1 Vua Đa-vít đã già; mặc dù người ta mặc cho nhiều áo, vua vẫn không thấy ấm.
2 Các tôi tớ vua đề nghị: "Xin bệ hạ cho đi tìm một trinh nữ để hầu hạ, săn sóc bệ hạ; nàng sẽ nằm trong lòng bệ hạ làm cho bệ hạ ấm."
3,4 Vậy người ta tìm khắp nước, và thấy A-bi-sác ở Su-nem là một trinh nữ trẻ đẹp, nên đem nàng về cho vua. Nàng săn sóc, hầu hạ vua; ngoài ra vua không có gì với nàng cả.
5 Lúc ấy hoàng tử A-đô-ni-gia, (con Đa-vít và bà Hà-ghi) tuyên bố: "Ta sẽ làm vua," rồi sắm xe ngựa và tuyển năm mươi người chạy trước mở đường.
6 Vua cha cũng chẳng trách cứ hoặc hỏi xem con mình muốn làm gì. A-đô-ni-gia là em kế Áp-sa-lôm, nên cũng rất đẹp trai.
7 Ông thuyết phục tướng Giô-áp và thầy tế lễ A-bia-tha; họ bằng lòng theo giúp ông.
8 Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa), tiên tri Na-than, Si-mê-i, Rê-i và các dũng tướng của Đa-vít không theo A-đô-ni-gia.
9 A-đô-ni-gia đi Ên-rô-ghên dâng cừu, bò và thú vật béo tốt làm tế lễ trên hòn đá Xô-hê-lết, rồi mời các anh em mình, tức là các hoàng tử và những quan Giu-đa trong triều đình đến dự.
10 Tuy nhiên ông không mời tiên tri Na-than, Bê-na-gia, các dũng tướng, và hoàng tử Sa-lô-môn.
11 Na-than đến nói với Bát-sê-ba mẹ Sa-lô-môn: "Bà có nghe việc A-đô-ni-gia con bà Hà-ghi lên làm vua trong khi vua cha không biết gì cả không?
12 Bây giờ tôi xin hiến kế để cứu mạng bà và mạng Sa-lô-môn con bà.
13 Bà đi ngay vào cung tâu với vua Đa-vít như sau: 'Có phải bệ hạ đã thề với tôi rằng:
"Sa-lô-môn con ngươi sẽ nối ngôi ta" hay không? Thế sao bây giờ A-đô-ni-gia làm vua?'
14 Trong khi bà đang nói, tôi sẽ vào xác nhận với vua những lời bà nói là đúng."
15 Bát-sê-ba vào phòng vua nằm, vì lúc ấy Đa-vít già yếu lắm. Có A-bi-sác (người Su-nem) đang ở đó săn sóc vua.
16 Bát-sê-ba cúi mình lạy vua. Vua hỏi: "Bà muốn gì?"
17 Bà thưa: "Thưa bệ hạ, bệ hạ có thề trước Chúa Hằng Hữu với tôi rằng con tôi là Sa-lô-môn sẽ nối ngôi bệ hạ.
18 Nhưng bây giờ A-đô-ni-gia lên làm vua, trong khi chúa tôi chẳng biết gì cả.
19 A-đô-ni-gia có tổ chức tế lễ, dâng bò, thú béo và cừu vô số, đồng thời mời các hoàng tử, thầy tế lễ A-bia-tha và tướng Giô-áp đến dự, nhưng không mời Sa-lô-môn.
20 Bây giờ, trăm họ đang ngóng trông, xem bệ hạ chỉ định ai lên ngôi kế vị.
21 Còn nếu cứ để thế này, đến ngày bệ hạ an giấc với tổ tiên, tôi và con tôi là Sa-lô-môn sẽ bị coi là phạm nhân."
22,23 Khi bà đang nói, có người trình: "Tiên tri Na-than đến." Na-than vào, phủ phục cúi chào cung kính nói:
24 "Muôn tâu, có phải bệ hạ đã truyền ngôi cho A-đô-ni-gia không?
25 Vì hôm nay ông ấy đã làm lễ đăng quang và dâng tế những thú vật béo tốt, cùng mời các hoàng tử, tướng Giô-áp và thầy tế lễ A-bia-tha đến dự. Hiện nay họ đang cùng nhau ăn uống với A-đô-ni-gia, và tung hô: 'Vua A-đô-ni-gia vạn tuế!'
26 Tuy nhiên, tôi cũng như thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa) và Sa-lô-môn đều không được mời.
27 Có phải bệ hạ chủ trương việc này không? Vì không thấy bệ hạ cho chúng tôi biết ai là người kế vị cả."
28 Vua Đa-vít bảo: "Gọi Bát-sê-ba cho ta." Bà trở vào đứng trước mặt vua.
29 Vua thề: "Trước Chúa Hằng Hữu, Đấng đã cứu ta khỏi mọi điều nguy hiểm,
30 ta xác nhận có thề với bà, nhân Danh Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên rằng: 'Sa-lô-môn, con bà, sẽ kế vị ta, ngồi trên ngôi thay ta,' và hôm nay ta thực hiện điều ấy."
31 Bát-sê-ba phủ phục, cúi mặt sát đất và tung hô: "Đức vua Đa-vít vạn tuế."
32 Vua truyền: "Gọi thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than và Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa) vào đây." Khi họ vào,
33 vua ra lệnh: "Các ông dẫn Sa-lô-môn và các bầy tôi ta xuống Ghi-hôn. Sa-lô-môn sẽ cưỡi con la của ta mà đi.
34 Tại đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than sẽ xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua Y-sơ-ra-ên; rồi thổi kèn tung hô:
35 'Vua Sa-lô-môn vạn tuế!' Xong rồi các ông sẽ theo Sa-lô-môn về đây. Sa-lô-môn sẽ lên ngồi trên ngai ta, vì được ta chỉ định làm vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa."
36 Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa) đáp lời vua: "A-men! Xin Thượng Đế Hằng Hữu của bệ hạ chuẩn chấp y cho.
37 Cầu Chúa Hằng Hữu ở với Sa-lô-môn như đã ở với bệ hạ. Xin Ngài làm cho ngôi nước của Sa-lô-môn lớn hơn cả ngôi nước của vua Đa-vít chúa tôi."
38 Vậy thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, những người Kê-rết và Phê-lết nâng Sa-lô-môn lên lưng con la của vua Đa-vít và rước ông xuống Ghi-hôn.
39 Tại đó, Xa-đốc cầm cái sừng đựng dầu lấy từ Đền Tạm, xức cho Sa-lô-môn. Họ thổi kèn và mọi người tung hô: "Vua Sa-lô-môn vạn tuế!"
