởng tộc.
15 Khi phái đoàn đến Ga-la-át, họ chất vấn người thuộc đại tộc Ru-bên, Gát và nửa đại tộc Ma-na-se:
16 "Toàn thể nhân dân của Chúa muốn biết tại sao anh em dám phạm tội với Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, từ bỏ Chúa, xây một bàn thờ để tỏ lòng phản nghịch Ngài.
17 Tội ác chúng ta gây ra tại Phê-o còn chưa đủ sao? Tội ác này đến nay vẫn chưa rửa sạch, mặc dù chúng ta đã chịu tai họa nặng nề.
18 Bây giờ anh em còn gây thêm tội, từ bỏ Chúa! Nếu anh em phản nghịch hôm nay, ngày mai Chúa sẽ nổi giận với toàn dân Y-sơ-ra-ên.
19 Nếu đất của anh em không tinh sạch, thì dọn qua ở với chúng tôi trong đất của Chúa, nơi có Đền Thờ Ngài; chúng tôi sẽ chia đất cho anh em. Chỉ xin anh em đừng phản nghịch Chúa, làm cho chúng tôi cũng ra người phản nghịch. Xin đừng xây một bàn thờ khác với bàn thờ Chúa, Thượng Đế Hằng Hữu chúng ta.
20 Trường hợp A-can con Xê rách phạm luật về các vật phải bị hủy diệt đã làm cho toàn dân phải chịu tai họa do cơn lôi đình của Chúa. A-can đâu có bị tiêu diệt một mình đâu!"

21 Người Ru-bên, Gát và Ma-na-se đáp lời các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên:
22,23 "Lạy Thượng Đế Hằng Hữu Toàn Năng! Thượng Đế Toàn Năng biết rõ! Xin Y-sơ-ra-ên cũng biết cho. Nếu chúng tôi xây bàn thờ vì phản nghịch vì lòng bất trung với Chúa, thì xin Ngài đừng tha chúng tôi. Nếu chúng tôi xây bàn thờ để dâng lễ thiêu, lễ vật ngũ cốc, lễ thù ân, thì xin chính Chúa trừng phạt.
24 Chúng tôi đã làm như thế chỉ vì lo sợ cho tương lai, một ngày nào con cháu của anh em sẽ bảo con cháu chúng tôi: 'Các người đâu có liên hệ gì với Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên,
25 vì Chúa đã đặt sông Giô-đan làm biên giới ngăn cách đôi đàng, các người chẳng có phần gì nơi Chúa cả.' Và như thế, con cháu anh em sẽ làm cho con cháu chúng tôi thôi phụng thờ Chúa.
26 Vì thế, chúng tôi mới bảo nhau xây một bàn thờ, không phải để dâng lễ thiêu hay lễ vật gì khác,
27 nhưng để chứng minh cho đôi bên và cho hàng con cháu, là chúng tôi có phụng thờ Chúa, có dâng trước mặt Ngài lễ thiêu, lễ thù ân và các lễ vật khác, để con cháu anh em không nói được rằng con cháu chúng tôi không có phần gì nơi Chúa.
28 Vậy nếu có ai nói với chúng tôi hay con cháu chúng tôi như thế, con cháu chúng tôi sẽ trả lời: 'Đây, hãy xem bàn thờ cha ông chúng tôi đã xây, nó giống hệt bàn thờ của Chúa. Bàn thờ này không dùng để dâng lễ thiêu hay lễ vật gì khác, nhưng để chứng tỏ mối quan hệ giữa đôi bên.'
29 Tuyệt nhiên không có việc chúng tôi phản nghịch Chúa, từ bỏ Ngài, xây một bàn thờ để dâng lễ thiêu, ngũ cốc hay các lễ vật khác ngoài bàn thờ Chúa trước Lều Hội Kiến."
30 Thầy tế lễ Phi-nê-a và các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên rất thỏa mãn khi nghe xong lời giải thích của người Ru-bên, Gát và Ma-na-se.
31 Phi-nê-a đáp lời họ như sau: "Chúng ta biết chắc có Chúa ở giữa chúng ta hôm nay, vì anh em đã không phạm tội với Ngài, nhưng đã cứu Y-sơ-ra-ên khỏi bị Chúa trừng phạt."

32 Sau đó, Phi-nê-a con thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên từ giã người Ru-bên, Gát và Ma-na-se, từ Ga-la-át trở về Ca-na-an để phúc trình nội vụ.
33 Nghe lời phúc trình, người Y-sơ-ra-ên cởi mở tấc lòng, tung hô Thượng Đế. Họ không còn nói tới việc đi đánh Ru-bên và Gát nữa.
34 Người Ru-bên và Gát gọi bàn thờ này là "Bàn Thờ Minh Chứng." Vì nó chứng minh cho đôi bên rằng chỉ có Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế.

