1 Sau khi Giô-suê qua đời, người Y-sơ-ra-ên cầu hỏi Chúa Hằng Hữu: "Xin chỉ dạy chúng con, ai sẽ đi đánh người Ca-na-an trước nhất?"
2 Chúa Hằng Hữu đáp: "Giu-đa. Ta đã giao đất Ca-na-an vào tay họ."
3 Người Giu-đa đề nghị với người Si-mê-ôn: "Anh em hãy giúp chúng tôi đánh người Ca-na-an trong phần đất chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ giúp anh em đánh chiếm phần đất của anh em." Người Si-mê-ôn liền theo người Giu-đa. 4-6 Quân đội Giu-đa xuất trận, Chúa Hằng Hữu cho họ chiến thắng người Ca-na-an và người Phê-rết, giết mười ngàn địch ở Bê-xéc. Vua A-đô-ni Bê-xéc chạy trốn, bị quân Giu-đa đuổi theo bắt được, chặt đứt ngón tay cái và ngón chân cái của vua. 7 A-đô-ni Bê-xéc nói: "Tôi đã chặt ngón cái tay chân của bảy mươi vua, cho họ ăn đồ ăn rơi rớt dưới bàn tôi, ngày nay tôi bị Thượng Đế báo ứng." Người ta giải vua lên Giê-ru-sa-lem, và vua chết tại đó.
8 Quân đội Giu-đa đánh chiếm Giê-ru-sa-lem, tàn sát dân chúng rồi đốt thành. 9 Sau đó, họ quay xuống phía nam, đánh người Ca-na-an sống trên rừng núi và trong đồng bằng. 10 Họ lại đánh người Ca-na-an ở Hếp-rôn (tên cũ là Ki-ri-át A-ra-ba); hạ các thành Sê-sai, A-hi-man và Thanh-mai. Từ đó, họ tiến đánh Đê-bia (tên cũ là Ki-ri-át Sê-phe). 12 Lúc ấy, Khanh-lý nói: "Tôi sẽ gả con gái tôi là Hạc-sa cho người có công đầu trong việc đánh chiếm Ki-ri-át Sê-phe." 13 Ốt-ni-ên, con của Kê-na (em của Khanh-lý) lập công đầu, chiếm thành, và được cưới Hạc-sa làm vợ. 14 Lúc đi đến nhà ốt-ni-ên, Hạc-sa muốn giục chồng xin cha mình một sở ruộng. Khi nàng xuống lừa, Khanh-lý hỏi: "Con muốn gì?" 15 Nàng thưa: "Cha đã cho con đất miền nam, xin cũng cho luôn các suối nước nữa." Khanh-lý cho nàng suối nước thượng và suối nước hạ.
16 Con cháu của ông gia Mai-sen, là người Kên, từ thành Cây Chà-là dời đến sống chung với người Giu-đa trong miền đồng hoang Giu-đa, phía nam A-rát.
17 Người Giu-đa đem quân trợ chiến quân đội Si-mê-ôn, đánh người Ca-na-an ở Xê-phát, tận diệt quân thù. Vì thế thành này được gọi là Họt-ma. 18 Quân Giu-đa còn chiếm Ga-xa, Ách-ca-long, éc-rôn và các thôn ấp phụ cận của thành ấy. 19 Chúa giúp người Giu-đa đánh chiếm toàn miền núi rừng. Tuy nhiên, họ không đuổi được dân ở đồng bằng vì dân này có xe thiết giáp.
20 Theo lệnh Mai-sen, Hếp-rôn được giao cho Khanh-lý. Ông đánh đuổi ba con trai của A-nác đi.
21 Người Bên-gia-min không đuổi người Giê-bu ở Giê-ru-sa-lem; nên đến nay, dân này vẫn còn ở đó, sống chung với người Bên-gia-min.
22,23 Nhà Giô-sép được Chúa phù hộ. Trước khi đánh Bê-tên (tên cũ là Lu-xơ), họ sai người trinh sát. 24 Các thám tử gặp một người ở trong thành đi ra, liền điều đình với người này: "Nếu anh chỉ cho chúng tôi lối vào thành, chúng tôi sẽ khoan hồng cho anh." 25 Người này chỉ cho họ lối vào thành. Nhà Giô-sép tiêu diệt dân trong thành, nhưng tha cho cả nhà người kia sống.
26 Người ấy đem gia đình chạy qua đất của người Hết. Về sau họ xây lên một thành để ở, đặt tên là Lu-xơ, và cho đến nay, tên thành vẫn không đổi.27 Đại tộc Ma-na-se không đuổi người trong các thành Bết-sê-an, Tha-a-nác, Đô-rơ, íp-lê-am, Mê-ghi-đô và trong các thôn ấp phụ cận của các thành ấy đi, vì người Ca-na-an trong những nơi này quyết chí ở lại. 28 Về sau, khi người Y-sơ-ra-ên hùng mạnh hơn, liền bắt người Ca-na-an làm nô dịch, chứ không đuổi họ đi.
29 Người Ép-ra-im cũng không đuổi người Ca-na-an ở Ghê-xe đi, nên họ ở lại đó, sống chung với người Ép-ra-im.
30 Đại tộc Sa-bu-luân không đuổi dân thành Kít-rôn và Na-ha-lô đi, nên người Ca-na-an ở lại làm việc nô dịch.
31 Đại tộc A-se không đuổi dân thành A-cô, Si-đôn, Ách-láp, ạc-xíp, Hên-ba, A-phéc và Kê-hốp đi; 32 Vậy, người A-se sống chung với người Ca-na-an, thổ dân của các thành ấy.
33 Người Nép-ta-li không đuổi dân thành Bết-sê-mết và Bết-A-nát đi, nhưng cho họ ở lại làm việc nô dịch.
34 Người Đan không chinh phục được miền đồng bằng, phải dừng lại ở miền núi rừng, vì người A-mo kháng cự. 35 Dân A-mo cố thủ các thành Ha-hê-rết, A-gia-lôn và Sa-an-bim, nhưng họ bị nhà Giô-sép chế ngự, bắt làm nô lệ. 36 Biên giới đất A-mo chạy từ dốc ạc-ráp-bim, từ Sê-la trở lên.
1 Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đi từ Ghinh-ganh đến Bô-kim, xuất hiện bảo người Y-sơ-ra-ên: "Ta đã giải thoát các ngươi khỏi Ai Cập, đem vào đất này, đất Ta hứa cho tổ tiên các ngươi. Ta có nói: Ta sẽ không bao giờ hủy bỏ giao ước Ta đã kết với các ngươi
2 nếu các ngươi không kết hòa ước với dân bản xứ, và nếu các ngươi hủy phá bàn thờ của họ. Nhưng các ngươi đã không nghe lời Ta. Tại sao các ngươi hành động như vậy được?
3 Vì thế, Ta sẽ không đuổi các dân ấy đi nữa. Họ sẽ như gai chông đâm bên hông các ngươi, và thần của họ trở thành lưới bẫy gài dưới chân các ngươi."
4 Nghe thiên sứ của Chúa Hằng Hữu trách, người Y-sơ-ra-ên đều lên tiếng khóc than.
5 Vì vậy, nơi ấy được gọi là Bô-kim. Họ dâng lễ vật cho Chúa tại đó.
6 Vào ngày Giô-suê giải tán đại hội dân tộc Y-sơ-ra-ên, ai nấy liền trở về vùng đất đai mình chiếm cứ.
7 Dân Y-sơ-ra-ên phụng thờ Chúa Hằng Hữu suốt đời Giô-suê và đời của các trưởng lão còn sống sau Giô-suê, là những người đã được chứng kiến các công việc phi thường Chúa Hằng Hữu làm cho Y-sơ-ra-ên.
8 Rồi, Giô-suê con của Nun, tôi tớ Chúa Hằng Hữu, qua đời lúc ông được một trăm mười tuổi.
9 Ông được chôn cất ngay trong đất mình, tại Thim-nát Hê-re, trên ngọn núi Ép-ra-im về phía bắc núi Ga-ách.
10 Mọi người thuộc thế hệ ấy lần lượt qua đời. Một thế hệ mới lên thay thế, không biết gì đến Chúa Hằng Hữu cũng như các công việc Ngài làm cho Y-sơ-ra-ên.
11 Người Y-sơ-ra-ên phạm tội với Chúa: họ đi thờ phụng Ba-anh.
12,13 Họ bỏ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ tiên mình, Đấng đã giải thoát họ khỏi Ai Cập. Họ đi thờ thần của các dân sống quanh mình là Ba-anh và Ách-ta-rốt. Họ chọc giận Chúa,
14 nên cơn phẫn nộ của Chúa nổi lên với Y-sơ-ra-ên. Ngài để cho họ bị quân thù chung quanh bóc lột, vô phương tự cứu.
15 Mỗi lần họ xuất quân, Chúa cho họ gặp chuyện hiểm nghèo, đúng như lời cảnh cáo và lời thề của Ngài. Họ ở trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng.
16 Chúa Hằng Hữu dấy lên các thẩm phán để giải cứu họ khỏi tay quân thù bóc lột.
17 Thế nhưng họ không chịu nghe lời các thẩm phán; mà còn đi thờ lạy các thần khác. Họ bỏ con đường cha ông mình đã theo, là con đường tin kính Chúa Hằng Hữu. Họ bất tuân mệnh lệnh của Ngài.
18 Mỗi lần Chúa dấy lên một thẩm phán, Ngài phù hộ ông, và suốt đời ông, Y-sơ-ra-ên được giải cứu khỏi tay quân thù, vì Chúa động lòng xót thương khi nghe tiếng thở than của dân dưới sự đè nén, áp bức.
19 Nhưng khi thẩm phán đó chết đi, họ trở lại đường cũ, còn tệ hơn cả tổ phụ mình nữa. Họ đi theo các thần khác, thờ lạy các thần ấy, không từ bỏ một việc xấu nào, nhưng cứ tiếp tục ngoan cố.
20 Vì thế, Y-sơ-ra-ên chọc cho Chúa giận. Ngài phán: "Vì dân này vi phạm giao ước Ta đã kết với cha ông họ, không nghe lời Ta,
21 nên Ta sẽ không đuổi các dân tộc Giô-suê còn để sót lại lúc ông qua đời.
22 Ta dùng các dân này để thử nghiệm Y-sơ-ra-ên, xem họ có thận trọng đi theo đường lối của Chúa như cha ông họ hay không."
23 Đó là lý do Chúa để các dân ấy còn đó, không đuổi họ đi, cũng không cho quân Giô-suê diệt họ.
1 Sau đây là các dân tộc Chúa Hằng Hữu giữ lại để thử người Y-sơ-ra-ên (vì thế hệ Y-sơ-ra-ên sau này chưa có kinh nghiệm chiến trường Ca-na-an, nên Ngài cũng muốn họ có dịp học tập chiến đấu):
3 Người Pha-lê-tin (có năm lãnh chúa), người Ca-na-an, người Si-đôn và người Hê-vi ở trên núi Li-ban, từ Ba-anh Hẹt-môn đến lối vào Ha-mát.
4 Các dân này được Chúa dùng để thử người Y-sơ-ra-ên, xem họ có tuân theo các giáo lệnh Ngài đã truyền dạy họ qua Mai-sen hay không.
5 Như thế, người Y-sơ-ra-ên sống chung với người Ca-na-an, Hết, A-mo, Phê-rết, Hê-vi và Giê-bu;
6 Họ cưới con gái của các dân ấy làm vợ và gả con gái mình cho con trai các dân ấy. Hơn nữa, họ thờ phụng thần của các dân ấy.
7 Người Y-sơ-ra-ên phạm tội với Chúa Hằng Hữu, quên Ngài là Thượng Đế mình. Họ đi thờ Ba-anh và Ách-ta-rốt.
8 Vì thế, Chúa nổi giận, cho Cư-san Ri-sa-tha-im vua xứ Lưỡng-hà đô hộ họ trong tám năm.
9 Đến khi người Y-sơ-ra-ên kêu khóc với Chúa, Ngài cho ốt-niên (con Kê-na, cháu Khanh-lý) đứng lên giải phóng họ khỏi ách nô-lệ.
10 Thần Linh của Chúa ngự trên ốt-niên; ông đứng ra lãnh đạo nhân dân rồi dấy binh khởi nghĩa. Chúa cho ông chiến thắng Cư-san Ri-sa-tha-im vua xứ Luỡng Hà.
11 Đất nước được thái bình bốn mươi năm. Rồi ốt-niên con Kê-na qua đời.
12 Người Y-sơ-ra-ên lại phạm tội với Chúa. Ngài cho éc-lôn vua Mô-áp được cường thịnh và chống lại Y-sơ-ra-ên.
13 éc-lôn liên kết với quân A-ma-léc, đánh bại quân Y-sơ-ra-ên, chiếm thành Cây Chà-là.
14 Y-sơ-ra-ên phải phục dịch éc-lôn vua Mô-áp mười tám năm.
15 Nhưng khi người Y-sơ-ra-ên kêu khóc với Chúa, Ngài dùng Ê-hút (con Ghê-ra thuộc đại tộc Bên-gia-min, một người thuận tay trái) để giải phóng họ. Ông vốn là sứ thần đi triều cống éc-lôn vua Mô-áp.
16 Lúc ấy, ông rèn một thanh kiếm hai lưỡi, dài một thước buộc vào đùi bên mặt, khuất dưới lớp áo,
17 và đi cống vua Mô-áp như thường lệ. Vua éc-lôn là một người rất béo mập.
18 Xong việc triều cống, ông cho các người khuân vác lễ vật về.
19 Ông cũng lên đường về, nhưng khi đến tảng đá chạm gần Ghinh-ganh, liền quay lại, nói với éc-lôn: "Tôi xin tâu kín với bệ hạ một điều." Vua truyền cho những người hầu cận đi ra.
20 Lúc vua chỉ còn lại một mình, ngồi trong một phòng mát trên lầu cung điện, Ê-hút lại gần éc-lôn nói: "Tôi xin tâu lại bệ hạ lời của Thượng Đế." Nghe thế, vua liền đứng dậy.
21-23 Ê-hút dùng tay trái rút kiếm ở đùi mặt ra, nhằm bụng éc-lôn đâm lút cán, mỡ dày phủ quanh kiếm, ruột đổ ra. Ê-hút để nguyên thanh kiếm đó, đi ra khóa trái cửa phòng lại, và thoát qua cổng.