40 Sau đó mọi người theo Sa-lô-môn trở về. Họ thổi sáo, hân hoan reo hò vang dậy cả đất.
41 A-đô-ni-gia và đoàn tân khách nghe tiếng hò reo khi vừa dự tiệc xong. Tướng Giô-áp nghe tiếng kèn liền hỏi: "Trong thành có gì xảy ra ồn ào như thế?"
42 Vừa lúc đó Giô-na-than (con thầy tế lễ A-bia-tha) đến. A-đô-ni-gia liền bảo: "Vào đây! Anh là một dũng sĩ chắc đem tin tốt lành."
43 Giô-na-than nói: "Vua Đa-vít đã truyền ngôi cho Sa-lô-môn.
44 Chính vua đã bảo thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia người Kê-rết và Phê-lết đỡ Sa-lô-môn lên cưỡi con la của vua.
45 Thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua tại Ghi-hôn. Rồi họ trở về liên hoan, làm náo động cả thành. Đó là tiếng vang quý vị đã nghe.
46 Sa-lô-môn lên ngồi trên ngai,
47 còn các quần thần của vua đều đến mừng vua Đa-vít rằng: 'Xin Thượng Đế làm cho Sa-lô-môn nổi danh hơn cả bệ hạ, cho ngôi nước người lớn hơn ngôi nước bệ hạ.' Vua vẫn ở trên giường đáp lễ:
48 'Ngợi khen Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài cho có một người ngồi trên ngai ta, trong khi ta còn đây để được thấy tận mắt.' "
49 Các tân khách đều sợ hãi, bỏ chạy.
50 A-đô-ni-gia vì sợ Sa-lô-môn giết, nên chạy vào nắm lấy sừng bàn thờ.
51 Sa-lô-môn nhận được báo cáo: A-đô-ni-gia vì sợ vua Sa-lô-môn nên đã chạy đến nắm sừng bàn thờ, và xin bệ hạ thề sẽ không xử tử.
52 Sa-lô-môn nói: "Nếu anh ấy chứng tỏ là một người xứng đáng thì một sợi tóc cũng không mất; nhưng nếu làm điều xằng bậy, sẽ bị xử tử."
53 Vua Sa-lô-môn sai người đem A-đô-ni-gia ra khỏi bàn thờ. Ông đến cúi lạy Sa-lô-môn. Vua bảo: "Anh về nhà đi."
1 Khi sắp qua đời, vua Đa-vít truyền huấn lệnh cho Sa-lô-môn con mình như sau:
2 "Ta sắp đi vào con đường thế nhân phải đi. Phần con, phải mạnh dạn tỏ ra đáng bậc nam nhi.
3 Phải tuân giữ mệnh lệnh Thượng Đế Hằng Hữu mình, đi theo đường lối Ngài, tuân giữ tất cả những điều răn, luật lệ, quy tắc và chỉ thị đã ghi trong luật Mai-sen. Như thế dù đi đến đâu hay làm việc gì, con sẽ được thành công;
4 và Chúa Hằng Hữu sẽ thực hiện lời Ngài đã phán hứa: 'Nếu con cháu ngươi bước đi thận trọng, hết lòng, hết linh hồn, trung thành với Ta, chúng nó sẽ tiếp tục làm vua Y-sơ-ra-ên mãi mãi.'
5 "Ngoài ra, con cũng biết Giô-áp (con Sê-ru-gia) đã đối xử với ta cách nào. Ông ta đã sát hại hai tướng Y-sơ-ra-ên là Áp-ne (con Nê-rơ) và A-ma-sa (con Giê-the). Ông ta gây đổ máu trong thời bình cũng như thời chiến, còn máu chiến tranh thì vẫn dính đầy thắt lưng và giày ông ta.
6 Con phải hành động khôn khéo, đừng để cho lão già ấy an ổn xuống mồ.
7 Còn đối với các con Bát-si-lai người Ga-la-át, con phải tử tế, cho họ ăn cùng bàn với con, vì họ đã giúp đỡ ta khi ta chạy trốn Áp-sa-lôm anh con.
8 Riêng về Si-mê-i (con Ghê-ra, người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim), người này đã nguyền rủa ta thậm tệ lúc ta đi Ma-ha-na-im ngày ấy. Nhưng khi người này xuống sông Giô-đan gặp ta, ta có nhân Danh Chúa Hằng Hữu thề sẽ không giết nó.
9 Nhưng con đừng kể nó là vô tội. Là người khôn ngoan, con biết phải xử sự thế nào. Phải cho đầu bạc nó vấy máu khi xuống mồ."
10 Đa-vít an nghỉ với các tổ tiên, được chôn trong thành Đa-vít.
11 Vua trị vì Y-sơ-ra-ên bốn mươi năm (bảy năm ở Hếp-rôn, và ba mươi ba năm ở Giê-ru-sa-lem).
12 Sa-lô-môn nối ngôi Đa-vít, và ngôi nước được vững bền.
13 A-đô-ni-gia (con Ha-ghi) đến tìm Bát sê-ba, mẹ Sa-lô-môn. Bà hỏi: "Anh đến với tinh thần hiếu hòa chứ?" Thưa: "Vâng, hiếu hòa."
14 A-đô-ni-gia tiếp: "Con có lời xin thưa với bà." Bà bảo: "Nói đi."
15 A-đô-ni-gia nói: "Bà biết nước vốn thuộc về con, cả Y-sơ-ra-ên đều mong con làm vua. Nhưng nay nước lại về tay em con, vì Chúa Hằng Hữu muốn thế.
16 Bây giờ con có một lời thỉnh cầu, xin bà đừng từ chối." Bà đáp: "Cứ nói."
17 A-đô-ni-gia nói: "Nhờ bà xin phép vua Sa-lô-môn giúp (vì vua không từ khước bà) cho con được cưới A-bi-sác người Su-nem làm vợ."
18 Bát-sê-ba nhận lời: "Được. Ta hứa sẽ xin với vua điều đó."
19 Rồi bà đến gặp Sa-lô-môn để nói việc này.
Vua đứng lên đón và cúi mình chào mẹ; rồi ngồi lại trên ngai. Vua sai đặt ghế cho mẹ ngồi bên phải.
20 Bà nói: "Mẹ có một việc nhỏ xin con, đừng từ chối mẹ." Vua đáp: "Mẹ nói đi, con không từ chối đâu."
21 Bà tiếp: "Con cho phép A-đô-ni-gia anh con được cưới A-bi-sác người Su-nem làm vợ."
22 Vua trả lời mẹ: "Tại sao mẹ xin A-bi-sác cho A-đô-ni-gia? Sao không xin cả vương quốc cho anh ấy một thể, vì là anh con? Nếu mẹ đã xin cho anh ấy, sao mẹ không xin luôn cho thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp nữa cho xong!"
23 Vua lại nhân Danh Chúa thề rằng: ôXin Thượng Đế phạt tôi nặng nề nếu yêu sách của A-đô-ni-gia không làm cho anh ấy mất mạng.