Bản Hiện Đại
Giô-suê
23

Giô-suê Kêu Gọi

1 Thời gian trôi nhanh, thắm thoát đã qua một đời người, Chúa cho Y-sơ-ra-ên được hưởng thái bình, và Giô-suê đã cao tuổi.
2 Một hôm, ông triệu tập toàn dân và các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên - trưởng lão, thẩm phán, các cấp chỉ huy - và bảo họ: "Tôi đã già lắm rồi.
3 Chính đồng bào đã chứng kiến những việc Chúa làm cho các quốc gia này vì Y-sơ-ra-ên: Thượng Đế Hằng Hữu đã đánh các nước ấy cho đồng bào.
4 Tôi có chia cho các đại tộc Y-sơ-ra-ên đất đai của những nước đã chinh phục cũng như những nước chưa chinh phục, từ sông Giô-đan cho đến Biển Lớn phía tây.
5 Chúa sẽ đuổi người trong các miền chưa chinh phục đi, cho đồng bào chiếm đất, như Ngài đã hứa.
6 Vậy, đồng bào cứ hết lòng vâng giữ mọi điều đã chép trong sách luật Mai-sen, đừng mảy may vi phạm.
7 Đừng pha giống với các dân còn sót lại trong đất này, đừng nhắc đến tên thần của họ, đừng lấy các tên ấy mà thề, đừng thờ lạy các thần ấy.
8 Nhưng phải bám chặt lấy Thượng Đế mình, như đồng bào đã làm từ trước đến nay.
9 Vì Chúa đã đánh đuổi nhiều dân tộc hùng mạnh giúp đồng bào; và cho đến nay, không ai cự nổi Y-sơ-ra-ên.
10 Một người Y-sơ-ra-ên đánh đuổi ngàn người, vì có Chúa Hằng Hữu chiến đấu cho, như Ngài đã hứa.
11 Phải tự nhắc nhủ: yêu kính Thượng Đế mình.
12 Nhưng nếu đồng bào làm trái lại, đi kết hôn với những dân còn sót lại trong đất này,
13 thì đồng bào nên biết chắc rằng Chúa sẽ không còn đánh đuổi các dân tộc ấy nữa. Họ sẽ trở thành bẫy bủa giăng, thành roi đánh bên hông, thành gai chông trước mắt đồng bào, cho đến ngày đồng bào bị trừ khỏi đất tốt lành Chúa đã cho.
14 Tôi sắp đi con đường nhân loại phải trải qua. Còn đồng bào, ai nấy đều phải nhận thức trong tâm hồn rằng mọi lời hứa của Chúa đều được thực hiện.
15,16 Như những lời hứa lành của Chúa đã thực hiện, những điều dữ cũng sẽ xảy ra nếu đồng bào bất tuân. Ngài sẽ đổ trên đồng bào tai họa, cho đến khi đồng bào bị tiêu diệt khỏi đất lành này, nếu đồng bào vi phạm giao ước của Ngài đã lập, đi thờ lạy các thần khác. Cơn thạnh nộ của Ngài sẽ nổi lên, đồng bào sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng, bị khai trừ khỏi đất tốt lành Ngài cho."

Bản Hiện Đại
Giô-suê
24

Hội Nghị Dân Tộc Từ Giã Giô-suê

1 Giô-suê lại triệu tập tất cả các đại tộc Y-sơ-ra-ên và các nhà lãnh đạo của họ - trưởng lão, thẩm phán, các cấp chỉ huy. Mọi người họp lại trước mặt Chúa tại Si-chem.
2 Giô-suê nói với toàn dân: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên phán, 'Tổ tiên các ngươi là Tha-rê cha Áp-ra-ham và Na-cơ, trước kia sống bên kia Phát-giang, thờ các thần khác.
3 Nhưng Ta đem Áp-ra-ham ông tổ các ngươi từ bên kia sông, dẫn vào đất Ca-na-an. Ta cho Áp-ra-ham vô số hậu tự, bắt đầu là Y-sác.
4 Ta cho Y-sác hai con: Gia-cốp và Ê-sau. Ta cho Ê-sau vùng núi Sê-i-rơ; còn Gia-cốp và các con người lại đi xuống Ai Cập,
5 nên Ta sai Mai-sen và A-rôn đem nhiều tai họa đến cho Ai Cập, đưa dân Ta ra khỏi đó.
6 Từ Ai Cập, Ta dẫn họ đến Biển Đỏ. Người Ai Cập đem chiến xa và kỵ binh đuổi theo.
7 Họ cầu cứu với Ta, Ta đem bóng tối che giữa họ và quân Ai Cập, cho nước biển chôn vùi địch quân. Họ chứng kiến việc Ta làm cho Ai Cập. Sau đó, Y-sơ-ra-ên ở trong sa mạc một thời gian dài.
8 Rồi Ta đem họ đến đất của người A-mo, bên kia sông Giô-đan. Người A-mo kháng chiến nhưng bị Ta tiêu diệt, đất họ đã vào tay Y-sơ-ra-ên.
9 Ba-lác con Xếp-bô vua Mô-áp đứng ra chiến đấu với Y-sơ-ra-ên. Vua ấy mời Ba-la-am con Bê-ô đến để nguyền rủa Y-sơ-ra-ên.
10 Nhưng Ta không nghe lời Ba-la-am, nên người ấy phải chúc phước lành cho Y-sơ-ra-ên, như vậy thì Ta cứu các ngươi khỏi tay người ấy.
11 Sau đó, Y-sơ-ra-ên qua sông Giô-đan, đến Giê-ri-cô. Người Giê-ri-cô kháng chiến. Đồng thời, các dân tộc khác cũng chiến đấu với các ngươi - người A-mo, Phê-rết, Ca-na-an, Hết, Ghê-rê-gát, Hê-vi và người Giê-bu - nhưng Ta cho các ngươi chiến thắng cả.
12 Ta sai ong vò vẽ xua đuổi hai vua A-mo trốn chạy. Chiến thắng như vậy đâu phải nhờ cung kiếm của các ngươi?
13 Ta cho các ngươi được đất không cần khai phá, được thành không do tay mình xây (ngày nay là nơi ở của các ngươi), được vườn nho và ô-liu không do tay mình trồng, nhưng có quả ăn.'