24 Khi ông đi xa rồi, những kẻ hầu cận trở lại, thấy cửa phòng khóa chặt, liền nghĩ: "Chắc vua đang nghỉ ngơi trên phòng mát."
25 Nhưng đứng đợi lâu quá vẫn không thấy vua mở cửa, họ mất kiên nhẫn, lấy chìa khóa mở cửa phòng ra, mới thấy vua mình nằm chết dưới sàn nhà.
26 Trong khi ấy, Ê-hút đã băng qua tảng đá chạm, thoát về Sê-i-ra.
27 Về đến vùng cao nguyên Ép-ra-im, Ê-hút thổi kèn chiêu tập nghĩa quân. Và dĩ nhiên họ tôn ông làm tư lệnh.
28 Ông kêu gọi ba quân: "Anh em theo tôi! Chúa Hằng Hữu giao nạp quân thù Mô-áp vào tay ta rồi." Họ theo ông kéo xuống khúc sông Giô-đan ngang đất Mô-áp, giữ các khúc cạn, không cho ai qua lại hết.
29 Rồi họ đánh quân Mô-áp, giết chừng mười ngàn người, toàn là hạng dũng sĩ, không ai thoát nổi
30 Và hôm ấy, Y-sơ-ra-ên khắc phục Mô-áp. Đất nước thái bình trong tám mươi năm.
31 Sau Ê-hút có Sam-ga con A-nát. Ông giết sáu trăm người Phi-li-tin với một cây gậy có đầu nhọn dùng để thúc bò và giải cứu người Y-sơ-ra-ên.
1 Từ khi Ê-hút qua đời, người Y-sơ-ra-ên lại phạm tội với Chúa.
2 Chúa để cho vua Ca-na-an là Gia-bin ở Hát-so chinh phục Y-sơ-ra-ên. Tư lệnh quân đội Ca-na-an là Si-sê-ra ở Ha-rô-sết Ha-gô-im.
3 Quân đội có đến chín trăm xe thiết giáp. Họ áp bức người Y-sơ-a-ên suốt hai mươi năm, nên Y-sơ-ra-ên kêu xin Chúa cứu giúp.
4 Lúc bấy giờ, nữ tiên tri Đê-bô-ra làm thẩm phán cho dân Y-sơ-ra-ên. Chồng bà tên là Lập-bi-đốt.
5 Bà thường ngồi xét xử nhân dân dưới cây chà là Đê-bô-ra, ở giữa Ra-ma và Bê-tên, trên núi rừng Ép-ra-im.
6 Một hôm, bà sai người mời Ba-rác con A-bi-nam ở Kê-đe thuộc Nép-ta-li đến, bảo: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên có ra lệnh cho ông: Hãy chiêu tập mười ngàn người Nép-ta-li và Sa-bu-luân tại núi Tha-bô.
7 Ta sẽ dụ Si-rê-ra, tư lệnh quân đội của Gia-bin, đem toàn quân và chiến xa ra đánh ngươi tại sông Ki-sơn. Ta sẽ cho ngươi chiến thắng."
8 Ba-rác đáp: "Nếu bà ra trận với tôi, thì tôi sẽ đi; nếu không, tôi không chịu đi đâu!"
9 Bà nói: "Được rồi! Nhưng công đầu sẽ không về tay ông, vì Chúa sẽ nạp Si-sê-ra vào tay một người đàn bà." Rồi bà đứng dậy, cùng đi với Ba-rác đến Kê-đe.
10 Ba-rác triệu tập hai đại tộc Sa-bu-luân và Nép-ta-li tại Kê-đe. Có mười ngàn người theo ông. Bà Đê-bô-ra cùng đi với họ.
11 Lúc ấy, Hi-bá (người Kên, con cháu của Hô-báp, ông gia Mai-sen) sống biệt lập với bà con mình, đi cắm lều ở tận một nơi xa gọi là cây sồi Sa-na-im, gần Kê-đe.
12,13 Được tin Ba-rác dấy binh ở núi Tha-bô, Si-sê-ra liền huy động quân đội, từ Ha-rô-sết Ha-gô-im kéo rốc chín trăm cỗ xe thiết giáp đến sông Ki-sơn.
14 Bà Đê-bô-ra bảo Ba-rác: "Đã đến ngày Chúa Hằng Hữu cho ông chiến thắng Si-sê-ra. Đứng lên! Có Chúa đi trước ông đó." Ba-rác liền kéo mười ngàn quân xuống núi Ê-hút lại gần éc-lôn-ha-bô.
15 Chúa Hằng Hữu dùng gươm dân Ngài chiến thắng Si-sê-ra và đánh tan quân đội Ca-na-an, kể cả quân thiết giáp. Si-sê-ra vội nhảy xuống xe, chạy bộ tẩu thoát.
16 Ba-rác đuổi theo xe và quân địch đến tận Ha-rô-sết Ha-gô-im, giết sạch địch quân, không chừa một mạng.
17 Tướng Si-sê-ra hổn hển chạy đến trại của Gia-ên, vợ Hi-bá người Kên, vì Gia-bin vua Hát-so vẫn hòa hiếu với gia đình Hi-bá.
18 Gia-ên ra đón Si-sê-ra, nói: "Mời ngài vào đây, đừng lo gì hết." Hắn vào lều. Gia-ên lấy một cái chăn đắp phủ lên người hắn.
19 Hắn nói: "Tôi khát, xin cho tôi nước uống." Gia-ên mở bầu sữa cho hắn uống, rồi trùm hắn lại như trước.
20 Hắn lại nói: "Chị ra đứng ở cửa lều. Nếu có người đến hỏi: 'Có ai ở trong lều không?' cứ bảo là không."
21 Rồi Si-sê-ra ngủ thiếp đi vì mệt. Gia-ên lấy một cây cọc dùng để cắm lều với một cái búa, khẽ đến bên Si-sê-ra, đóng cây cọc xuyên màng tang hắn, đầu cọc lút xuống đất. Tướng Si-sê-ra chết.
22 Khi Ba-rác đuổi đến, Gia-ên ra đón và nói: "Ông vào đây, tôi chỉ cho ông người ông tìm." Ông vào lều, thấy Si-sê-ra nằm chết, cây cọc cắm ở màng tang.
23 Vậy hôm ấy, Chúa Hằng Hữu cho Y-sơ-ra-ên khắc phục Gia-bin vua Ca-na-an.
24 Thế lực Y-sơ-ra-ên ngày càng mạnh, và cuối cùng họ tiêu diệt Gia-bin vua Ca-na-an.
1 Ngày ấy, Đê-bô-ra và Ba-rác con A-bi-nô-am cùng hát bài ca chiến thắng này:
2 "Ngợi ca Chúa, Đấng Vĩnh Sinh
Vì Ngài báo oán thật là công minh.
Y-sơ-ra-ên được Ngài giải cứu
Khi dân Ngài tình nguyện hi sinh.
3 "Hỡi vua chúa, hỡi nhà lãnh đạo!
Lắng nghe ta ca tụng Chúa Quang Vinh.
4 "Khi Chúa từ Sê-y ngự giá
Từ cánh đồng Ê-đôm xuất hành
5 Trời đổ mưa và đất rung rinh,
Núi Si-nai run rẩy, chảy tan.
6 "Khi Chân Thần tiết lộ Thánh Nhan
Sau thời kỳ thẩm phán Sam-ga,
Trong đời Gia-ên vợ Hi-bá
Đường cái thường xuyên bị bỏ hoang
Khách bộ hành lùi lũi theo lối mòn kín đáo.
7 Dân ta thiếu người lãnh đạo,
Cho đến ngày đất nước có Nữ nhân,
Thì Y-sơ-ra-ên có một hiền mẫu.
8 Khi dân ta chọn một tà thần
Chiến tranh liền bùng nổ
Ngay tại cổng thành phố.
Dù quân ta đến bốn mươi ngàn
Không một ai được phép mang khiên, giáo.
9 Lòng ta ái mộ các nhà lãnh đạo
Vì nhiệt tình hy sinh giúp quốc dân.
10 "Hãy ca tụng Chúa Toàn Năng!
Ai đang cỡi lừa trắng,
Hoặc đang ngồi thảm sang,
Hay đang đi bộ trên đàng,
Hãy cất giọng ca vang
11 Theo điệu 'Chiến sĩ họp hành bên giếng nước'
Tường thuật chiến thắng huy hoàng,
Ca ngợi ơn dày Đấng Chí Công.
Dân Chúa cùng nhau tiến rập ràng
Kéo quân ra khỏi cổng thành, tiến công!
12 "Thức dậy! Vùng lên, Đê-bô-ra!
Ca hát và đề cao cảnh giác.
Vùng dậy ngay, Ba-rác!
Đứng lên lãnh đạo dân ta.
Con trai A-bi-nam kéo quân ra
13 "Đi trước các người quyền quý.
Dân Chúa đua nhau đánh qu
Quân đội cường bạo Ca-nan.
Hàng hàng lớp lớp nghĩa quân:
14 Dòng dõi anh hùng Ép-ra-im,
Theo sau có cả Bên-gia-min,
Cấp chỉ huy từ Ma-ki kéo xuống,
Sa-bu-luân cũng đưa nhiều dũng tướng.
15,16 Các nhà lãnh đạo Y-sa-ca
Rủ nhau tăng cường Đê-bô-ra,
Và ủng hộ tướng tài Ba-rác,
Kéo vào trũng đánh quân thù tản lạc.
Nhưng dòng họ của Ru-bên đắn đo
Chỉ lo săn sóc đàn cừu
Lắng nghe tiếng chúng kêu gào
Ru-bên mải tính trước tính sau.
17 Ga-la lẫn tránh bên kia Đản-hà
Người Đan sao cứ đứng xa?
Điềm nhiên tọa thị là người A-se
Tháng ngày trong bến lê thê
18 Bỏ neo bất động kê vàng mộng mơ.
Trong khi hào kiệt Sa-bu
Đã cùng với Nép-ta-li hợp quần
Vì dân tộc đành hy sinh tính mạng.
19 "Các vua Ca-na-an ra trận,
Nhưng không tài nào chiến thắng
Dù nỗ lực tiến công Tha-a-nác
Dù quân sĩ xông pha trận mạc
Quanh vùng suối Mê-ghi đổ.
20 Các vì sao trời theo quỹ đạo
Tiến công đánh gục Si-sê-ra:
21 Nước dâng cuồn cuộn Ky-had
Xông lên quét sạch quân Ca-nan rồi.
Ngươi chà năng lực, hồn ơi!
Chỉ vì sóng nước sông ngòi trớ trêu.
22 Đó đây, vó ngựa dập dìu
Của đoàn quân địch sớm chiều thua to.
23 Thiên thần nguyền rủa Mê-rô
Vì dân này nhác, không lo trận tiền.
24 "Phước cho bà chị Gia-ên
ở lều cô quạnh mà nên công đầu.
25 Tướng Si hổn hển bước vào
Bà đi đón tiếp, xã giao cúi chào
Chạy ra ngoài lấy chiếc bầu
Rót ly sữa béo đem vào kính dâng
26 Tướng quân mệt lủi nằm lăn.
Bảo bà gác cửa trại, ngăn người làng.
Nhưng kìa búa, cọc sẵn sàng
Chờ cho ngủ ngáy, đóng màng tang ai.
27 Tướng quân nằm lịm tức thì
Anh hùng cái thế chết vì nữ nhân!
28 "Quê nhà còn có mẫu thân
Đêm ngày tựa cửa hỉ hoan mong chờ:
'Sao xe con vẫn ơ hờ?
Sao không chạy gấp, loa to tin mừng?'
29 Nghe lời các kẻ tùy tùng
Bà càng tự phụ: 'Anh hùng xưa nay
Đời nào có biết đắng cay?
30 'Họ còn đang bận ở ngay chiến trường Phân chia chiến phẩm là thường
Mỗi anh chiến sĩ vài nường mỹ nhân
Riêng Si thu hết lụa hàng
Lại thêm hai chiếc khăn bằng gấm thêu
Quấn vai ông tướng lêu đêu
ăn mừng chiến thắng giữa triều Ca-nan,'
31 "Lạy Vua Hằng Hữu Chân Thần,
Người yêu thương Chúa ngày càng sáng trưng!"
Đất nước hưởng thái bình suốt bốn mươi năm.
1 Thế rồi, người Y-sơ-ra-ên lại phạm tội với Chúa. Ngài cho người Ma-đi-an hành hạ họ trong bảy năm.
2 Thế lực người Ma-đi-an mạnh quá, nên dân Y-sơ-ra-ên phải vào sống trong núi, trong hang và những nơi kiên cố.
3 Khi người Y-sơ-ra-ên đi ra gieo giống, người Ma-đi-an, người A-ma-léc và các dân ở miền đông liền kéo lên tấn công.
4 Họ đóng quân ngay tại địa phương ấy đợi chờ. Họ phá hủy mùa màng đến tận Ga-xa, không chừa cho Y-sơ-ra-ên gì cả, dù lương thực hay súc vật.
5 Các dân ấy đến đông như châu chấu, mang theo lều trại, bò, ngựa, lạc đà, tàn phá nơi nào họ đi qua.
6,7 Người Y-sơ-ra-ên bị dân Ma-đi-an áp bức đến cùng cực, lúc ấy họ mới kêu xin Chúa Hằng Hữu cứu giúp.
8 Chúa sai một tiên tri đến, bảo người Y-sơ-ra-ên: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, bảo: Ta đã giải thoát các ngươi khỏi ách nô-lệ Ai Cập;
9 Ta đã giải cứu các ngươi khỏi thế lực người Ai Cập, cũng như các dân tộc từng áp bức các ngươi, đuổi quân thù đi và cho các ngươi đất của họ.
10 Ta đã bảo các ngươi rằng Ta là Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế các ngươi; các ngươi không được thờ kính các thần của thổ dân A-mo, nhưng các ngươi không nghe lời Ta."
11 Một hôm, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đến ngồi dưới cây sồi ở Óp-ra, trong đất của Giô-ách, người A-bia-xe. Con của Giô-ách là Ghi-đê-ôn đang đập lúa trong hầm ép rượu để tránh tai mắt người Ma-đi-an.