24 Tôi thề có Chúa Hằng Hữu (Đấng đã đặt tôi làm vua thế cho Đa-vít cha tôi và lập triều đại này như Ngài đã hứa) rằng A-đô-ni-gia phải chết hôm nay."
25 Và vua Sa-lô-môn sai Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa) giết A-đô-ni-gia.
26 Sau đó vua bảo thầy tế lễ A-bia-tha: "Hãy hồi hương về sống ở A-na-tốt! Tội ngươi đáng chết, nhưng bây giờ ta không giết ngươi vì ngươi đã khiêng Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu trước mặt Đa-vít cha ta và ngươi cũng đã chia sẻ hoạn nạn với cha ta."
27 Thế là Sa-lô-môn cách chức A-bia-tha, không cho làm chức tế lễ của Chúa nữa. Việc này làm ứng nghiệm lời Chúa đã phán về nhà Hê-li ở Si-lô.
28,29 Khi Giô-áp nghe những tin này (Giô-áp là người ủng hộ A-đô-ni-gia dù không theo Áp-sa-lôm), ông liền chạy đến Đền Tạm, nắm lấy sừng bàn thờ. Người ta báo cáo việc này cho Sa-lô-môn. Vua sai Bê-na-gia đi giết Giô-áp.
30 Bê-na-gia đến Đền Tạm và nói với Giô-áp: "Vua truyền lệnh cho ông đi ra." Nhưng Giô-áp đáp: "Không, ta chết tại đây." Bê-na-gia đi báo cáo cho vua.
31 Vua đáp: "Cứ làm như lời nó nói. Giết và chôn nó đi! Như vậy mới gỡ cho ta và nhà cha ta khỏi tội sát nhân. Nó đã giết người cách vô cớ.
32 Vì nó làm đổ máu người khác, nên Chúa khiến máu đổ lại trên đầu nó. Nó đã giết hai người ngay thẳng hơn, tốt hơn nó; đó là Áp-ne con Nê-rơ, là tư lệnh quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa con Giê-the, là tư lệnh quân đội Giu-đa, trong khi Đa-vít, cha ta không hề hay biết.
33 Xin huyết của họ đổ trên đầu Giô-áp và con cháu nó đời đời. Còn đối với Đa-vít, con cháu, gia đình và ngôi nước người sẽ được Chúa cho bình an mãi mãi."
34 Vậy Bê-na-gia trở lại giết Giô-áp. Ông được chôn tại nhà mình trong sa mạc.
35 Vua chỉ định Bê-na-gia làm tướng tư lệnh quân đội thay cho Giô-áp, Xa-đốc làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha.
36 Vua đòi Si-mê-i đến, bảo: "Ngươi phải cất một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem rồi ở đó, không được đi đâu cả.
37 Ngày nào ngươi đi qua suối Khiết-rôn, thì ngươi phải chết. Máu ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi."
38 Si-mê-i đáp: "Bệ hạ nói phải lắm. Tôi xin làm theo lời phán ấy." Và Si-mê-i ở lại Giê-ru-sa-lem lâu ngày.
39 Ba năm sau, hai người nô lệ của Si-mê-i chạy trốn đến với A-kích (con Ma-a-ca) vua đất Gát. Có người báo cho Si-mê-i hay.
40 Ông thắng lừa đi đến Gát gặp A-kích, tìm được hai người nô lệ và dẫn họ về.
41 Khi Sa-lô-môn nghe Si-mê-i đi Gát về,
42 liền đòi ông đến tra hỏi: "Ta có bảo ngươi thề nhân Danh Chúa và cảnh cáo ngươi rằng: 'Ngày nào ngươi bỏ đi bất kỳ nơi đâu, ngươi phải chết,' và ngươi có đáp: 'Vua nói đúng. Tôi xin vâng lời.'
43 Tại sao ngươi không giữ lời thề với Chúa và không tuân lệnh ta?"
44 Vua tiếp lời: "Những điều ác ngươi chủ tâm làm cho Đa-vít cha ta ngươi còn nhớ đó chứ! Chúa sẽ khiến những điều ác ấy quay lại đổ lên đầu ngươi.
45 Nhưng ta sẽ được phước lành, và ngôi nhà Đa-vít sẽ được vững bền trước mặt Chúa đời đời."
46 Vua ra lệnh cho Bê-na-gia giết Si-mê-i.
Như vậy, Sa-lô-môn củng cố được vương quốc.
1 Sa-lô-môn kết thân với Pha-ra-ôn, cưới công chúa Ai Cập, rước về thành Đa-vít. Họ ở đó cho đến khi cung điện, Đền Thờ và tường thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cất xong.
2 Trong lúc Đền Thờ của Chúa chưa được xây cất, dân chúng tế lễ trên những đồi cao.
3 Sa-lô-môn kính yêu Chúa và vâng theo những huấn lệnh của Đa-vít cha mình. Tuy nhiên, vua vẫn tế lễ và đốt hương tại các đồi cao.
4 Một hôm, vua đi Ga-ba-ôn dâng sinh tế, vì tại đó có một ngọn đồi nổi tiếng. Trên bàn thờ, vua dâng một ngàn sinh vật làm lễ thiêu.
5 Đêm ấy, trong giấc mộng, Sa-lô-môn thấy Chúa Hằng Hữu hiện ra, hỏi ông: "Con muốn xin điều gì?"
6 Sa-lô-môn thưa: "Chúa đã tỏ lòng thương xót dồi dào đối với cha con là Đa-vít, vì người đã hết lòng trung thành, công bằng và ngay thẳng trước mặt Ngài. Chúa vẫn tiếp tục thương xót, cho người có một con trai nối ngôi.
7 Bây giờ, lạy Thượng Đế Hằng Hữu, Chúa đã cho con làm vua kế vị Đa-vít cha con, dù con chỉ là một đứa con nít chưa rõ đường đi nước bước.
8 Con đang ở giữa tuyển dân Ngài, một dân tộc quá đông đúc.
9 Vậy, xin Chúa cho con có sự hiểu biết để cai trị dân Ngài, và để biết phân biệt tốt xấu, đúng sai. Vì ai có thể tự mình cai trị nổi một dân tộc đông đảo như thế này?"
10 Nghe Sa-lô-môn xin như vậy, Chúa rất hài lòng.
11 Ngài đáp: "Vì con đã không xin sống lâu, giàu sang, hoặc sinh mạng của kẻ thù, nhưng xin sự khôn ngoan để ý thức công lý,
12 Ta chấp nhận điều con xin, cho con có trí khôn ngoan sáng suốt chẳng ai bằng, kể cả người đời trước và sau con.
13 Ta cũng cho cả những điều con không xin là giàu có và danh dự. Trong suốt đời con, không vua nước nào sánh nổi.
14 Và Ta sẽ gia tăng năm tháng đời con nếu con theo đường lối Ta, tuân hành điều răn và luật lệ Ta như cha con là Đa-vít đã làm."