14 "Vậy, đồng bào phải kính sợ Chúa, thành tâm trung tín phục sự Ngài; dẹp bỏ hết các thần tổ tiên mình thờ lúc còn ở bên kia Phát-giang và ở Ai Cập. Chỉ thờ phụng Chúa mà thôi.
15 Nhưng nếu đồng bào không muốn thờ Chúa, thì hôm nay đồng bào phải quyết định thờ thần nào - thần các tổ tiên thờ bên kia sông trước kia, hay thần của người A-mo trong đất này. Nhưng tôi và gia đình tôi sẽ phụng thờ Chúa Hằng Hữu."

16 Nhân dân đáp: "Tuyệt nhiên không có việc chúng tôi từ bỏ Chúa, đi thờ các thần khác.
17 Vì Thượng Đế Hằng Hữu của chúng tôi đã cứu cha ông chúng tôi khỏi xiềng xích nô lệ Ai Cập. Ngài đã làm nhiều phép lạ trước mắt nhân dân, bảo vệ chúng tôi suốt đường dài, cả những lúc đi xuyên qua đất địch.
18 Và cũng chính Chúa đã đuổi dân A-mo cùng các dân khác sống trong đất này đi. Chúng tôi cương quyết phụng thờ Chúa, vì Ngài là Chân Thần của chúng tôi."

19 Nhưng Giô-suê nói: "Đồng bào không thể phụng sự Chúa được vì Ngài là Thượng Đế Chí Thánh. Ngài rất kỵ tà thần, không thứ tha người phản nghịch và tội lỗi;
20 nên nếu đồng bào bỏ Chúa, đi thờ thần các nước khác, thì thay vì giáng phúc cho đồng bào Chúa sẽ giáng họa, tiêu diệt đồng bào."
21 Họ đáp: "Không đâu, chúng tôi sẽ thờ Chúa."

22 Giô-suê nói: "Lần này chính đồng bào làm chứng cho mình, đồng bào quyết định thờ phụng Chúa." Nhân dân đồng thanh: "Chúng tôi xin làm chứng."

23 Giô-suê bảo: "Dẹp bỏ các thần khác chung quanh đồng bào đi. Hãy hướng lòng mình về Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên."
24 Họ đáp: "Chúng tôi xin thờ Chúa Hằng Hữu Thượng Đế của chúng tôi. Chúng tôi xin vâng lời Ngài."

25 Vậy, tại Si-chem hôm ấy, Giô-suê kết ước với nhân dân Y-sơ-ra-ên. Ông quy định luật lệ cho họ noi theo.
26 Ông cũng chép tất cả những điều này vào sách luật của Thượng Đế. Xong, ông lấy một tảng lá lớn dựng dưới gốc cây sồi cạnh Lều Hội Kiến.
27 Giô-suê nói: "Tảng đá này sẽ làm chứng cho chúng ta. Nó nghe hết mọi lời Chúa phán dạy. Vậy nếu đồng bào từ bỏ Ngài, đá này sẽ chứng cho."
28 Rồi ông cho mọi người trở về nhà mình.

29 Sau các việc này, Giô-suê con của Nun, tôi tớ của Chúa Hằng Hữu, qua đời, thọ một trăm mười tuổi.
30 Ông được an táng trong đất mình tại Thim-nát Sê-ra trên cao nguyên ép-ra-im về phía bắc núi Ga-ách.

31 Y-sơ-ra-ên phụng thờ Chúa suốt đời Giô-suê và đời của các trưởng lão còn sống sau Giô-suê, là những người đã được chứng kiến các công việc phi thường Chúa Hằng Hữu làm cho Y-sơ-ra-ên.

32 Hài cốt của Giô-sép được người Y-sơ-ra-ên đem theo từ lúc rời Ai Cập, được chôn ở Si-chem, trong miếng đất trước kia Gia-cốp mua của con cháu Hê-mô giá một trăm miếng bạc. Miếng đất này nằm trong lãnh thổ của con cháu Giô-sép.

33 Ê-lê-a-sa con của A-rôn cũng qua đời. Ông được an táng tại Ghi-bê-át, một thành chia cho Phi-nê-a, con ông. Thành này ở trên vùng núi ép-ra-im.