12 Thiên sứ của Chúa hiện ra, nói với Ghi-đê-ôn: "Chiến sĩ dũng cảm kia, Chúa Hằng Hữu ở với ngươi!"
13 Ghi-đê-ôn thưa: "Nếu Chúa ở với chúng tôi, tại sao những việc này xảy ra được? Cha ông chúng tôi vẫn thường kể lại các công việc phi thường Chúa làm khi đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, nay chúng tôi có thấy gì đâu? Ngày nay Chúa bỏ chúng tôi, để cho người Ma-đi-an hành hạ chúng tôi."
14 Nhưng Chúa Hằng Hữu quay lại, bảo ông: "Hãy dùng năng lực ngươi đang có để giải thoát Y-sơ-ra-ên khỏi tay người Ma-đi-an. Chính Ta sai bảo ngươi!"
15 Ghi-đê-ôn đáp: "Lạy Chúa, làm sao tôi giải thoát Y-sơ-ra-ên được? Gia đình tôi hèn mọn nhất trong đại tộc Ma-na-se, còn tôi là người nhỏ nhất trong nhà."
16 Chúa Hằng Hữu dạy: "Nhưng vì Ta ở với ngươi. Nên ngươi sẽ đánh cả dân tộc Ma-đi-an như đánh một người vậy."
17 Ghi-đê-ôn lại thưa: "Nếu thực Ngài đoái hoài đến tôi, xin cho tôi thấy một điềm lạ, chứng tỏ chính Chúa Hằng Hữu đã nói với tôi.
18 Xin Chúa ở đây chờ tôi đi lấy lễ vật dâng cho Ngài." Chúa đáp: "Ta ở đây chờ ngươi."
19 Ghi-đê-ôn về nhà làm thịt một con dê con, và lấy một giạ bột làm bánh không men. Ông để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, đem ra cây sồi, dâng cho Ngài.
20 Thiên sứ của Thượng Đế bảo: "Ngươi lấy thịt và bánh không men để trên tảng đá này. Đem nước thịt đổ lên trên." Ông vâng lời.
21 Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đưa cây gậy cầm nơi tay, chạm đầu gậy vào thịt và bánh. Lửa từ đá bốc lên thiêu cháy thịt và bánh không men. Thiên sứ của Chúa biến đi.
22 Bấy giờ Ghi-đê-ôn mới nhận ra rằng đó là thiên sứ của Chúa Hằng Hữu. Ông liền kêu lên: "Than ôi, Lạy Thượng Đế Hằng Hữu! Tôi đã thấy thiên sứ của Ngài mặt đối mặt!"
23 Nhưng Chúa Hằng Hữu bảo: "Đừng sợ. Ngươi không chết đâu. Cứ an tâm."
24 Ghi-đê-ôn xây một cái bàn thờ tại nơi ấy cho Chúa đặt tên là "Chúa Bình An." Đến nay, bàn thờ này vẫn còn ở Óp-ra, trong đất A-bia-xe.
25 Tối hôm ấy, Chúa lại bảo Ghi-đê-ôn: "Bắt con bò đực tơ của cha ngươi và một con bò đực bảy tuổi, dùng chúng kéo sập bàn thờ Ba-anh của cha ngươi, và chặt cái khám thờ bên bàn thờ ấy xuống.
26 Sau đó, xây một bàn thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu ngươi trên tảng đá này, theo cách đã ấn định. Rồi dâng con bò thứ nhì làm tế lễ thiêu, lấy gỗ của khám thờ xuống làm củi đốt."
27 Ghi-đê-ôn gọi mười người đầy tớ giúp mình làm mọi điều Chúa dạy. Nhưng ông hành động trong đêm tối, chứ không dám làm giữa ban ngày, vì sợ người nhà và dân trong thành trông thấy.
28 Sáng hôm sau, người trong thành dậy thấy bàn thờ Ba-anh sập đổ, khám thờ đã bị triệt hạ, và một cái bàn thờ mới được xây lên, trên ấy có dâng một con bò.
29 Mọi người xôn xao hỏi nhau: "Ai là thủ phạm?" Dò la một hồi, họ kết luận: "Ghi-đê-ôn con Giô-ách."
30 Họ bảo Giô-ách: "Đem con ông ra đây! Nó phải chết vì tội phá đổ bàn thờ thần Ba-anh và triệt hạ khám thờ."
31 Giô-ách cứng rắn trả lời đám người ấy: "Các người định biện hộ cho Ba-anh phải không? Các người muốn cứu hắn sao? Ai bênh vực Ba-anh phải bị xử tử sáng hôm nay. Nếu hắn là thần, cứ để hắn tự bênh vực, vì có người phá đổ bàn thờ của hắn!"
32 Từ hôm ấy, người ta gọi Ghi-đê-ôn là Giê-ru Ba-anh, nghĩa là "để Ba-anh tự biện hộ lấy," vì có người phá bàn thờ thần ấy.
33 Một hôm, người Ma-đi-an, người A-ma-léc, và các dân miền đông lại cùng nhau kéo đến. Họ vượt sông Giô-đan, đóng trại ở thung lũng Gít-rê-ên.
34 Thần Linh của Chúa chiếm ngự Ghi-đê-ôn. Ông thổi kèn chiêu binh. Người A-bia-xe liền theo ông.
35 Ông sai người đến các đại tộc Ma-na-se, A-se, Sa-bu-luân và Nép-ta-li kêu gọi hưng binh; họ đều theo ông.
36 Ghi-đê-ôn thưa với Thượng Đế: "Nếu Chúa dùng tôi giải cứu Y-sơ-ra-ên như Ngài đã nói,
37 thì đây, tôi có để một mớ lông cừu trên sân đập lúa: Nếu sương chỉ rơi ướt lông cừu, còn chung quanh sân đều khô ráo, thì tôi sẽ biết Chúa dùng tôi giải thoát Y-sơ-ra-ên."
38 Việc xảy ra đúng như thế. Sáng sớm hôm sau, ông dậy, vắt nắm lông, nước chảy đầy một bát.
39 Ghi-đê-ôn lại thưa Thượng Đế: "Xin Ngài đừng giận, nhưng cho tôi thử một lần nữa. Lần này xin cho lông cừu khô, còn toàn sân bị sương thấm ướt."
40 Đêm ấy, Thượng Đế làm đúng như lời ông xin. Nắm lông khô ráo, còn cả sân đều ướt đẫm sương đêm.
1 Giê-ru Ba-anh (Ghi-đê-ôn) và tất cả nghĩa quân dậy sớm, kéo ra đóng bên suối Ha-rốt. Lúc ấy quân Ma-đi-an đóng ở phía bắc quân Y-sơ-ra-ên, trong thung lũng, bên đồi Mô-rê.
2 Chúa Hằng Hữu bảo Ghi-đê-ôn: "Quân ngươi đông quá! Nếu Ta cho họ thắng Ma-đi-an, họ sẽ tự phụ, cho rằng: 'Ta tự giải thoát vì ta có lực lượng hùng hậu.'
3 Nên ngươi phải thông báo: "Ai lo ngại, sợ sệt, thì cứ về nhà." Có hai mươi hai ngàn người bỏ về, còn lại mười ngàn người.
4 Nhưng Chúa lại dạy: "Hãy còn nhiều quân quá! Đem họ xuống dưới suối để Ta thử; và sẽ cho ngươi biết ai ở, ai về."
5,6 Ghi-đê-ôn dẫn họ xuống suối. Chúa bảo: "Con để những người dùng tay vốc nước, rồi lấy lưỡi liếm như chó sang một bên, và những người quì xuống để uống sang một bên khác." Có ba trăm người liếm nước trong tay, còn những người khác đều quì xuống để uống.
7 Chúa bảo Ghi-đê-ôn: "Ta sẽ dùng ba trăm người này giải thoát Y-sơ-ra-ên khỏi quyền lực Ma-đi-an. Còn những người khác, cứ cho họ ra về."
8 Trước khi những người này về, Ghi-đê-ôn thu lại lương thực và kèn đồng trong tay họ. Vậy chỉ có ba trăm người ở lại, trong khi quân Ma-đi-an đông đảo tràn ra ngay dưới thung lũng.
9 Ngay đêm ấy, Chúa ra lệnh cho Ghi-đê-ôn: "Hãy thức dậy, xuống đánh trại quân Ma-đi-an. Ta sẽ cho các ngươi chiến thắng.
10 Nhưng nếu ngươi còn lo sợ, thì cứ dắt theo Phu-ra, đầy tớ ngươi, đến trại quân nghe ngóng
11 những điều họ bàn tán, rồi ngươi sẽ vững tâm mạnh bạo đem quân xuống đánh." Ghi-đê-ôn cùng với Phu-ra đến tận tiền đồn.
12 Quân đội Ma-đi-an, A-ma-léc và quân của các dân miền đông đóng dưới thung lũng lô nhô lúc nhúc như châu chấu, đông như cát biển. Bầy lạc đà của họ cũng thật là nhiều.
13 Vừa lúc Ghi-đê-ôn đến, ông nghe một người đang kể chiêm bao mình cho bạn đồng đội: "Tôi thấy có một cái bánh lúa mạch rơi vào đồn Ma-đi-an, đập vào trại làm đổ sập xuống."
14 Người bạn đồng đội bàn: "Đây chắc là lưỡi kiếm của Ghi-đê-ôn con Giô-ách người Y-sơ-ra-ên. Chắc Thượng Đế cho Ghi-đê-ôn thắng Ma-đi-an."
15 Nghe câu chuyện chiêm bao và lời bàn xong, Ghi-đê-ôn quỳ xuống thờ lạy Chúa Hằng Hữu, rồi trở về trại mình. Ông gọi quân sĩ: "Thức dậy đi. Chúa cho ta thắng quân Ma-đi-an rồi."
16 Ông chia quân làm ba đội, mỗi đội một trăm. Mỗi người nhận được một cây kèn, một cái bình, trong bình có một cây đuốc.
17 Ông dặn họ: "Khi đến ngoài đồn địch, anh em cứ làm theo những điều tôi làm.
18 Khi tôi và những người đồng đội thổi kèn, anh em ở quanh đồn cũng thổi kèn lên, rồi thét: "Vì Chúa Hằng Hữu và vì Ghi-đê-ôn!"
19,20 Vào nửa đêm (đầu phiên canh thứ hai), Ghi-đê-ôn dẫn một trăm chiến sĩ trong đội mình lẻn đến bên ngoài đồn địch. Ngay lúc lính canh vừa đổi phiên, kèn thổi lên, bình vỡ sổn soảng. Cả ba đội quân Y-sơ-ra-ên đồng loạt thổi kèn đồng, đập vỡ bình đất. Mỗi người tay trái cầm đuốc, tay mặt cầm kèn thổi vang trời. Họ đồng thanh la hét: "Lưỡi kiếm của Chúa Hằng Hữu và Ghi-đê-ôn!"
21 Họ cứ đứng tại chỗ vòng quanh đồn. Trong khi ấy, địch quân chạy tán loạn, vừa kêu la vừa tìm đường tẩu thoát.
22 Tiếng kèn của nghĩa quân càng vang động; Chúa Hàng Hữu làm cho quân địch quay lại chém giết lẫn nhau. Số còn lại chạy dài cho đến Bết-si-ta gần Xê-xa-ra, và đến tận biên giới A-bên Mê-hô-la, gần Ta-bát.
23 Người thuộc đại tộc Nép-ta-li, A-se và Ma-na-se được huy động đi truy nã quân Ma-đi-an.
24 Ghi-đê-ôn cũng sai người đi khắp các núi Ép-ra-im triệu tập quân lực đánh Ma-đi-an, chận đường qua sông của địch tại Bết-ba-ra và dọc sông Giô-đan.
25 Hai tướng Ma-đi-an là Ô-rép và Xê-ép bị bắt. Ô-rép bị giết tại tảng đá Ô-rép; Xê-ép tại máy ép rượu Xê-ép. Đầu của hai tướng này được chở qua sông Giô-đan, đem đến cho Ghi-đê-ôn.
1 Lúc ấy người Ép-ra-im cật vấn Ghi-đê-ôn: "Sao ông không gọi chúng tôi ngày ông khởi binh đánh Ma-đi-an?" Và họ trách móc ông nặng nề.
2,3 Nhưng Ghi-đê-ôn đáp: "Thượng Đế đã cho anh em bắt được Ô-rép và Xê-ép, công của anh em lớn lắm, chúng tôi đâu có công trạng gì sánh nổi? Cả mùa nho của người A-bia-xe cũng không bằng nho mót trong vườn người Ép-ra-im." Nghe thế, họ mới nguôi giận.
4 Ghi-đê-ôn với ba trăm nghĩa quân mặc dù mệt mỏi lắm, nhưng vẫn băng sông Giô-đan, đuổi theo quân địch.
5 Đến Su-cốt, ông yêu cầu dân chúng: "Xin cấp cho quân ta một số bánh, vì họ đói lả, trong khi tôi phải đuổi theo hai vua Ma-đi-an là Xê-bách và Xanh-nu-na."
6 Nhưng các người lãnh đạo của dân Su-cốt đáp: "Ông đã bắt được Xê-bách và Xanh-nu-na đâu mà bảo chúng tôi đem bánh cho quân của ông ăn."
7 Ghi-đê-ôn nói: "Thế thì khi Chúa Hằng Hữu cho tôi bắt được Xê-bách và Xanh-nu-na rồi, tôi sẽ lấy gai gốc sa mạc đánh rách thịt các người ra."
8 Rồi ông tiếp tục lên đường. Đến Phê-mu-ên, ông cũng hỏi xin bánh cho nghĩa quân. Dân Phê-nu-ên cũng trả lời giống như dân Su-cốt.
9 Ông nói: "Khi tôi an toàn trở về, tôi sẽ phá đổ cái tháp này."
10 Lúc ấy Xê-bách, Xanh-nu-na và liên quân đang đóng ở Ca-co. Đó là tàn quân của các dân miền đông, nay chỉ còn có mười lăm ngàn người, vì có đến một trăm hai mươi ngàn người đã tử trận.