15 Sa-lô-môn thức giấc, thấy đó là một giấc mộng. Vua về Giê-ru-sa-lem, đứng trước Rương Giao Ước của Chúa dâng lễ thiêu và lễ thù ân cho Ngài. Sau đó, vua mở tiệc khoản đãi toàn thể quần thần.
16 Một hôm, có hai gái mãi dâm được dẫn đến đứng trước ngai.
17,18 Một chị nói: "Chị này với tôi ở chung một nhà, ngoài ra chẳng có ai khác trong nhà nữa. Cả hai chúng tôi đều sinh con, chị này sinh sau tôi ba ngày.
19 Nhưng đứa con của chị này chết, vì đang đêm chị ấy nằm đè lên.
20 Nửa đêm, lúc tôi đang ngủ cạnh con trai tôi, chị ấy dậy ẵm con tôi đi, tráo đứa con trai chết của chị ấy vào.
21 Sáng hôm sau, khi thức dậy cho con bú, tôi thấy nó chết, nhưng nhìn kỹ mới biết nó không phải là con tôi."
22 Chị kia cãi: "Nó đúng là con chị, còn đứa sống là con tôi." Nhưng chị thứ nhất nói: "Không. Đứa chết là con chị, đứa sống mới là con tôi." Họ cãi qua cãi lại trước mặt vua.
23 Vua bảo: "Người nào cũng nhất định đứa sống là con mình, còn đứa chết là con người kia.
24 Thế thì, đem cho ta một cây kiếm!" Một cây kiếm được đem đến.
25 Vua ra lệnh chặt đứa sống ra làm hai, giao cho mỗi người phân nửa!"
26 Người mẹ của đứa bé còn sống xót thương con, vội nói: "Xin đừng giết nó! Cho chị ấy đi!" Nhưng chị kia đáp: "Nó không thuộc về tôi, cũng không thuộc về chị. Cứ chia đôi nó đi!"
27 Vua ra lệnh: "Giao đứa bé còn sống ấy cho chị này, vì đúng là mẹ nó. Ta đâu cần phải giết nó."
28 Nghe vua xử án như thế, trong nước ai nấy đều kính sợ, vì biết rằng Thượng Đế cho vua trí khôn để cầm cân công lý.
1 Vua Sa-lô-môn trị vì trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên.
2 Triều thần Sa-lô-môn gồm có: A-xa-ria (con Xa-đốc) làm thầy tế lễ tối cao;
3 Ê-li-Hô-rếp và A-hi-gia (con Si-sa) làm tổng thư ký; Giê-hô-sa-phát (con A-hi-lút) giữ chức ngự sử;
4 Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa) làm tổng tư lệnh quân đội; Xa-đốc và A-bia-tha làm thầy tế lễ.
5 A-xa-ria (con Na-than) đứng đầu hàng công chức; Xa-bút (con Na-than) là bạn và thầy tế lễ của vua;
6 A-hi-sa phụ trách cung điện; và A-đô-ni-ram (con Áp-đia) chỉ huy đoàn lao công.
7 Sa-lô-môn còn chỉ định mười hai viên chức hành chánh phụ trách mười hai miền trong nước. Họ phải cung cấp lương thực cho vua và hoàng gia; hằng năm mỗi viên chức cung cấp một tháng.
8 Đây là danh sách các viên chức ấy: Bên-hu-rơ phụ trách miền đồi núi Ép-ra-im;
9 Bên-đê-ke phụ trách các miền Đa-kát, Sa-an-bim, Bết-sê-mết và Ê-lôn Bết-ha-nan;
10 Bên-hê-sết phụ trách miền A-ru-bốt kể cả Sô-cô và đất Hê-phe;
11 Bên A-bi-na-đáp (có vợ là Ta-phát, con gái Sa-lô-môn) phụ trách đồi núi Đô-rơ;
12 Ba-a-na (con A-hi-lút) phụ trách miền Tha-a-nác, Mê-ghi-đô, cả xứ Bết-Sê-an ở gần Xa-rê-than, dưới Đê-rê-ên, và cả miền từ Bết-Sê-an đến A-bên Mê-hô-la, xa cho đến bên kia Giốc-mê-am;
13 Bên-ghê-be phụ trách miền Ra-mốt Ga-la-át kể cả thôn Giai-rơ (Giai-rơ là con Ma-na-se) thuộc Ga-la-át, miền ạt-gốp thuộc Ba-san và sáu mươi thành phố lớn có tường thành và song đồng kiên cố;
14 A-hi-na-đáp (con Y-đô) phụ trách miền Ma-ha-na-im;
15 A-hi-mát (có vợ là Bách-mát, con gái Sa-lô-môn) phụ trách miền Nép-ta-li;
16 Ba-a-na (con Hu-sai) phụ trách miền A-se và A-lốt;
17 Giê-hô-sa-phát (con Pha-ru-a) phụ trách miền Y-sa-ca;
18 Si-mê-i (con Ê-la) phụ trách miền Bên-gia-min;
19 Ghê-be (con U-ri) phụ trách miền Ga-la-át gồm cả đất trước kia thuộc quyền của Si-hôn vua A-môn và Óc vua Ba-san. Cả khu vực này cũng chỉ có một viên chức.
20 Người Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đông như cát biển và rất giàu có thịnh vượng.
21 Vương quốc của Sa-lô-môn chạy từ Phát-giang đến đất của người Phi-li-tin, xuống phía nam cho đến biên giới Ai Cập. Các nước chư hầu phải cống hiến và phục dịch Sa-lô-môn suốt đời vua trị vì.
22 Mỗi ngày hoàng gia cần số lương thực gồm một trăm chín mươi lăm giạ bột mịn, ba trăm chín mươi giạ bột,
23 mười con bò béo tốt, hai mươi con bò nuôi ngoài đồng cỏ, một trăm con cừu, chưa kể nai, hoàng dương, mang và gà vịt béo tốt.
24 Lãnh thổ của Sa-lô-môn lan rộng đến tận phía tây Phát-giang, từ Típ-sắc tới Ga-xa, bao gồm nhiều nước thuộc địa. Vì không có chiến tranh với các nước lân bang,
25 nên suốt đời Sa-lô-môn, cả Giu-đa và Y-sơ-ra-ên hưởng thái bình, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, người người sống an vui bên vườn nho, cây vả.
26 Sa-lô-môn có 40.000 ngựa kéo xe với 12.000 ngàn kỵ sĩ.
27,28 Mỗi tháng mười hai viên chức thay phiên cung cấp thực phẩm cho vua Sa-lô-môn và hoàng gia không thiếu sót gì cả. Họ cũng đem lúa mạch và rơm đến nơi được chỉ định để nuôi ngựa và lạc đà.
29 Thượng Đế cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan, hiểu biết sâu xa, uyên bác.
30 Sa-lô-môn khôn ngoan hơn cả những nhà thông thái đông phương, kể cả Ai Cập.
31 Ông khôn hơn Ê-than người ết-ra, Hê-man, Canh-côn và Đạt-đa (các con của Ma-hôn). Danh tiếng vua vang lừng sang cả các nước chung quanh.
32 Vua sáng tác ba ngàn châm ngôn và một ngàn lẻ năm bài ca.
33 Vua cũng luận về cây cối, từ cây bách hương ở Li-ban cho đến cây cỏ bài hương mọc trên tường; luận về các loài thú vật, chim chóc, các loài bò sát và các loài cá.
34 Sa-lô-môn nổi tiếng khôn ngoan đến nỗi vua của các nước khác gửi người đến xin thụ giáo.
1 Hi-ram vua Ty-rơ vốn có nhiều thiện cảm với Đa-vít, nên khi nghe Sa-lô-môn lên ngôi kế vị vua cha, liền gửi sứ thần đến chúc mừng.
2,3 Sa-lô-môn cũng sai sứ đến trình bày với Hi-ram: "Như vua đã biết, Đa-vít cha tôi không thể cất Đền Thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu, vì phải chinh chiến với quân thù tứ phía, cho đến khi Chúa cho người chà đạp hết cừu địch.
4 Nhưng ngày nay, Thượng Đế Hằng Hữu cho tôi được hòa bình, an ổn tứ phía, không còn bóng dáng quân thù hay loạn nghịch.
5 Nay tôi định cất một Đền Thờ cho Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế tôi, như Ngài đã bảo Đa-vít cha tôi: 'Con trai con, người được Ta cho lên ngôi kế vị con, sẽ cất cho Ta một Đền Thờ.'
6 Vậy, xin vua cho người đốn gỗ bách hương ở Li-ban cho tôi. Tôi sẽ gửi nhân công đến giúp họ, và trả lương cho công nhân của vua theo mức vua ấn định. Vì như vua biết, không ai trong Y-sơ-ra-ên thạo đốn gỗ bằng người Si-đôn."
7 Nghe xong lời này, Hi-ram vui mừng nói: "Ngơị khen Chúa Hằng Hữu, vì Ngài đã cho Đa-vít người con khôn ngoan để cai trị một nước đông dân như thế."
8 Rồi vua sai sứ đáp lời Sa-lô-môn như sau: "Tôi đã nhận được lời vua sai nói với tôi. Tôi sẵn lòng làm theo điều vua yêu cầu về gỗ bách hương và trắc bá.
9 Công nhân tôi sẽ kéo gỗ từ núi Li-ban xuống biển, kết gỗ thành bè, thả biển cho đến vị trí vua định. Tại đó chúng tôi sẽ rã bè, giao gỗ cho vua; tôi mong vua sẽ cung cấp thực phẩm cho công nhân của tôi."
10 Vậy Hi-ram cung cấp tất cả số gỗ bách hương và trắc bá mà Sa-lô-môn muốn.
11 Đồng thời Sa-lô-môn trả cho Hi-ram hằng năm 20.000 bao lúa mì làm lương thực cho công nhân, cộng thêm 20.000 thùng dầu nguyên chất.
12 Vậy, Chúa cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan như Ngài đã hứa. Hi-ram và Sa-lô-môn cùng ký hòa ước hữu nghị.
13 Vua Sa-lô-môn trưng dụng 30.000 công nhân trong toàn cõi Y-sơ-ra-ên,
14 và gửi đi Li-ban mỗi tháng 10.000 người. Các công nhân luân phiên nhau, một tháng làm việc tại Li-ban, hai tháng ở nhà. A-đô-ni-ram điều khiển đoàn công nhân này.
15 Sa-lô-môn có 70.000 công nhân khuân vác, 80.000 thợ đẽo đá trên núi,
16 và 3.300 đốc công trông coi phu thợ làm việc.
17 Theo chỉ thị của vua, họ đào và đẽo những tảng đá lớn rất quí, dùng làm nền Đền Thờ.
18 Thợ của Sa-lô-môn và Hi-ram được những người Ghê-ban giúp đỡ trong việc đào núi đẽo đá và chuẩn bị cây gỗ sẵn sàng để xây Đền Thờ.
1 Vào tháng hai (tháng Xíp) năm bốn trăm tám mươi, tính từ ngày người Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, tức là năm thứ tư đời Sa-lô-môn cai trị, vua khởi công xây Đền Thờ Chúa Hằng Hữu.
2 Đền Thờ dài ba mươi mét, rộng mười mét và cao mười lăm mét.
3 Đằng trước Đền có một hành lang dài mười mét (bằng bề ngang của Đền), rộng năm mét.
4 Đền có nhiều cửa sổ hẹp.
5 Sát vách Đền Thờ, còn có nhiều phòng ốc vây quanh Đền và Nơi Thánh.
6 Tầng dưới của kiến trúc rộng hai mét rưỡi, tầng giữa rộng ba mét, tầng thứ ba rộng ba mét rưỡi. Những tầng lầu này cất dựa trên những cây đà đóng dính vào mặt ngoài tường Đền Thờ, như thế tránh được việc dùng những cây xà đâm thẳng vào vách Đền.
7 Đá dùng trong công tác xây cất này đều được chuẩn bị tại hầm đá, cho nên trong lúc cất Đền, không có tiếng búa, rìu hay tiếng của một dụng cụ bằng sắt nào.
8 Cửa ra vào phòng tầng dưới đặt phía bên phải Đền; từ tầng này có thang trôn ốc đi lên tầng giữa, và từ tầng giữa lên tầng thứ ba cũng có thang trôn ốc,
9 Xây Đền xong, Sa-lô-môn đóng đà và lót ván khắp mặt trong tường.
10 Về các kiến trúc sát vách Đền Thờ, mỗi tầng cao hai mét rưỡi và các phòng được nối với tường Đền Thờ nhờ những cây đà bách hương.
11 Lời của Chúa Hằng Hữu được truyền lại cho Sa-lô-môn như sau:
12 "Về Đền Thờ con đang cất, nếu con vâng theo tất cả những điều răn, luật lệ và quy tắc của Ta, Ta sẽ thực hiện những điều Ta hứa với Đa-vít cha con.
13 Ta sẽ ở giữa người Y-sơ-ra-ên, không bỏ họ đâu."
14 Vậy Sa-lô-môn hoàn tất công việc xây cất Đền Thờ.
15 Mặt trong Đền, từ tường đến trần đều lót ván bách hương, còn nền được đóng ván trắc bá.
16 Sa-lô-môn ngăn phần cuối của Đền một khoảng dài mười mét, lót ván bách hương từ nền đến trần. Đó là Nơi Chí Thánh trong Đền Thờ.