11 Ghi-đê-ôn theo đường của bọn du mục ở phía đông Nô-bách và Giô-bê-ha, bất thần tấn công địch quân.
12 Xê-bách và Xanh-nu-na chạy trốn; Ghi-đê-ôn đuổi theo bắt được, còn quân của hai vua ấy bị đánh tan.
13 Chiến thắng xong, Ghi-đê-ôn theo đường đèo Hê-re quay về.
14 Ông bắt một thanh niên người Su-cốt để thẩm vấn. Người này viết ra tên của hai mươi bảy người lãnh đạo Su-cốt.
15 Ghi-đê-ôn vào thành Su-cốt, nói: "Các người có mắng tôi, bảo rằng tôi đâu đã bắt được Xê-bách và Xanh-mu-na, mà đòi cho quân sĩ ăn trong khi họ đói lả. Thì đây, Xê-bách và Xanh-mu-na!"
16 Rồi ông bắt những người lãnh đạo Su-cốt, dùng gai gốc sa mạc đánh phạt một trận.
17 Ông cũng phá đổ tháp Phê-nu-ên; trai tráng trong thành đều bị giết.
18 Ghi-đê-ôn hỏi Xê-bách và Xanh-nu-na: "Những người bị hai người giết ở Tha-bô tầm vóc thế nào?"
Họ đáp: "Họ trông giống như ông, như các hoàng tử vậy."
19 Ông nói: "Họ là anh em ruột thịt của ta. Nếu các người không giết họ, chắc chắn ta cũng không giết các người."
20 Rồi ông quay sang bảo Giê-the, con trưởng nam mình: "Con đứng dậy giết họ đi!" Nhưng cậu thiếu niên non gan nên lưỡng lự không dám rút kiếm.
21 Xê-bách và Xanh-nu-na nói: "Ông giết chúng tôi đi! Chết dưới tay một người anh hùng lực lưỡng như ông vẫn hơn." Ghi-đê-ôn đứng lên giết Xê-bách và Xanh-nu-na, rồi thu đồ trang sức đeo nơi cổ lạc đà của họ.
22 Người Y-sơ-ra-ên thỉnh cầu Ghi-đê-ôn: "Xin ông và con cháu ông cai trị chúng tôi, vì ông đã giải phóng chúng tôi khỏi quyền lực Ma-đi-an."
23 Nhưng Ghi-đê-ôn đáp: "Tôi và con tôi sẽ không cai trị Y-sơ-ra-ên đâu, nhưng chính Chúa Hằng Hữu sẽ cai trị."
24 Ông tiếp: "Tuy nhiên, tôi xin anh em một điều: "Hãy đem cho tôi các vòng đeo tai anh em lấy được của địch." (Quân địch là người Ích-ma-ên, nên có đeo vòng vàng nơi tai.)
25 Họ đáp: "Chúng tôi sẵn lòng," rồi trải một cái áo ra, bỏ tất cả vòng vàng thu được vào đó.
26 Tổng số vàng nặng tương đương với một ngàn bảy trăm lạng vàng; không kể các vòng cổ, đồ trang sức, áo màu tím của các vua Ma-đi-an mặc, cùng đồ trang sức đeo nơi cổ lạc đà họ cưỡi.
27 Ghi-đê-ôn dùng vàng ấy làm thành một ê-phót để tại Óp-ra, thành ông đang ở. Người Y-sơ-ra-ên kính thờ ê-phót ấy, và nó trở thành nguyên nhân gây cho Ghi-đê-ôn và gia đình ông vấp ngã.
28 Vậy, Ma-đi-an bị Y-sơ-ra-ên trấn áp, không còn ngóc đầu lên được. Và đất nước Y-sơ-ra-ên được thái bình trong bốn mươi năm, trong đời Ghi-đê-ôn.
29 Giê-ru Ba-anh con Giô-ách quay về nhà mình.
30 Ông có đến bảy mươi con trai, vì nhiều vợ.
31 Ông còn có vợ bé ở Si-chem. Bà này sinh được một cậu trai tên là A-bi-mê-léc.
32 Ông mất vào lúc tuổi cao, được chôn trong mộ của cha mình, tại Óp-ra, trong đất A-bia-xe.
33 Nhưng Ghi-đê-ôn vừa chết đi, người Y-sơ-ra-ên lại thờ cúng Ba-anh, chọn Ba-anh Bê-rít làm thần mình.
34 Họ không còn nhớ đến Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế đã giải cứu họ khỏi tay quân thù sống chung quanh.
35 Họ cũng không tỏ lòng thuận thảo với gia đình Giê-ru Ba-anh (Ghi-đê-ôn), không nhớ ơn ông gì nữa.
1 A-bi-mê-léc con Giê-ru Ba-anh về quê mẹ ở Si-chem, bàn với các cậu và gia đình bên ngoại mình:
2 "Xin đi hỏi nhân dân Si-chem, xem họ muốn cho cả bảy mươi con trai Giê-ru Ba-anh cai trị, hay chỉ một người cai trị là hơn. Cũng xin nhắc họ rằng tôi là người ruột thịt."
3 Các ông cậu nghe lời, đi nói với mọi người dân ở Si-chem, và dĩ nhiên người Si-chem sẵn lòng ủng hộ A-bi-mê-léc, vì coi ông như anh em.
4 Họ lấy bạc trong miếu Ba-anh Bê-rít, cho A-bi-mê-léc bảy mươi nén. A-bi-mê-léc lấy tiền đi mướn bọn vô loại, du đãng theo mình.
5 Ông quay lại Óp-ra, về nhà cha mình, giết bảy mươi con của Giê-ru Ba-anh trên một tảng đá. Nhưng người con út là Giô-tham đi trốn, nên thoát chết.
6 Dân Si-chem và Bết-mi-lô họp tại bia đá bên gốc cây sồi ở Si-chem, tôn A-bi-mê-léc làm vua.
7 Khi nghe tin này, Giô-tham lên đỉnh núi Ga-ri-xim, hét lên: "Người Si-chem ơi! Nếu muốn được Thượng Đế nghe lời mình, xin các người nghe lời tôi nói.
8 Xưa kia, khi cây cối muốn có vua, chúng nói với cây Ô-liu: 'Xin cai trị chúng tôi.'
9 Nhưng cây Ô-liu đáp: 'Không lẽ tôi bỏ việc cung cấp dầu, một thứ dầu được cả Thượng Đế lẫn loài người đều quí chuộng, để đi dao động cành lá mình trên các cây khác sao?'
10 Các cây mới nói với các cây vả: 'Xin làm vua chúng tôi.'
11 Cây vả đáp: 'Không lẽ tôi đành bỏ việc cung cấp trái ngọt ngào, để đi dao động cành lá mình trên các cây khác?'
12 Các cây quay sang cây nho: 'Xin làm vua chúng tôi.'
13 Nhưng cây nho cũng từ chối: 'Tôi đây có nên bỏ việc cung cấp rượu nho, làm cho cả thần linh và loài người phấn chấn, để đi dao động cành lá mình trên các cây khác?'
14 Cuối cùng, cây cối phải nói với bụi gai: 'Xin cai trị chúng tôi.'
15 Bụi gai nói: 'Nếu anh em thực lòng muốn tôn tôi làm vua, tất cả phải đến nấp dưới bóng tôi. Nếu không, nguyện lửa từ bụi gai đốt cháy cả các cây bách hương ở Li-ban.' "
16 Giô-tham tiếp: "Bây giờ các người có thực lòng muốn tôn A-bi-mê-léc làm vua không? Thử hỏi các người có hậu đãi Giê-ru Ba-anh và gia đình ông không? Các người có báo đáp công ơn của ông không?
17 Vì cha tôi đã hy sinh tính mạng chiến đấu cho các người, cứu các người khỏi tay dân Ma-đi-an,
18 nhưng bây giờ các người lại phản cha tôi, giết bảy mươi người con ông trên tảng đá, để tôn con một người tỳ nữ của cha tôi là A-bi-mê-léc lên làm vua Si-chem, chỉ vì A-bi-mê-léc là bà con mình.
19 Nếu các người đã cư xử trung hậu với Giê-ru Ba-anh và nhà ông, tất A-bi-mê-léc sẽ cùng các người hưởng sung sướng hạnh phúc.
20 Nếu không, lửa của A-bi-mê-léc sẽ thiêu đốt dân Si-chem và Bết Mi-lô, và ngược lại lửa của Si-chem và Bết Mi-lô thiêu cháy A-bi-mê-léc."
21 Nói xong, Giô-tham chạy mất, đến ẩn thân ở Bê-re, vì sợ A-bi-mê-léc anh mình.
22 A-bi-mê-léc cai trị Y-sơ-ra-ên ba năm.
23 Nhưng Thượng Đế sai một ác thần chia rẽ A-bi-mê-léc với người Si-chem, khiến họ phản A-bi-mê-léc;
24 và như vậy, tội giết anh em (bảy mươi con Giê-ru Ba-anh) của A-bi-mê-léc và tội tòng phạm của dân Si-chem đều bị trừng trị.
25 Người Si-chem mai phục trên đỉnh núi, chờ đợi A-bi-mê-léc. Nhưng vì họ cướp bóc những người đi ngang qua vùng ấy, nên tin này đến tai A-bi-mê-léc.
26 Trong khi ấy, Ga-anh con Ê-bết cùng với anh em mình đến sinh sống ở Si-chem. Người địa phương tín nhiệm Ga-anh lắm.
27 Đến mùa nho, họ cùng nhau vào vườn hái trái, ép rượu. Họ tổ chức hội hè trong miếu thần, ăn uống no say, rồi bắt đầu chửi rủa A-bi-mê-léc.
28 Ga-anh lên tiếng: "A-bi-mê-léc là ai mà chúng ta là người Si-chem phải thần phục? Hắn là con của Giê-ru Ba-anh và tay chân hắn là Xê-bun. Hãy phụng thờ người Hê-mô, tổ tiên của người Si-chem. Thế thì tại sao chúng ta là người phải phục vụ hắn?
29 Nếu được dân ủng hộ, tôi sẽ truất phế A-bi-mê-léc. Trước hết, tôi sẽ thách hắn tăng cường lực lượng để ra tranh hùng."
30 Khi Xê-bun, thị trưởng Si-chem, nghe được những lời Ga-anh nói, liền nổi giận.
31 Ông sai người đến A-ru-ma, báo cáo với A-bi-mê-léc: "Ga-anh con Ê-bết và anh em hắn đến Si-chem xúi dân phản vua.
32 Bây giờ, bệ hạ nên xuất quân vào lúc đêm tối, đến phục sẵn ngoài đồng.
33 Chờ lúc mặt trời mọc, sẽ kéo vào đánh thành. Khi Ga-anh và những người theo hắn kéo ra, bệ hạ tùy nghi đối phó."
34 A-bi-mê-léc đốc thúc quân sĩ theo mình ra đi đêm ấy, rồi chia làm bốn đội ngũ mai phục bên ngoài thành Si-chem.
35 Khi Ga-anh ra đứng ở cổng thành, A-bi-mê-léc dẫn quân từ tổ phục kích xông ra.
36 Thấy họ, Ga-anh nói với Xê-bun: "Xem kìa! Có đoàn người từ trên núi xuống."
Xê-bun: "Đó là bóng núi, không phải người đâu."
37 "Không. Trông kìa!" Ga-anh nói; "Có một toán từ trên núi đi xuống, và một toán khác theo lối cây sồi Phù Thủy tiến đến."
38 Đến lúc ấy, Xê-bun đổi giọng: "Không phải ông đã khoác lác nói rằng: A-bi-mê-léc là ai mà ta phải phục vụ, hay sao? Những người ông thấy đó là những người ông đã miệt thị. Bây giờ ông ra chiến đấu với họ đi."
39 Ga-anh dẫn người Si-chem ra nghênh chiến.
40 Nhưng A-bi-mê-léc đuổi Ga-anh chạy, đánh nhiều người Si-chem bị thương, nằm dài đến tận cổng thành.
41 Rồi, A-bi-mê-léc về A-ru-ma. Tại Si-chem, Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em ông ra khỏi thành.
42 Nhưng qua ngày hôm sau, người Si-chem lại kéo ra ngoài thành. Được tin,
43 A-bi-mê-léc liền chia quân làm ba đội ngũ, kéo đến phục ngoài đồng. Khi thấy người trong thành ra, phục binh liền nhảy ra chém giết.
44 A-bi-mê-léc dẫn một đội ngũ tiến lên chặn cổng thành, trong khi hai đội kia ở lại tiếp tục càn quét.
45 A-bi-mê-léc tấn công suốt ngày mới chiếm được thành. Mọi người trong thành đều bị giết. Thành bị san bằng. A-bi-mê-léc còn sai rải muối lên thành đã sụp đổ.
46 Nghe tin này, các cấp lãnh đạo Tháp Si-chem kéo nhau lên trốn trên đỉnh miếu thần Bê-rít, vì miếu này kiên cố.
47,48 Có người báo cáo cho A-bi-mê-léc việc này, hắn liền kéo toàn quân lên núi Sanh-môn. Tại đó, A-bi-mê-léc lấy rìu đốn một nhánh cây vác lên vai, rồi ra lệnh cho mọi người theo mình: "Làm đúng như ta làm. Nhanh lên!"
49 Mọi người chặt cây, vác đi theo A-bi-mê-léc. Họ chất cây quanh miếu phóng hỏa. Tất cả những người trốn trong ấy chết hết, tổng số đến chừng một ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà.
50 Sau đó, A-bi-mê-léc đi tấn công Thê-bết và chiếm thành.
51 Nhưng, trong thành ấy có một cái tháp kiên cố, và mọi người chạy vào trốn trong đó. Họ đóng chặt cửa lại rồi leo lên nóc tháp.
52 A-bi-mê-léc tấn công tháp, đến tận bên cửa để đốt tháp.
53 Nhưng có một người đàn bà ném xuống một thớt cối đá, trúng đầu A-bi-mê-léc, làm vỡ sọ.
54 Hắn vội vàng gọi thanh niên mang khí giới cho mình và bảo: "Lấy kiếm giết ta đi, đừng để họ nói rằng ta bị một người đàn bà giết." Thanh niên liền đâm hắn chết.
55 Những người theo A-bi-mê-léc thấy hắn chết rồi, bắt đầu bỏ đi, ai về nhà nấy.
56,57 Như vậy, Thượng Đế trừng phạt A-bi-mê-léc và người Si-chem vì tội giết bảy mươi con trai của Ghi-đê-ôn. Và như thế lời nguyền rủa của Giô-tham cũng đã thành sự thật.