17 Phần của Đền còn lại ở phía trước dài hai mươi mét,
18 khắp mặt trong của tường Đền Thờ đều được lót ván bách hương nên không thấy đá. Ván này được chạm hình hoa nở và nụ.
19 Phần trong của Đền (Nơi Chí Thánh) được chuẩn bị để đặt Rương Giao Ước của Chúa.
20 Tất cả mặt trong của Nơi Chí Thánh (dài mười mét, rộng mười mét và cao mười mét) đều được bọc bằng vàng ròng. Bàn thờ đóng bằng gỗ bách hương cũng được bọc vàng.
21,22 Sa-lô-môn cũng bọc mặt trong của phần Đền Thờ còn lại bằng vàng ròng. Đằng trước Nơi Chí Thánh có dây xích bằng vàng giăng ngang. Khắp mặt bàn thờ tại Nơi Chí Thánh đều được bọc bằng vàng.
23-27 Trong Nơi Chí Thánh, Sa-lô-môn làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, có hình dáng và kích thước như nhau. Mỗi chê-ru-bim cao năm mét; có hai cánh dang thẳng ra, mỗi cánh dài hai mét rưỡi, vậy từ đầu cánh này đến đầu cánh kia dài năm mét. Hai chê-ru-bim được đặt trong Nơi Chí Thánh để cho một cánh của chê-ru-bim thứ nhất đụng vách này, một cánh của chê-ru-bim thứ hai đụng vách kia, hai cánh còn lại đụng nhau ở chính giữa Nơi Chí Thánh. 28 Hai chê-ru-bim được bọc bằng vàng.
29 Trên tường Đền Thờ, cả trong lẫn ngoài đều được chạm hình chê-ru-bim, hình cây chà là và hình hoa nở. 30 Còn nền Đền Thờ đều được lót vàng cả trong lẫn ngoài. 31 Cửa vào Nơi Chí Thánh làm bằng gỗ ô-liu, rầm đỡ cửa và trụ cửa có hình năm góc. 32 Hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu được chạm hình chê-ru-bim, cây chà là và hoa nở. Cửa được bọc vàng, hình chê-ru-bim và cây chà là được tráng vàng.
33 Sa-lô-môn cũng làm cửa vào Đền Thờ. Trụ cửa bằng gỗ ô-liu, có hình vuông; 34 hai cánh cửa bằng gỗ trắc bá, mỗi cánh gồm hai miếng gấp lại được. 35 Cửa có chạm hình chê-ru-bim, cây chà là và hoa nở. Cửa được bọc vàng, các hình chạm được tráng vàng.
36 Tường sân trong được xây bằng ba hàng đá chạm và một hàng cây xà bằng gỗ bách hương.
37 Như vậy, nền móng của Đền Thờ Chúa Hằng Hữu được đặt vào tháng hai (tháng Xíp) năm thứ tư đời Sa-lô-môn; 38 và đến tháng tám (tháng Bu-lơ) năm thứ mười một, chương trình xây cất hoàn tất. Thời gian cất Đền là bảy năm.
1 Sau đó Sa-lô-môn xây cất cung điện, tốn mất mười ba năm.
2,3 Vua cất cung “Rừng Li-ban,” dài năm mươi mét, rộng hai mươi lăm mét, cao mười lăm mét, có bốn hàng cột bách hương chống đỡ; các xà ngang cũng bằng gỗ bách hương, mỗi hàng có mười lăm cột, cộng là bốn mươi lăm cây. Trần được đóng bằng ván bách hương.
4,5 Có ba dãy cửa sổ. Các cửa sổ đối diện nhau. Các khung cửa và cửa sổ đều có hình vuông.
6 Vua cũng cất cung "Trụ," dài hai mươi lăm mét, rộng mười lăm mét, đàng trước có hành lang với nhiều trụ và mái hiên.
7 Ngoài ra, Sa-lô-môn còn cất tòa nhà "Ngai," là nơi vua ngồi xử án, tức là pháp đình. Toà nhà này được lót ván bách hương từ nền đến trần.
8 Cung vua ở có sân, nằm sau pháp đình, và có cách kiến trúc tương tự như pháp đình. Cung hoàng hậu cũng giống cung hoàng đế. Sa-lô-môn dành cung này cho công chúa con Pha-ra-ôn vợ mình.
9 Các cung điện này đều xây bằng đá quí; đục, cưa cả hai mặt theo kích thước định sẵn, từ nền lên đến mái, từ ngoài vào cho đến sân lớn.
10 Các tảng đá làm nền thật to lớn, cỡ bốn mét hoặc năm mét.
11 Đá xây tường trên cái nền này được đục theo kích thước nhất định.
12 Tường sân lớn được xây bằng ba hàng đá chạm và một hàng cây xà bằng gỗ bách hương, giống như sân trong của Đền Thờ Chúa và hành lang Đền Thờ.
13 Vua Sa-lô-môn sai mời Hi-ram từ Ty-rơ đến.
14 Mẹ Hi-ram là một bà góa thuộc đại tộc Nép-ta-li, còn cha là người Ty-rơ, làm thợ đồng. Ông là một người thợ đồng có tài khôn ngoan và thông thạo. Vậy Hi-ram đến làm việc cho Sa-lô-môn.
15 Ông đúc hai trụ đồng, cao chín mét, chu vi sáu mét. (Hai trụ này rỗng, có thành dày bốn đốt ngón tay).
16 Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng để đặt trên hai trụ. Mỗi đầu trụ cao hai mét rưỡi,
17 được trang trí bằng lưới có hình bàn cờ và hình vòng dây xích, mỗi đầu trụ có bảy dãy lưới
18 và hai dãy trái lựu.
19 Đầu trụ (được dựng trong hành lang) rộng hai mét, được đúc theo hình hoa huệ.
20 Hai trăm trái lựu xếp thành hai dãy bên trên phần nhô ra của đầu trụ. Phần nhô ra này ở ngay bên lưới.
21 Ông dựng hai trụ đồng nơi hành lang Đền Thờ, đặt tên trụ bên phải là Gia-kin, trụ bên trái là Bô-ách.
22 Phần trên trụ có hình hoa huệ. Và như thế, hai trụ đồng được hoàn tất.
23 Sau đó, ông đúc hồ chứa nước. Hồ hình tròn, đường kính năm mét, cao hai mét rưỡi, chu vi mười lăm mét.
24 Quanh miệng hồ có hai hàng nụ hoa, cứ nửa mét mười nụ. Hình các nụ hoa này được đúc thành từ ban đầu.
25 Hồ được đặt trên mười hai con bò, ba con quay về hướng bắc, ba con hướng tây, ba con hướng nam và ba con hướng đông, còn đuôi chúng nó quay vào trong.
26 Thành hồ dày bằng bề ngang bàn tay; miệng hồ như miệng tách, như cánh hoa huệ; sức chứa của hồ chừng bảy mươi ngàn lít.
27 Ông cũng làm mười cái bục đồng. Mỗi bục dài hai mét, rộng hai mét và cao một mét rưỡi.
28 Đây là cách làm bục: người ta dùng những tấm đồng đặt vào trong khung.
29 Trên mặt tấm đồng có chạm hình sư tử, bò và chê-ru-bim. Trên khung, bên trên và dưới hình sư tử và bò có chạm tràng hoa.
30 Ngoài ra, mỗi bục có bốn bánh xe và trục bánh xe bằng đồng. Bốn góc bục có phần chống đỡ nhô ra, được đúc dính vào bục, mỗi bên có hình tràng hoa.
31 Trên bục có một đoạn tròn nhô lên nửa mét, giữa đoạn tròn này khuyết vào, sâu 75 phân, được trang trí nhờ hình chạm trên tấm bửng. Tấm bửng dùng ở đây vẫn vuông chứ không phải tròn.
32 Bục được đặt trên bốn bánh xe. Trục bánh xe được đúc dính liền với bục. Bánh xe cao 75 phân,
33 giống như bánh xe ngựa. Trục, vành, căm và nắp bánh xe đều được đúc ra.
34 Phần chống đỡ bốn góc bục được đúc liền với bục.
35 Trên bục còn có một đường viền cao 25 phân. Thành hai bên bục được đúc liền với bục;
36 trên mặt các thành này có chạm hình chê-ru-bim, sư tử và cây chà là; bao bọc quanh các hình ấy có những tràng hoa.
37 Ông làm mười cái bục bằng nhau, giống nhau, vì được đúc ra từ một khuôn.
38 Sau đó, ông làm mười cái thùng đồng để đặt trên mười cái bục. Mỗi thùng rộng hai mét, chứa chừng một ngàn năm trăm lít.
39 Ông đặt năm cái bục bên phải Đền Thờ, năm cái bên trái; còn cái hồ, ông đặt bên phải Đền Thờ về phía đông nam.
40 Ngoài ra, ông còn làm nồi, xuổng và chậu. Như vậy, Hi-ram hoàn tất mọi công tác tại Đền Thờ do vua Sa-lô-môn giao cho, gồm có:
41 Hai cây trụ, hai đầu trụ, hai mạng lưới bao đầu trụ,
42 bốn trăm trái lựu kết thành hai dãy trên mạng lưới,
43 mười cái bục, mười cái thùng đặt trên bục,
44 hồ chứa nước, mười hai con bò đội hồ nước,
45 nồi, xuổng và chậu. Tất cả những vật này đều làm bằng đồng đánh bóng,
46 và được đúc tại một nơi có nhiều đất sét giữa Su-cốt và Xác-than, trong đồng bằng sông Giô-đan.
47 Sa-lô-môn không tính trọng lượng của các vật này, vì đồng nhiều và nặng quá, không cân nổi.
48 Sa-lô-môn làm tất cả các vật dụng trong Đền Thờ Chúa: Bàn thờ bằng vàng, bàn để bánh trần thiết bằng vàng,
49 chân đèn bằng vàng, năm cái đặt bên phải, năm cái bên trái, trước Nơi Chí Thánh; hoa đèn và kẹp gắp lửa đều bằng vàng;
50 tách, kéo cắt tàn tim đèn, chậu, đĩa đựng tro, đĩa đựng than hồng đều bằng vàng; bản lề cửa vào Nơi Chí Thánh và cửa Đền Thờ cũng làm bằng vàng.
51 Khi mọi công tác kiến trúc Đền Thờ Chúa Hằng Hữu được hoàn tất, Sa-lô-môn đem các vật đã được Đa-vít cha mình dâng hiến (bạc, vàng, dụng cụ) vào cất trong kho tàng của Đền Thờ.
1 Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên (trưởng các đại tộc và trưởng các gia tộc) họp tại Giê-ru-sa-lem để thỉnh Rương Giao Ước của Chúa từ Si-ôn thành Đa-vít lên Đền Thờ.
2 Vào dịp người Y-sơ-ra ên đến dự lễ tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy,
3 trước sự hiện diện của các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước lên Đền Thờ.
4 Các thầy tế lễ người Lê-vi còn đem theo cả Đền Tạm và các dụng cụ thánh trong Đền Tạm.
5 Dân chúng Y-sơ-ra-ên đến dự lễ đứng quanh vua Sa-lô-môn, trước Rương Giao Ước, cùng dâng tế vô số cừu và bò.
6 Các thầy tế lễ đem Rương Giao Ước của Chúa vào đặt trong Nơi Chí Thánh, dưới cánh chê-ru-bim.
7 Hai chê-ru-bim có cánh dang ra che phủ bên trên Rương và đòn khiêng.
8 Đòn khiêng rất dài, nên từ Nơi Thánh, trước Nơi Chí Thánh, có thể trông thấy đầu cây đòn, nhưng từ bên ngoài không thấy được. Các đòn khiêng nay vẫn còn tại đó.
9 Lúc ấy trong Rương chỉ có hai bảng đá do Mai-sen đặt vào lúc còn ở núi Hô-rếp, khi Chúa kết ước với người Y-sơ-ra-ên sau khi họ rời Ai Cập.
10 Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Chí Thánh, mây tràn vào Đền Thờ Chúa Hằng Hữu,
11 nên họ không thể tiếp tục đứng lại hành lễ. Vinh quang của Chúa tràn ngập Đền Thờ.
12 Sa-lô-môn kính cẩn nói: "Chúa có phán: 'Ngài ngự nơi tối tăm dày đặc.'
13 Nhưng tôi có cất Đền làm nơi Ngài ở, một nơi để Ngài ngự đời đời."
14 Rồi vua quay lại, chúc phước lành cho dân trong khi mọi người đều đứng.
15 Vua nói: "Ngợi khen Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã thực hiện lời Ngài hứa với Đa-vít cha ta, vì Chúa có nói:
16 'Từ ngày đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Ta không chọn nơi nào trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên để dựng Đền Thờ cho Danh Ta, nhưng Ta chọn Đa-vít cai trị dân Ta.'
17 Đa-vít cha ta muốn cất một Đền Thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên.
18 Nhưng Chúa nói với Đa-vít: 'Ta biết con muốn cất một Đền Thờ cho Danh Ta; dù ý muốn ấy là phải,
19 nhưng con của con mới là người thực hiện công tác ấy, chứ không phải con.'
20 Bây giờ Chúa làm điều Ngài hứa, vì nay ta lên kế vị cha ta, và ta vừa cất xong một Đền Thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên.
21 Trong Đền Thờ, ta có chuẩn bị nơi đặt Rương Giao Ước (giao ước Chúa Hằng Hữu đã lập với tổ tiên chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi Ai Cập)."