1,2 Sau đời A-bi-mê-léc, có Thô-la (con Phu-a, cháu Đô-đô, thuộc đại tộc Y-sa-ca, quê ở Sa-mia trên núi Ép-ra-im) vì dân vì nước đã đứng ra làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên trong hai mươi ba năm. Khi qua đời, ông được chôn ở Sa-mia.
3 Sau Thô-la có Giai-rơ người Ga-la-át làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên trong hai mươi hai năm.
4 Ông có ba mươi con trai, mỗi người có một con lừa để cưỡi và một thành để ở. Các thành này ở trong đất Ga-la-át, và cho đến ngày nay vẫn còn được gọi là các thành Giai-rơ.
5 Giai-rơ qua đời và được chôn ở Kha-môn.
6 Sau đó, người Y-sơ-ra-ên lại phạm tội với Chúa Hằng Hữu, thờ cúng Ba-anh và Ách-ta-rốt, thần của người Sy-ri, Si-đôn, Mô-áp, A-mo và Phi-li-tin. Họ bội đạo, không thờ Chúa nữa.
7,8 Chúa nổi giận, cho phép người Phi-li-tin và Am-môn ra tay đàn áp Y-sơ-ra-ên ngay trong năm ấy. Và suốt trong mười tám năm, người Y-sơ-ra-ên sống bên bờ phía đông sông Giô-đan, trong đất Ga-la-át (đất của người Am-môn trước kia) bị áp bức.
9 Quân Am-môn còn vượt sông, sang bờ phía tây tấn công Giu-đa, Bên-gia-min và Ép-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên thật là khốn khổ.
10 Họ thú tội với Chúa: "Chúng tôi đã phạm tội với Chúa, bỏ Thượng Đế mình để thờ Ba-anh."
11 Nhưng Chúa đáp: "Không phải Ta phải giải cứu các ngươi khỏi người Ai Cập, A-mo, Am-môn, Phi-li-tin,
12 Si-đôn, A-ma-léc và Ma-ôn sao?
13 Thế mà, các ngươi bỏ Ta, đi thờ các thần khác. Lần này Ta không cứu các ngươi nữa đâu.
14 Đi cầu thần các ngươi đã chọn, để các thần ấy cứu các ngươi trong lúc hoạn nạn."
15 Người Y-sơ-ra-ên thưa: "Chúng tôi có tội, xin cứ trừng phạt tùy theo ý Ngài. Nhưng bây giờ, xin giải cứu chúng tôi một lần nữa."
16 Họ bắt đầu dẹp bỏ thần của các dân tộc khác và trở lại thờ Chúa Hằng Hữu. Ngài xót xa cho cảnh khốn nạn của Y-sơ-ra-ên.
17 Lúc ấy, người Am-môn tập trung quân đội, kéo đến đóng ở Ga-la-át; trong khi người Y-sơ-ra-ên đang tập họp tại Mích-ba.
18 Các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên ở Ga-la-át bảo nhau: "Ai tình nguyện đánh người Am-môn trước sẽ được làm lãnh tụ Ga-la-át."
1,2 Bấy giờ có Giép-thê nổi danh là một chiến sĩ anh dũng, nhưng mẹ ông vốn là một gái điếm. Cha ông là Ga-la-át có những người con với vợ chính; và khi những người này lớn lên, liền đuổi Giép-thê đi. Họ nói: "Anh không được chia tài sản của cha để lại, vì anh là con của bà khác."
3 Vì vậy, Giép-thê phải lánh xa anh em, đến ở trong đất Tóp. Một số lãng tử kết hợp lại, theo ông.
4,5 Vào thời chiến tranh giữa Am-môn và Y-sơ-ra-ên, các nhà lãnh đạo xứ Ga-la-át đến Tóp để mời Giép-thê về.
6 Họ đề nghị: "Ông hãy làm lãnh tụ chúng tôi trong cuộc chiến đấu chống người Am-môn."
7 Nhưng Giép-thê đáp: "Các ông ghét tôi, đuổi tôi ra khỏi nhà. Nay gặp khó khăn, còn tìm tôi làm gì?"
8 Họ nói: "Chính vì thế chúng tôi mới đến với ông. Nếu ông cùng chúng tôi đánh quân Am-môn, ông sẽ làm lãnh tụ người Ga-la-át."
9 Giép-thê hỏi lại cho chắc: "Nếu tôi về Ga-la-át đánh quân Am-môn, và nếu Chúa cho tôi thắng, tôi sẽ làm lãnh tụ phải không?"
10 Các nhà lãnh đạo Ga-la-át thề: "Có Chúa chứng giám. Chúng tôi xin giữ đúng lời ông vừa nói."
11 Vậy Giép-thê về với họ. Nhân dân Ga-la-át tôn ông làm lãnh tụ, thống lĩnh lực lượng kháng chiến. Tại Mích-ba, Giép-thê lặp lại những lời ông giao kết với các nhà lãnh đạo Ga-la-át trước mặt Chúa.
12 Giép-thê sai sứ đi chất vấn vua Am-môn: "Tại sao Am-môn gây chiến với Y-sơ-ra-ên?"
13 Vua Am-môn đáp: "Vì Y-sơ-ra-ên chiếm đất của Am-môn. Lúc Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, lãnh thổ chúng tôi rộng lớn, biên giới đến tận các sông Ạt-nôn, Gia-bốc và Giô-đan. Bây giờ hãy trả đất lại cho chúng tôi trong tinh thần hòa hiếu."
14,15 Giép-thê lại sai sứ nói với vua Am-môn: "Y-sơ-ra-ên không cướp đất của Mô-áp và Am-môn.
16 Nhưng, sau khi ra khỏi Ai Cập, người Y-sơ-ra-ên băng sa mạc, qua Biển Đỏ và đến Ca-đe.
17 Tại Ca-đe, Y-sơ-ra-ên sai sứ xin vua Ê-đôm cho phép họ đi băng qua đất vua này, nhưng bị từ chối. Họ lại xin vua Mô-áp cũng không được, nên Y-sơ-ra-ên phải ở lại Ca-đe.
18 Về sau, họ đi vòng đất Ê-đôm và Mô-áp, trong sa mạc, đến cạnh biên giới phía đông đất Mô-áp, bên sông Ạt-nôn. Nhưng họ không hề dẫm chân vào đất Mô-áp (vì sông Ạt-nôn là biên giới).
19 Lúc ấy Y-sơ-ra-ên sai sứ đến Hết-bôn xin Si-hôn vua A-mo cho họ đi băng qua đất vua này.
20 Chẳng những không cho, vì không tin Y-sơ-ra-ên, Si-hôn còn thu thập toàn lực tại Gia-hát, đánh Y-sơ-ra-ên.
21,22 Nhưng Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên là Chúa Hằng Hữu cho họ thắng Si-hôn, và chiếm đất đai A-mo, từ Ạt-nôn đến Gia-bốc và từ sa mạc đến Giô-đan.
23 Thế thì, thử hỏi, nếu Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, truất hữu người A-mo, lấy đất cho Y-sơ-ra-ên, thì vua có nhận đất không?
24 Vua có từ chối những gì thần Kê-mốt cho vua không? Cũng thế, chúng tôi nhận tất cả đất Chúa Hằng Hữu cho chúng tôi.
25 Ngoài ra, vua có hơn gì Ba-lác con Xếp-bô vua Mô-áp không? Vua ấy đâu có dám tranh chấp, chiến đấu với Y-sơ-ra-ên?
26 Hơn nữa, Y-sơ-ra-ên đã định cư trong vùng này (từ Hết-bôn cho đến A-rô-e và dọc sông Ạt-nôn) suốt ba trăm năm nay, tại sao đợi đến bây giờ vua mới đòi đất?
27 Tóm lại, tôi chẳng có lỗi gì với vua cả. Nhưng vua lại làm điều quấy, gây chiến với chúng tôi. Xin Chúa Hằng Hữu, vị Thẩm Phán Chí Cao, xét xử vụ này giữa Y-sơ-ra-ên và Am-môn."
28 Nhưng, những lời phải trái của Giép-thê không lọt vào tai vua Am-môn.
29 Thần của Chúa Hằng Hữu ngự trên Giép-thê. Ông kéo quân qua suốt đất Ga-la-át và Ma-na-se, vượt thành Mích-ba ở Ga-la-át, đến tấn công người Am-môn.
30 Giép-thê khấn nguyện với Chúa Hằng Hữu: "Nếu Chúa cho tôi chiến thắng quân Am-môn,
31 thì lúc trở về, tôi sẽ dâng làm lễ thiêu cho Chúa bất kỳ người hay vật nào từ trong nhà ra đón tôi trước tiên."
32 Khi Giép-thê tấn công quân Am-môn, Chúa cho ông chiến thắng.
33 Ông giết vô số địch, từ A-rô-e đến Mi-nít (trong hai mươi thành) và cho đến tận A-bên Kê-a-mim. Vậy, Am-môn bị Y-sơ-ra-ên chinh phục.
34 Khi Giép-thê về nhà ở Mích-ba, con gái ông chạy ra đón, vừa đánh trống con, vừa nhảy múa. Cô là con duy nhất của ông.
35 Khi thấy con, Giép-thê xé áo mình đang mặc, than thở: "Con ơi, con làm cho cha đau xót cùng tột! Con đặt cha trong tình trạng khó xử quá chừng! Vì cha đã có lời thề nguyện với Chúa Hằng Hữu không đổi lại được."
36 Cô nói: "Thưa cha, xin cha cứ làm theo lời thề nguyện, vì Chúa Hằng Hữu đã báo thù quân Am-môn cho ta.
37 Nhưng xin cha cho con hai tháng, để con cùng các bạn lên miền đồi núi, khóc than cho thân phận trinh nữ của con."
38 Giép-thê đồng ý: "Được, con cứ đi." Và như vậy, cô và các bạn gái mình than khóc suốt hai tháng trường trên các đồi núi.
39,40 Sau hai tháng, cô trở về gặp cha. Ông thực hiện lời mình đã thề nguyện. Như thế, cô trinh trắng suốt đời. Và từ đó, hằng năm các thiếu nữ Y-sơ-ra-ên có tục lệ đi khóc than con gái Giép-thê trong bốn ngày.
1 Người Ép-ra-im động viên lực lượng, kéo đến Xa-phôn chất vấn Giép-thê: "Tại sao khi kéo quân đi đánh Am-môn, ông không gọi chúng tôi tham chiến? Chúng tôi sẽ đốt nhà ông, luôn cả ông trong ấy."
2 Giép-thê trả lời: "Khi cần chiến đấu khốc liệt với quân Am-môn, tôi có xin anh em tiếp viện, nhưng anh em từ chối.
3 Thấy anh em không đến, tôi đã liều mạng ra trận, và được Chúa Hằng Hữu cho thắng quân Am-môn. Thế mà, hôm nay anh em còn muốn tranh chấp gì nữa?"
4 Người Ép-ra-im nhục mạ: "Dân Ga-la-át chỉ là một bọn người sống chui sống nhủi giữa Ép-ra-im và Ma-na-se." Nghe thế, toàn dân Ga-la-át cùng nhau theo Giép-thê đánh người Ép-ra-im.
5 Họ trấn đóng dọc sông Giô-đan ở những khúc cạn. Khi có người Ép-ra-im đào tẩu, muốn thoát qua sông, lính Ga-la-át liền hỏi: "Người Ép-ra-im phải không?" Nếu trả lời "không,"
6 thì lính gác sẽ bảo: "Nói 'Si-bô-lết.' " Người nào nói "Xi-bô-lết" đều bị bắt giết. (Người Ép-ra-im đọc S ra X.) Lúc ấy có đến bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im bị giết như vậy.
7,8 Giép-thê làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên trong sáu năm rồi qua đời, được chôn trong thành mình ở Ga-la-át. Vị thẩm phán kế tiếp là Diệp-san quê ở Bê-liêm.
9 Ông có tất cả sáu mươi con, ba mươi trai, ba mươi gái. Ông dựng vợ gả chồng cho các con với các gia đình bên ngoài tộc mình. Diệp-san làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên bảy năm,
10 rồi qua đời được chôn ở Bê-liêm.
11 Sau đó, Ê-lông người Sa-bu-luân làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên trong mười năm,
12 rồi qua đời, được chôn tại A-gia-lông trong đất Sa-bu-luân.
13 Vị thẩm phán kế tiếp là Áp-đôn con Hi-lên quê ở Phi-ra-thôn.
14 Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai, mỗi người cưỡi một con lừa. Ông làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên được tám năm,
15 rồi qua đời, được chôn tại Phi-ra-thôn trong đất Ép-ra-im, thuộc vùng cao nguyên A-ma-léc.
1 Người Y-sơ-ra-ên lại phạm tội với Chúa Hằng Hữu. Ngài cho người Phi-li-tin đô hộ họ trong bốn mươi năm.
2 Lúc ấy có Ma-nô-a, quê ở Xô-ra, (thuộc đại tộc Đan) có vợ nhưng không con.
3 Một hôm, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu hiện ra, bảo vợ Ma-nô-a: "Tuy bà không con đã lâu, nhưng rồi bà sẽ thụ thai và sinh một con trai.
4 Phải thận trọng đừng uống rượu, đừng ăn vật không sạch.
5 Sinh con ra, đừng bao giờ cắt tóc cho nó vì nó là người Na-xi-rê cho Thượng Đế từ lúc sơ sinh. Sau này nó sẽ giải thoát Y-sơ-ra-ên khỏi ách thống trị Phi-li-tin."
6 Bà liền đi nói cho chồng hay: "Một người của Thượng Đế hiện ra, trông như một thiên sứ của Thượng Đế, đáng sợ quá! Tôi không dám hỏi xem vị ấy đến từ đâu, và vị này cũng không nói tên mình,
7 chỉ bảo cho biết rằng: Tôi sẽ thụ thai, sinh một con trai. Vị ấy còn dặn tôi kiêng cữ rượu và các vật không sạch, vì đứa con là người Na-xi-rê của Thượng Đế từ khi lọt lòng cho đến khi qua đời."
8 Ma-nô-a khẩn cầu Chúa: "Lạy Chúa! Xin cho Người Ngài sai đến lần trước trở lại gặp chúng tôi một lần nữa, để dạy chúng tôi những điều phải làm cho đứa con sắp chào đời."
9 Thượng Đế nhậm lời, cho thiên sứ đến gặp vợ Ma-nô-a một lần nữa, khi bà đang ngồi trong đồng ruộng. Lúc ấy chồng bà không có đó.
10 Bà vội vàng chạy tìm chồng, nói: "Người đến đây hôm nọ vừa hiện ra."
11 Ma-nô-a theo vợ chạy đến, hỏi: "Có phải ông là người nói chuyện với vợ tôi hôm trước không?" Người ấy ấy đáp: "Phải."
12 Ma-nô-a tiếp: "Khi lời ông được ứng nghiệm, chúng tôi phải săn sóc đứa nhỏ như thế nào, phải làm gì cho nó?"
13 Thiên sứ của Chúa đáp gọn: "Phải nhớ làm theo những điều Ta dặn vợ con.
14 Ngoài ra, bà không được uống rượu nho và rượu mạnh, không được ăn vật gì không sạch. Đó là những điều bà phải làm."
15 Ma-nô-a mời thiên sứ của Chúa: "Xin ông ở lại, để chúng tôi được dịp làm thịt dê con khoản đãi."
16 Thiên sứ đáp: "Ta ở lại, nhưng không ăn gì cả. Nếu muốn dâng vật gì, nên dâng lễ thiêu cho Chúa Hằng Hữu." (Ma-nô-a vẫn chưa biết vị này là thiên sứ của Chúa Hằng Hữu.)
17 Ma-nô-a hỏi: "Xin cho biết quý danh, để khi lời ông linh ứng rồi, chúng tôi có thể tỏ lòng tôn kính."
18 Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu hỏi lại: "Sao con hỏi tên Ta? Tên Ta thật diệu kỳ!"
19 Vậy, Ma-nô-a làm thịt dê con, dọn lễ vật ngũ cốc dâng cho Chúa Hằng Hữu trên một tảng đá. Bây giờ thiên sứ làm một việc phi thường:
20 Lửa từ bàn thờ bốc cao lên, thiên sứ thăng lên theo ngọn lửa. Vợ chồng Ma-nô-a thấy thế, vội quỳ mọp xuống đất.
21 Từ đó, họ không được gặp thiên sứ của Chúa Hằng Hữu lần nào nữa. Bấy giờ, Ma-nô-a mới nhận thức được vị ấy chính là thiên sứ của Chúa Hằng Hữu.
22 Ông bảo vợ: "Chúng ta phải chết vì đã thấy Thượng Đế."
23 Nhưng vợ ông không đồng ý: "Nếu Chúa định giết chúng ta, Ngài đã không nhậm lễ thiêu và ngũ cốc ta dâng. Hơn nữa, Ngài cũng đã không cho ta thấy và nghe những điều dị thường này."
24 Thế rồi, bà sinh một con trai, đặt tên là Sam-sôn. Em bé lớn lên, được Chúa ban phước lành.
25 Thần Linh của Chúa bắt đầu khích động lòng Sam-sôn trong trại Đan, giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn.
1 Một hôm, Sam-sôn xuống Thim-na, gặp một cô gái Phi-li-tin.
2 Trở về, ông xin cha mẹ cưới cô ấy cho mình.
3 Nhưng cha mẹ ông phản đối: "Trong họ hàng, dân tộc ta không có con gái hay sao mà con phải đi cưới con của người Phi-li-tin ngoại đạo?" Sam-sôn một mực năn nỉ: "Xin cha cứ cưới cho con, vì cô này vừa ý con lắm."
4 Cha mẹ Sam-sôn đâu có ngờ rằng việc này do Chúa xui khiến, vì Ngài muốn tạo cơ hội cho việc kháng chiến, chống xâm lăng, vì lúc ấy Y-sơ-ra-ên đang bị Phi-li-tin đô hộ.
5 Sam-sôn cùng cha mẹ xuống Thim-na. Tại một vườn nho ở đó, ông bị một con sư tử tơ tấn công.
6 Thần Linh của Chúa giáng trên ông mạnh mẽ phi thường. Với hai tay không, Sam-sôn xé con sư tử làm đôi như xé một con dê con vậy. Nhưng ông không cho cha mẹ hay việc ấy.
7 Sau đó, Sam-sôn đi gặp cô gái, chuyện trò một lúc, lấy làm đắc ý lắm.
8 Lần sau, khi Sam-sôn trở lại để cưới cô gái. Trên đường ông ghé lại xem xác con sư tử, thấy một đàn ong làm tổ trong ấy, có cả mật.
9 Ông vốc mật vào tay, vừa đi vừa ăn. Gặp cha mẹ, ông mời họ cùng ăn. Nhưng ông không cho cha mẹ biết mật ong này lấy từ trong xác sư tử.
10 Cha Sam-sôn đến nhà cô gái để lo việc cưới xin; và theo tục lệ, Sam-sôn mở tiệc tại đó.
11 Người ta giới thiệu cho ông ba mươi người để làm bạn rể.
12 Ông nói với họ: "Tôi có một câu đố, nếu anh em giải được trong vòng bảy ngày tiệc cưới, thì tôi sẽ thưởng cho ba mươi áo vải gai và ba mươi áo lễ.
13 Nhưng nếu không giải nổi, thì anh em phải nạp cho tôi số áo ấy." Họ đồng ý: "Ra câu đố đi."
14 Câu đố như thế này:
"Của ăn ra từ giống ăn; vật ngọt lấy từ giống mạnh."
Trong ba ngày, họ không tìm được câu giải đáp.
15 Ngày thứ tư, họ bảo vợ Sam-sôn: "Nếu chị không dụ chồng tiết lộ lời giải cho chúng tôi, chị và nhà cha chị sẽ bị đốt. Mời chúng tôi đến đây để bóc lột phải không?"
16 Vợ Sam-sôn khóc lóc với chồng: "Anh ghét em chứ có thương yêu gì đâu? Sao anh ra câu đố cho người đồng hương của em mà không cho em biết câu đáp?" Sam-sôn nói: "Này em, ngay cả cha mẹ anh, anh còn không cho biết, làm sao nói cho em được?"
17 Cô vợ cứ khóc lóc suốt mấy ngày tiệc còn lại. Chịu không nổi, Sam-sôn nói cho vợ nghe vào ngày thứ bảy. Cô đem nói lại cho mấy người kia.
18 Vậy, ngày thứ bảy, trước khi mặt trời lặn, những người này đưa ra câu giải:
"Có gì ngọt hơn mật; có gì mạnh hơn sư tử?"
Sam-sôn nói: "Nếu các anh không dùng bò cái tơ của tôi để cày ruộng, làm sao giải được câu đố của tôi."
19 Thần Linh của Chúa giáng trên Sam-sôn. Ông xuống Ách-ca-lôn giết ba mươi người Phi-li-tin, lấy áo thưởng cho mấy người giải được câu đố. Nhưng, vì quá tức giận, ông trở về sống với cha mẹ.
20 Vợ của Sam-sôn bị đem gả cho một trong ba mươi người bạn rể kia.
1 Ít lâu sau, vào mùa gặt lúa, Sam-sôn đi thăm vợ có đem theo một con dê con để làm quà. Khi ông định vào phòng gặp vợ, cha nàng không cho phép và
2 bảo: "Tôi tưởng anh ghét nó lắm, nên gả nó cho bạn anh rồi. Em gái nó còn đẹp hơn nó nữa, sao không cưới em thế cho chị?"
3 Sam-sôn đe dọa những người Phi-li-tin ở đó: "Lần này ta ra tay, đừng trách nhé!"
4 Ông đi bắt ba trăm con chồn, buộc đuôi của từng cặp lại với nhau và buộc một bó đuốc giữa hai đuôi chồn.
5 Ông đốt đuốc, thả chồn vào đồng ruộng người Phi-li-tin. Lửa thiêu hủy hết lúa đã bó, lúa chưa gặt và cây ô-liu của họ.
6 Người Phi-li-tin hỏi nhau: "Ai là thủ phạm?" Có người đáp: "Sam-sôn, con rể của một người Thim-na, vì người này đem vợ Sam-sôn gả cho bạn hắn." Một số người Phi-li-tin kéo đến bắt vợ Sam-sôn và cha nàng đem thiêu sống.
7 Hay được chuyện này, Sam-sôn thề: "Ta quyết không nghỉ tay cho đến khi nào báo thù xong."
8 Sam-sôn ra tay đánh giết một trận tơi bời, rồi vào sống trong một hang đá tại Ê-tam.
9 Quân Phi-li-tin kéo đến đóng trong địa phận Giu-đa, tràn ra đến Lê-hi.
10 Người Giu-đa thắc mắc: "Tại sao các ông đến đây?" Người Phi-li-tin đáp: "Chúng tôi tìm bắt Sam-sôn để báo thù những điều hắn đã làm cho chúng tôi."
11 Ba ngàn người Giu-đa kéo nhau đến hang đá Ê-tam, tra hỏi Sam-sôn: "Ông không biết người Phi-li-tin đang cai trị chúng ta sao, mà còn hành động như thế để chúng tôi phải liên lụy?" Sam-sôn giải thích: "Tôi chỉ báo trả những điều họ làm cho tôi."
12,13 Họ nói trắng ra: "Chúng tôi đến để bắt ông trói lại, giải nạp cho người Phi-li-tin." Sam-sôn đặt điều kiện: "Nhưng các ông phải thề sẽ không giết tôi." Họ hứa: "Được, chúng tôi chỉ trói ông lại, đem nạp cho họ, chứ không giết ông đâu." Vậy, họ lấy hai sợi dây thừng còn mới trói Sam-sôn và dẫn ông ra khỏi hang đá.
14 Khi họ dẫn ông về đến Lê-hi, người Phi-li-tin nghe tin reo hò mừng rỡ, nhưng sức mạnh phi thường của Thần Linh Chúa giáng trên Sam-sôn; dây thừng trói tay ông đứt ra như một sợi chỉ gai gặp lửa.
15 Thấy một cái xương hàm lừa, ông nhặt lên làm khí giới đánh chết một ngàn người Phi-li-tin.
16 Xong, ông nói: "Với một cái hàm lừa, ta giết thây chất thành đống; với một cái hàm lừa, ta giết cả ngàn người."
17 Nói xong, ông ném cái hàm lừa đi. Từ đó, nơi này được gọi là "Đồi Hàm Lừa."
18 Nhưng ông cảm thấy khát nước quá chừng, nên cầu với Chúa: "Chúa vừa dùng con giải thoát dân Ngài, nay đầy tớ Chúa phải chết khát và rơi vào tay quân thù ngoại đạo này sao?"
19 Chúa làm nẻ một cái bộng ở Lê-hi, nước ngọt chảy ra. Sam-sôn uống và tinh thần phục hồi, phấn chấn. Và như thế, tại Lê-hi, Sam-sôn gọi suối ấy là "Suối nước của người cầu nguyện." Người ta vẫn dùng tên ấy cho đến ngày nay.
20 Sam-sôn làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên suốt hai mươi năm, trong thời thế lực Phi-li-tin cường thịnh.
1 Sam-sôn đến Ga-xa, gặp một gái điếm và ngủ đêm với cô ta.
2 Người trong thành kháo nhau: "Sam-sôn đang ở đây." Quân lính liền bao vây và canh gác cổng thành. Suốt đêm, họ im lặng, thầm bảo nhau: "Sáng ra, ta sẽ giết hắn."
3 Nhưng đến nửa đêm, Sam-sôn thức dậy, đi ra cổng thành, nắm cả cửa lẫn trụ, nhổ bật lên, đặt lên vai vác lên đỉnh đồi đối diện Hếp-rôn.
4 Sau đó, Sam-sôn phải lòng một cô gái ở thung lũng Sô-réc, tên là Đa-li-la.
5 Các lãnh tụ Phi-li-tin tìm nàng, đề nghị: "Nếu chị dụ được hắn, tìm biết từ đâu hắn có sức mạnh phi thường ấy và biết cách gì để chế ngự và đánh bại hắn, thì mỗi anh em chúng tôi sẽ biếu chị một ngàn một trăm lạng bạc."
6 Nghe lời, Đa-li-la gạn hỏi Sam-sôn: "Nhờ đâu anh có sức mạnh hơn người như thế? Chắc chẳng có cách nào trói anh để bắt anh phục được nhỉ?" Sam-sôn trả lời: "Nếu trói anh bằng bảy sợi dây cung mới nguyên, anh sẽ trở nên yếu đuối như người thường vậy."
7,8 Các lãnh tụ Phi-li-tin đem cho nàng bảy sợi dây cung mới để trói Sam-sôn.
9 Họ cũng cho người phục sẵn trong nhà. Trói xong, nàng gọi Sam-sôn dậy: "Anh ơi, người Phi-li-tin đến tấn công anh." Nhưng ông bứt dây trói đứt nghiến như chỉ gai gặp lửa vậy. Như thế, họ chưa khám phá ra bí quyết của sức mạnh Sam-sôn.
10 Sau đó, nàng nói với ông: "Anh đánh lừa em, dối gạt em. Bây giờ, xin cho em biết cách trói anh đi."
11 Ông nói: "Nếu trói anh bằng dây thừng mới nguyên, anh sẽ yếu như người thường vậy."
12 Đa-li-la lấy dây thừng mới trói ông, rồi gọi: "Sam-sôn ơi! Người Phi-li-tin đến tấn công anh." Cũng như lần trước, người Phi-li-tin đã phục sẵn trong nhà, nhưng Sam-sôn bứt dây thừng dễ dàng như bứt chỉ.
13 Đa-li-la lại nói: "Anh vẫn lừa gạt, dối trá với em. Xin chỉ cho em cách trói anh đi." Ông đáp: "Dệt bảy lọn tóc của anh vào canh chỉ trong khung cửi."
14 Nàng làm theo, đóng chốt khung cửi, rồi gọi: "Sam-sôn ơi! Người Phi-li-tin tấn công anh." Sam-sôn thức dậy, kéo tóc, làm gãy chốt khung cửi và đứt hết chỉ.
15 Đa-li-la nổi quạu: "Anh nói anh yêu em mà sao không nói thật với em? Anh gạt em ba lần, không cho em biết căn nguyên của sức mạnh anh."
16 Và cứ ngày ngày, nàng hỏi tra nằng nặc, năn nỉ ỉ ôi, làm cho ông bực bội, không chịu được nữa.
17 Cuối cùng, ông đành nói hết ra: "Anh không hề cắt tóc, vì từ khi còn trong lòng mẹ, anh đã là người Na-xi-rê của Thượng Đế. Nếu anh bị cạo đầu, sức mạnh sẽ mất, và anh sẽ yếu như một người thường."
18 Đa-li-la biết Sam-sôn đã nói hết sự thực, vội cho người đi gọi các lãnh tụ Phi-li-tin đến. Nàng nhắn: "Quý ông đến đi, vì lần này anh ấy đã dốc hết tâm sự cho tôi rồi." Họ kéo đến, mang theo tiền thưởng.
19 Nàng ru Sam-sôn ngủ trên đùi mình, rồi sai người cạo hết bảy chùm tóc trên đầu ông: Thế là nàng đã hại mạng sống ông, vì sức mạnh trong ông không còn nữa.
20 Nàng gọi: "Sam-sôn ơi! Người Phi-li-tin tấn công anh." Ông tỉnh giấc, tự nhủ: "Ta sẽ vùng dậy, thoát thân như những lần trước." Nhưng ông không ngờ Chúa đã từ bỏ mình.
21 Người Phi-li-tin bắt ông, móc mắt, giải xuống Ga-xa. Tại đó, họ xiềng ông bằng xích đồng, bắt ông xay cối trong ngục.
22 Tuy nhiên, tóc ông lần lần mọc dài ra.
23,24 Các lãnh tụ Phi-li-tin tổ chức đại tiệc liên hoan và dâng lễ vật trong đền thần Đa-gôn của họ. Người Phi-li-tin hết lòng ca tụng Đa-gôn: "Thần chúng ta đã cho ta bắt được Sam-sôn, một kẻ thù phá hoại xứ sở, giết hại nhiều người."
25 Ai nấy đều hân hoan. Có người đề nghị: "Gọi Sam-sôn đến giúp vui." Vậy, họ dẫn Sam-sôn từ ngục đến để làm trò mua vui, cho ông đứng quãng giữa các cây cột chính của đền.
26 Ông nói với thiếu niên dắt mình: "Cho tôi sờ các cây cột để tôi tựa mình vào đó."
27 Lúc ấy, đền thờ Đa-gôn đông đặc cả người. Toàn thể lãnh tụ Phi-li-tin đều hiện diện. Có chừng ba ngàn người ngồi trên gác thượng xem Sam-sôn làm trò.
28 Sam-sôn kêu cầu Chúa: "Lạy Chúa Hằng Hữu! Xin nhớ đến con. Lạy Chân Thần, xin cho con sức mạnh một lần nữa thôi, để báo thù người Phi-li-tin đã móc mắt con."
29 Hai tay nắm hai cột chính nâng đỡ đền thờ, Sam-sôn dồn sức vào tay,
30 và cầu nguyện: "Xin cho con cùng chết với người Phi-li-tin."
31 Ông cong người, dùng toàn lực đẩy hai cây cột. Đền thờ Đa-gôn đổ xuống, đè chết các lãnh tụ và người Phi-li-tin ở đó. Như thế, lúc chết, Sam-sôn giết nhiều người hơn lúc sống.
32 Anh em và người nhà ông đến lấy xác, đem về chôn tại một nơi giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn, nơi chôn Ma-nô-a thân phụ ông. Ông làm thẩm phán Y-sơ-ra-ên được hai mươi năm.
1 Có một người sống trong miền cao nguyên Ép-ra-im tên là Mi-ca.
2 Một hôm, người này thưa với mẹ mình: "Mẹ bị mất trộm một ngàn một trăm lạng bạc. Mẹ nguyền rủa thế nào con đã nghe cả. Chính con đã lấy bạc của mẹ đó." Bà nói: "Xin Chúa ban phước lành cho con."
3 Mi-ca trao số bạc lại cho mẹ. Bà bảo con: "Mẹ dâng số bạc này để đúc một cái tượng cho Chúa, nhưng coi như của con dâng. Như thế, bạc lại trở về con."
4 Vậy người mẹ lấy hai trăm lạng bạc giao cho một người thợ bạc. Người này đúc một cái tượng, chạm trổ tỉ mỉ. Tượng được đặt trong nhà Mi-ca.
5 Thế là nhà Mi-ca thành một cái miếu thờ. Ông cũng làm một cái ê-phót và các tượng thần, cử một con trai mình làm chức tế lễ.
6 Lúc ấy Y-sơ-ra-ên không có vua. Ai nấy làm những điều mình thấy là phải.
7 Cũng có một thanh niên người Lê-vi sống tại Bê-liêm thuộc đất Giu-đa.
8 Nhưng người này bỏ Bê-liêm, đi tìm một nơi sinh sống. Trên đường, người ấy qua núi Ép-ra-im, dừng chân trước nhà Mi-ca.
9 Mi-ca hỏi: "Ông từ đâu đến đây?" Đáp: "Từ Bê-liêm thuộc Giu-đa. Tôi là người Lê-vi, đi tìm một nơi sinh sống."
10 Mi-ca đề nghị: "Mời ông ở lại đây làm thầy tế lễ. Tôi sẽ trả ông mỗi năm mười nén bạc, một bộ áo, và cung phụng mọi thức cần dùng."
11 Người Lê-vi bằng lòng ở lại, và về sau trở nên như một người con trong nhà Mi-ca.
12 Mi-ca phong người ấy làm thầy tế lễ của mình,
13 rồi tự nhủ: "Bây giờ Chúa sẽ ban phước lành cho ta, vì ta có một thầy tế lễ người Lê-vi."
1 Đến lúc ấy, Y-sơ-ra-ên vẫn chưa có vua, và đại tộc Đan vẫn chưa chiếm được phần đất mình nên họ đang đi tìm một nơi lập nghiệp.
2 Đại tộc này chọn năm người dũng cảm ở Xô-ra và Ê-ta-ôn, sai đi trinh sát đất. Họ đến miền núi Ép-ra-im, và nghỉ đêm tại nhà Mi-ca.
3 ễ đó, họ nhận ra giọng nói quen thuộc của người Lê-vi, nên đem người này ra một nơi, hỏi: "Ai đem ông đến đây? Ông đến có việc gì?"
4 Người này kể cho họ nghe việc Mi-ca mướn mình làm thầy tế lễ.
5 Nghe thế, họ yêu cầu: "Xin ông cầu hỏi Thượng Đế, xem thử chúng tôi đi chuyến này thành công không?"
6 Thầy tế lễ đáp: "Các ông cứ an tâm, vì Chúa Hằng Hữu chăm sóc các ông trong chuyến đi này."
7 Năm người ấy tiếp tục ra đi. Đến La-ích, họ thấy dân ở đó sống lặng lẽ, an ổn, không phòng bị. Nếp sống của họ giống người Si-đôn; các nhà lãnh đạo không phiền nhiễu dân sự. Tuy nhiên họ sống xa cách người Si-đôn và không giao hảo với các dân tộc khác.
8 Vậy, năm thám tử trở về Xô-ra và Ê-ta-ôn và báo cáo công tác cho đại tộc Đan.
9,10 Họ trình bày: "Chúng tôi tìm thấy một vùng đất phì nhiêu, rộng rãi, dân cư sống không phòng bị gì cả. Xin đừng trì hoãn. Ta nên tấn công ngay, vì Thượng Đế cho ta đất này, một miền không thiếu thứ gì cả."
11 Vậy, sáu trăm người Đan được vũ trang đầy đủ, khởi hành từ Xô-ra và Ê-ta-ôn,
12 đến đóng trại phía tây Ki-ri-át Giê-a-rim trong đất Giu-đa (vì thế, đến nay nơi này vẫn được gọi là Trại Quân Đan).
13,14 Họ tiếp tục ra đi đến miền núi Ép-ra-im. Khi qua trước nhà Mi-ca, năm thám tử nói với anh em mình: "Trong nhà này có ê-phót, tượng thần, tượng đúc và tượng chạm. Anh em biết phải hành động thế nào rồi chứ?"
15 Nói xong, họ vào nhà Mi-ca, chào hỏi người Lê-vi.
16 Còn sáu trăm người lính Đan đứng bên ngoài cổng.
17,18 Sau đó, người Lê-vi đi ra, đứng với sáu trăm lính ở ngoài cổng. Năm thám tử thu nhặt tượng đúc, ê-phót và tượng thần đem ra. Thấy vậy, thầy tế lễ người Lê-vi hỏi: "Các ông làm gì thế?"
19 Họ bảo: "Im đi! Cứ theo chúng tôi, làm cha và thầy tế lễ cho chúng tôi. Làm thầy tế lễ cho cả một đại tộc Y-sơ-ra-ên không hơn làm cho một nhà, một người sao?"
20 Thầy tế lễ mở cờ trong bụng, mang cả ê-phót, tượng thần và tượng chạm, đi theo đám người ấy.
21 Vậy họ tiếp tục lên đường. Trẻ con, súc vật và hàng hóa được đưa đi trước.
22 Khi họ đi đã khá xa, Mi-ca kêu gọi láng giềng cùng nhau đuổi theo.
23 Nghe tiếng kêu la đằng sau, người Đan quay lại, hỏi Mi-ca: "Có việc gì vậy? Ông dẫn những người này đuổi theo chúng tôi làm gì?"
24 Mi-ca đáp: "Các người lấy hết của tôi (thần tượng lẫn thầy tế lễ) đem đi, chẳng để lại gì cả. Thế mà còn hỏi: 'Có việc gì?' "
25 Người Đan bảo: "Im mồm đi. Nếu không, sẽ có người nổi giận, giết ông và cả nhà bây giờ."
26 Nói xong, họ tiếp tục đi. Mi-ca thấy họ đông và mạnh hơn bên mình nhiều quá, đành quay về.
27 Như vậy, người Đan đoạt thần tượng và mọi thứ của Mi-ca, luôn cả thầy tế lễ người Lê-vi nữa. Sau đó, họ đến La-ích, một thành có dân sống an ổn và không phòng bị. Họ xông vào chém giết và đốt thành.
28 Chẳng có ai tiếp cứu người La-ích trong thung lũng Bết-rê-hóp vì họ ở xa Si-đôn quá và vì không giao hảo với dân nào khác. Người Đan xây lại thành phố và sống ở đó.
29 Họ lấy tên tổ tiên mình là Đan (con của Y-sơ-ra-ên) đặt cho thành thay tên cũ.
30 Họ dựng tượng lên, bổ nhiệm Giô-na-than (con Ghẹt-sôn, cháu Mai-sen) và các con ông ấy làm thầy tế lễ cho đại tộc mình. Gia đình này tiếp tục giữ chức tế lễ cho đến ngày quân thù chiếm đất.
31 Như vậy, trong khi có Đền Tạm của Thượng Đế ở tại Si-lô, người Đan lại đi thờ thần tượng của Mi-ca làm ra.
1 Trong thời kỳ Y-sơ-ra-ên chưa có vua, một người Lê-vi đến ngụ tại một vùng xa xôi hẻo lánh thuộc vùng núi Ép-ra-im. Người này cưới vợ bé quê ở Bê-liêm thuộc Giu-đa.
2 Người vợ bé ngoại tình, rồi bỏ về Bê-liêm, sống tại nhà cha trong bốn tháng.
3 Người chồng đem theo một người đầy tớ và hai con lừa, lên đường tìm vợ, dùng lời ngọt ngào khuyên bảo để đem vợ về. Nàng đưa chồng vào nhà gặp cha. Thấy con rể, người cha chào đón niềm nở lắm.
4 Ông ép con rể ở lại, nên người này nán lại ba ngày; mọi người cùng nhau ăn uống vui vẻ.
5 Ngày thứ tư, họ dậy sớm, sửa soạn lên đường. Nhưng người cha bảo con rể: "Ăn một miếng bánh lót lòng đã rồi hẵng đi."
6 Vậy họ ngồi xuống cùng nhau ăn uống, người cha lại nài ép: "Xin con ở lại thêm đêm nay nữa cho thoải mái vui vẻ."
7 Mặc dù muốn đứng dậy lên đường, nhưng vì cha vợ năn nỉ, người ấy đành ở lại.
8 Ngày thứ năm, người Lê-vi dậy sớm để đi, lại bị cha vợ mời mọc: "Con ngồi đây điểm tâm đã, đến chiều hẵng đi." Và họ lại cùng nhau ăn uống.
9 Chiều hôm ấy, khi người Lê-vi cùng vợ bé và đầy tớ mình sắp lên đường, người cha vợ lại nằng nặc: "Ngày đã gần tàn. Xin con ở lại nghỉ đêm cho thoải mái vui vẻ. Sáng con sẽ dậy sớm lên đường về nhà."
10,11 Nhưng lần này người Lê-vi đã quyết định, cứ bắt lừa, đem vợ ra đi. Khi họ đến Giê-bu (tức Giê-ru-sa-lem), trời sắp tối. Người đầy tớ đề nghị ghé lại nghỉ đêm tại Giê-bu.
12,13 Nhưng người Lê-vi bảo đầy tớ mình: "Ta không nên vào thành của người ngoại quốc, ngoại tộc Y-sơ-ra-ên. Cố đi đến Ghi-bê-a hoặc Ra-ma rồi nghỉ."
14 Vậy họ tiếp tục đi. Đến gần Ghi-bê-a, xứ Bên-gia-min, trời tối hẳn.
15 Họ vào Ghi-bê-a để nghỉ đêm, nhưng không được ai mời vô nhà, nên đành ngồi ngoài phố.
16 Lúc ấy, có một ông già đi làm ruộng về. Ông này quê ở núi Ép-ra-im, nhưng đến ngụ tại Ghi-bê-a, là đất của người Bên-gia-min.
17 Trông thấy người bộ hành bên phố, ông già hỏi: "Các ông bà ở đâu đến và đi đâu đây?"
18 Người Lê-vi đáp: "Chúng tôi khởi hành từ Bê-liêm đất Giu-đa trên đường về nhà. Nhà tôi ở miền hẻo lánh bên kia núi Ép-ra-im. Bây giờ không ai cho chúng tôi trọ qua đêm cả.
19 Chúng tôi có mang theo rơm cỏ cho lừa, rượu bánh cho chúng tôi, không thiếu gì cả."
20 Ông già nói: "Ông cứ an tâm. Tôi sẽ xếp đặt nơi nghỉ cho mọi người. Ngủ đêm ngoài phố thế này không tiện."
21 Rồi ông dẫn họ về nhà, cho lừa ăn trong khi mọi người rửa chân. Sau đó ông mời họ ăn tối.
22 Khi đang ăn uống vui vẻ, có một nhóm người tà ác trong thành kéo đến vây nhà, đập cửa, thét bảo ông già: "Đem ông khách của ông ra đây cho chúng tôi làm tình." Ông già đi ra nói với họ: "Không được đâu, vì người ấy là khách của tôi. Xin anh em đừng làm điều ô nhục, ác đức này.
24 Tôi có một đứa con gái còn trinh và người ấy cũng có một cô vợ bé. Để tôi đem họ ra, anh em làm nhục hay làm gì tùy ý. Nhưng với người ấy, xin đừng làm điều tồi bại này."
25 Đám người kia không chịu nghe lời ông già. Người chồng đột nhiên nắm vợ bé mình đẩy ra ngoài. Bọn ấy hãm hiếp nàng suốt đêm, đến rạng ngày hôm sau mới thả ra.
26 Người đàn bà về, ngã lăn trước cửa nhà chồng mình trọ, nằm đó cho đến khi trời sáng hẳn.
27 Lúc ấy, người chồng thức dậy, mở cửa ra thấy vợ bé nằm đó, hai tay như bám víu ngưỡng cửa,
28 liền bảo: "Dậy, chúng ta lên đường." Nhưng người vợ đâu có trả lời được nữa. Thấy thế, người ấy mới đặt vợ nằm trên lưng lừa, tức tốc lên đường về nhà.
29 Về đến nhà, người ấy lấy dao chặt thây vợ bé ra làm mười hai mảnh, gửi đi khắp đất nước.
30 Trong cả nước, ai nấy đều xôn xao, bảo nhau: "Từ ngày Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, người ta chưa hề thấy một việc như thế. Chúng ta phải cứu xét, tìm cách giải quyết việc này mới được."
1 Toàn dân Y-sơ-ra-ên (từ Đan cho đến Biệt-sê-ba và cả xứ Ga-la-át) kéo đến họp tại Mích-ba trước mặt Chúa Hằng Hữu.
2 Tất cả các nhà lãnh đạo của các đại tộc Y-sơ-ra-ên đều hiện diện; ngoài ra, có đến 400.000 bộ binh cầm kiếm dự buổi đại hội này.
3,4 (Lúc ấy, người Bên-gia-min có nghe tin đại hội đang họp tại Mích-ba.) Tại đại hội, người Lê-vi có vợ bị giết được gọi đến và trình bày như sau: "Đêm hôm ấy, chúng tôi ghé lại nghỉ chân ở Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min.
5 Người Ghi-bê-a kéo đến vây nhà, định giết tôi. Họ hãm hiếp vợ bé tôi cho đến chết.
6 Tôi cắt vợ tôi ra làm nhiều mảnh, gửi đi khắp xứ Y-sơ-ra-ên, vì những người kia đã làm điều dâm đãng đê tiện trong Y-sơ-ra-ên.
7 Vậy, xin quý vị cho biết ý kiến và chỉ thị."
8-10 Mọi người đồng loạt đứng dậy, nói: "Không một ai trong chúng ta được về nhà cho đến khi trừng phạt Ghi-bê-a xong. Thứ tự tiến quân của các đại tộc sẽ được định đoạt bằng cách bắt thăm. Một phần mười quân số sẽ lo việc tiếp tế lương thực, để chín phần còn lại rảnh tay trừng trị Ghi-bê-a về tội xấu xa họ đã phạm."
11 Vậy, toàn dân đồng tâm hợp nhất trong việc chinh phạt thành này.
12 Các đại tộc Y-sơ-ra-ên sai sứ rao khắp đất Bên-gia-min: "Có thể nào một việc xấu xa như thế lại xảy ra giữa anh em?
13 Vậy, chỉ xin anh em giao nạp những đứa ty tiện ở Ghi-bê-a cho chúng tôi giết đi để giải tội cho Y-sơ-ra-ên." Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe lời anh em mình.
14,15 Họ động viên chiến sĩ trong các thành thị, gồm 26.000 người cầm kiếm, kéo đến Ghi-bê-a để tranh chiến với Y-sơ-ra-ên. Riêng tại Ghi-bê-a, số người được chọn để tham gia cuộc chiến là bảy trăm.
16 Trong quân Bên-gia-min, có bảy trăm người thuận tay trái, có tài bắn ná, bách phát bách trúng, không hề sai lệch.
17 Quân đội Y-sơ-ra-ên (không kể người Bên-gia-min) gồm 400.000 lính chiến. Họ đều cầm kiếm,
18 kéo đến Bê-tên thỉnh ý Thượng Đế: "Đại tộc nào sẽ đi tiên phong đánh người Bên-gia-min?" Chúa dạy: "Giu-đa đi tiên phong."
19,20 Sáng sớm hôm sau, quân đội Y-sơ-ra-ên lên đường đi Ghi-bê-a. Họ dàn quân, sẵn sàng chiến đấu.
21 Quân Bên-gia-min từ Ghi-bê-a kéo ra, đánh giết 22.000 lính Y-sơ-ra-ên trong ngày ấy.
22-24 Người Y-sơ-ra-ên khóc lóc với Chúa cho đến tối hôm ấy. Họ cầu hỏi: "Chúng tôi có nên chiến đấu với người Bên-gia-min anh em chúng tôi nữa không?" Chúa đáp: "Cứ chiến đấu." Vậy, quân Y-sơ-ra-ên phấn khởi, ngày hôm sau kéo ra dàn quân tại chỗ cũ.
25 Hôm ấy, quân Bên-gia-min lại kéo ra tấn công, giết 18.000 lính cầm kiếm của Y-sơ-ra-ên.
26 Toàn dân Y-sơ-ra-ên kéo lên Bê-tên khóc lóc, không ăn uống gì cả cho đến tối. Họ dâng lễ thiêu và cầu an cho Ngài.
27,28 (Lúc ấy, Rương Giao Ước của Thượng Đế ở tại Bê-tên, và Phi-nê-a) con Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn (làm thầy tế lễ). Người Y-sơ-ra-ên cầu hỏi Chúa: "Chúng tôi nên tiếp tục chiến đấu với người Bên-gia-min anh em chúng tôi hay nên đình chiến?" Chúa đáp: "Cứ chiến đấu, vì ngày mai Ta sẽ cho các ngươi chiến thắng."
29 Vậy, Y-sơ-ra-ên đem quân phục kích quanh Ghi-bê-a.
30 Họ lại dàn trận ngày thứ ba cũng như những lần trước.
31 Khi quân Bên-gia-min kéo ra tấn công, quân Y-sơ-ra-ên rút lui, dụ họ ra xa thành. Quân Bên-gia-min bắt đầu chém giết như những ngày trước. Họ giết chừng ba mươi người Y-sơ-ra-ên giữa đồng và dọc theo đường cái nối liền Bê-tên với Ghi-bê-a.
32 Quân Bên-gia-min reo hò: "Chúng nó lại thua nữa rồi!" Trong khi đó người Y-sơ-ra-ên bảo nhau: "Dụ chúng nó ra cho xa thành. Cứ theo đường cái mà chạy."
33 Khi cánh quân chủ lực Y-sơ-ra-ên đến Ba-anh Tha-ma, họ quay lại, dàn trận. Đồng thời, cánh phục binh từ đồng bằng Ghi-bê-a đổ ra.
34 Khi mười ngàn quân tinh nhuệ nhất của Y-sơ-ra-ên đến gần Ghi-bê-a, trận chiến trở nên ác liệt; nhưng người Bên-gia-min vẫn chưa ý thức được nguy cơ sắp đến.
35 Chúa trừng phạt Bên-gia-min trước mặt người Y-sơ-ra-ên. Hôm ấy, quân Y-sơ-ra-ên giết 26.100 lính cầm kiếm Bên-gia-min.
36 Vậy, người Bên-gia-min thua trận. Trong trận này, quân Y-sơ-ra-ên rút lui vì tin tuởng ở cánh quân phục kích bên ngoài Ghi-bê-a.
37 Cánh quân này về sau xông vào thành, chém giết hết mọi người bên trong.
38,39 Người Y-sơ-ra-ên có định trước một dấu hiệu liên lạc giữa hai cánh quân: khi cánh phục kích đốt lửa cho khói bay lên, cánh chủ lực quân sẽ quay lại chiến đấu. Khi người Bên-gia-min giết được chừng ba mươi người Y-sơ-ra-ên, họ bảo nhau: "Chúng nó bị bại như trong trận trước rồi."
40 Nhưng, một trụ khói bốc cao lên. Người Bên-gia-min nhìn lại, thấy thành bị cháy, khói lửa ngập trời.
41 Vừa lúc ấy cánh chủ lực Y-sơ-ra-ên quay lại. Người Bên-gia-min khiếp đảm khi thấy họa diệt vong.
42 Họ quay lưng bỏ chạy về phía sa mạc. Người Y-sơ-ra-ên đuổi theo, đồng thời cánh phục binh từ thành đổ ra đánh giết.
43 Vậy, người Bên-gia-min bị lọt vào giữa quân Y-sơ-ra-ên, bị rượt đuổi và bị tàn sát ở phía đông Ghi-bê-a.
44 Tại đó có 18.000 quân Bên-gia-min bị giết.
45 Số còn lại chạy vào sa mạc, có 5.000 người bị giết trên đường cái chạy về Đá Rim-môn, còn 2.000 người khác bị đuổi theo cho đến Ghi-đê-om rồi cũng bị hạ.
46 Vậy, trong ngày ấy có 26.000 người Bên-gia-min bị giết, họ đều là chiến sĩ dũng cảm, vũ trang bằng kiếm.
47 Tuy nhiên, trên đường chạy vào sa mạc, có 600 quân Bên-gia-min chạy thoát vào khu Đá Rim-môn, trốn ở đó trong bốn tháng.
48 Quân Y-sơ-ra-ên quay về các thành của người Bên-gia-min, giết sạch cả người lẫn súc vật, rồi phóng hỏa đốt hết.
1 Tại Mích-ba, người Y-sơ-ra-ên có thề không gả con gái mình cho người Bên-gia-min.
2 Nhưng khi đến Bê-tên lần này, nhân dân ngồi đó, khóc lóc kêu la thật đắng cay cho đến tối, trước sự chứng giám của Thượng Đế.
3 Họ than: "Lạy Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên! Vì đâu xui khiến cho việc này xảy ra, làm cho Y-sơ-ra-ên thiếu mất một đại tộc?"
4 Hôm sau, họ dậy sớm, xây lên một bàn thờ rồi dâng lễ thiêu và lễ vật thù ân.
5 Sau đó, họ hỏi nhau: "Có ai vắng mặt trong cuộc đại hội Mích-ba không?" Vì họ đã thề rằng ai không đến dự đại hội này phải bị xử tử.
6 Người Y-sơ-ra-ên cứ ân hận, thương tiếc anh em mình, là người Bên-gia-min. Họ nhắc đi nhắc lại: "Y-sơ-ra-ên mất đi một đại tộc rồi!
7 Tìm đâu ra vợ cho những người Bên-gia-min sống sót, vì chúng ta đã thề trước Chúa sẽ không gả con gái cho họ."
8,9 Họ lại điều tra xem thử ai đã không đi dự đại hội Mích-ba, cuối cùng họ biết được tất cả người Gia-be xứ Ga-la-át đều vắng mặt.
10-12 Vậy họ sai 12.000 quân tinh nhuệ ra đi, với nhiệm vụ diệt trừ người Gia-be Ga-la-át, cả đàn ông, đàn bà và trẻ con, ngoại trừ gái tân. Các chiến sĩ tìm được bốn trăm gái tân, dẫn về trại ở Si-lô.
13 Người Y-sơ-ra-ên sai sứ đi giảng hòa với những người Bên-gia-min trốn ở vùng Đá Rim-môn.
14 Khi những người này trở về, được người Y-sơ-ra-ên đem các cô gái ở Gia-be Ga-la-át gả cho làm vợ. Tuy nhiên, số các cô không đủ cho người Bên-gia-min còn lại này.
15 Vì thế, người Y-sơ-ra-ên lại xót thương người Bên-gia-min, vì Chúa đã làm cho một đại tộc bị khiếm khuyết.
16 Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lên tiếng: "Chúng ta phải làm sao kiếm vợ cho hai trăm người Bên-gia-min còn lại, vì đàn bà trong đại tộc này chết hết rồi.
17 Người Bên-gia-min phải truyền hậu tự; nếu không, một đại tộc của Y-sơ-ra-ên sẽ bị diệt chủng.
18 Nhưng ngặt một điều, chúng ta không gả con gái mình cho họ được, vì Y-sơ-ra-ên đã thề hễ ai gả con cho người Bên-gia-min đều phải bị nguyền rủa."
19 Đắn đo mãi, họ tìm ra được một kế: mỗi năm có ngày lễ tại Si-lô, ở phía bắc Bê-tên, nam Lê-bô-na, dọc phía đông đường cái chạy từ Bê-tên đến Si-chem.
20 Họ bảo những người Bên-gia-min này: "Các anh đi ẩn mình trong vườn nho,
21 chờ đến khi những cô gái Si-lô ra khiêu vũ, mỗi người chạy ra bắt một cô đem về làm vợ.
22 Khi phụ huynh của họ khiếu nại với chúng tôi, chúng tôi sẽ nói: "Xin vì chúng tôi làm ơn cho họ. Chúng tôi đã cố gắng tìm vợ cho họ, nhưng vẫn không đủ. Trường hợp này, anh em không mắc tội gì cả, vì không tự ý đem gả con gái cho họ."
23 Số người Bên-gia-min này làm theo chỉ thị, bắt các cô gái khiêu vũ trong ngày lễ đem về quê mình. Họ xây lại các thành để ở.
24 Người Y-sơ-ra-ên ai nấy quay về nhà mình.
25 Thuở ấy, Y-sơ-ra-ên chưa có vua, nên ai nấy cứ làm theo điều mình cho là phải.