22 Trước mặt dân chúng, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Chúa, đưa hai tay lên trời
23 và cầu nguyện: "Lạy Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào trên trời hay dưới đất giống như Ngài. Chúa giữ giao ước và tỏ lòng nhân từ với người hết lòng theo đường lối Chúa.
24 Hôm nay, Chúa đã thực hiện lời hứa với Đa-vít cha con.
25 Bây giờ, lạy Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa cũng thực hiện lời hứa này với Đa-vít: 'Nếu con cháu ngươi noi gương ngươi, thận trọng trong con đường mình, tất nhiên sẽ luôn luôn có người kế vị ngươi.'
26 Lạy Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa cho lời hứa này cũng được thực hiện.
27 "Nhưng Thượng Đế có ở trên đất này không? Trời đất và vũ trụ bao la cũng không chứa được Ngài, huống hồ cái Đền con vừa mới cất.
28 Tuy nhiên, lạy Thượng Đế Hằng Hữu, xin nghe lời cầu nguyện con,
29 xin Chúa đêm ngày để mắt trông chừng Đền Thờ này, là nơi Ngài có nói đến: 'Danh Ta ngự tại đây,' để mỗi khi con hướng về Đền Thờ cầu nguyện, Chúa sẽ nghe con.
30 Xin nghe mọi lời con và lời dân chúng Y-sơ-ra-ên cầu nguyện mỗi khi chúng con hướng về nơi này. Xin Chúa từ trời lắng nghe và tha thứ cho chúng con.
31 "Nếu có người đứng thề trước bàn thờ của nơi này để thanh minh một tội trạng,
32 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, phân xử và trừng phạt kẻ có tội, nhưng biện minh cho người ngay lành.
33 "Khi dân Y-sơ-ra-ên có tội, bị quân thù đánh bại, nếu họ ăn năn, xưng nhận Danh Ngài và hướng về Đền này kêu cầu với Chúa,
34 xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho họ, đem họ về đất này, là đất Chúa đã cho tổ tiên họ.
35 "Khi trời đóng chặt, mưa không rơi xuống đất vì dân chúng phạm tội với Chúa; nếu họ ăn năn, hướng về nơi nầy cầu nguyện, xưng nhận Danh Ngài trong khi bị Chúa trừng phạt,
36 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho dân Ngài, hướng dẫn họ đi vào con đường chính đáng, cho mưa rơi xuống nhuần tưới đất đai mà Ngài đã ban cho họ.
37 "Khi trong nước có nạn đói, nạn dịch, thóc lúa cây cối bị cằn cỗi, bị nấm mốc, bị châu chấu cắn phá, hoặc lúc bị quân thù vây hãm, hay bị bất cứ tai nạn, bệnh tật gì khác,
38 nếu có một người hoặc mọi người Y-sơ-ra-ên nhận tội mình, dang tay hướng về Đền Thờ này cầu nguyện;
39 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho, đối xử với mỗi người tùy theo cách ăn ở của họ, vì Chúa (chỉ có Chúa) biết lòng người.
40 Như thế, họ sẽ kính sợ Chúa trọn đời khi họ sống trong miền đất Chúa ban cho tổ tiên họ.
41,42 "Ngay cả người ngoại quốc, khi nghe Danh lớn của Chúa (vì người ta sẽ nghe tiếng về uy danh và về quyền năng siêu việt của Chúa), họ sẽ từ xa đến cầu nguyện trong Đền Thờ này,
43 xin Chúa từ trời lắng nghe, nhậm lời họ kêu cầu. Như thế, dân chúng khắp thế giới sẽ nhận biết và kính sợ Chúa cũng như người Y-sơ-ra-ên, và cả thế giới đều biết rằng đây là Đền Thờ của Chúa.
44 "Khi Chúa sai dân Ngài ra trận chiến đấu với quân thù, họ sẽ hướng về thành Chúa chọn và Đền con cất cho Ngài để cầu nguyện,
45 xin Chúa từ trời nghe lời cầu nguyện của họ và bênh vực cho.
46 "Nếu họ phạm tội với Chúa (vì nào ai không phạm tội) khiến Chúa giận, và cho phép quân thù bắt họ làm tù binh dẫn về đất địch, dù xa hay gần;
47 nếu họ hồi tâm, tỏ lòng ăn năn và kêu xin với Chúa: 'Chúng con có tội, làm điều tà ác;'
48 nếu họ hết lòng thống hối trong khi còn ở trên đất quân thù, hướng về quê hương (xứ Chúa đã cho tổ tiên họ) hướng về thành Chúa chọn và Đền Thờ con xây cất để cầu nguyện với Chúa,
49,50 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, tha hết mọi lỗi lầm của họ, bênh vực họ, khiến quân thù có lòng thương xót họ,
51 vì họ là dân, là cơ nghiệp của Ngài được giải phóng khỏi Ai Cập tức lò lửa hực.
52 Xin Chúa mở mắt nhìn xem và lắng tai nghe họ mỗi khi họ kêu cầu với Chúa.
53 Vì khi đem tổ tiên chúng con ra khỏi Ai Cập, Chúa có phán bảo Mai-sen tôi tớ Chúa là Chúa biệt riêng Y-sơ-ra-ên ra khỏi mọi dân tộc để làm tuyển dân của Chúa."
54,55 Lúc cầu nguyện, Sa-lô-môn quỳ gối trước bàn thờ Chúa Hằng Hữu, hai tay đưa thẳng lên trời. Cầu nguyện xong vua đứng dậy, lớn tiếng chúc phước lành cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên:
56 "Ca ngợi Chúa, vì Ngài cho Y-sơ-ra-ên hưởng thái bình. Mọi lời Chúa hứa qua Mai-sen đều được Ngài thực hiện, không sót một điều nào.
57 Cầu Thượng Đế Hằng Hữu ở với chúng ta như đã ở với tổ tiên ta; cầu Chúa đừng rời, đừng bỏ chúng ta.
58 Cầu cho lòng ta hướng về Chúa, đi theo lối Ngài, tuân giữ các điều răn, luật lệ, quy tắc Chúa truyền cho tổ tiên ta.
59 Cầu cho những lời cầu nguyện của tôi được ngày đêm ở trước mặt Chúa, để mỗi ngày Ngài giúp chúng ta trong mọi nhu cầu.
60 Như vậy, thế giới mới biết Chúa Hằng Hữu là Chân Thần, chẳng có Chân Thần nào khác.
61 Về phần đồng bào, phải hết lòng trung thành với Thượng Đế Hằng Hữu, tuân giữ luật lệ và điều răn của Ngài, như đồng bào hiện đang tuân giữ."
62,63 Sau đó, vua và dân chúng Y-sơ-ra-ên làm lễ cung hiến Đền Thờ cho Chúa Hằng Hữu. Họ dâng 20.000 con bò và 120.000 con cừu làm lễ vật tạ ân Ngài.
64 Hôm ấy, vua để riêng phần giữa sân (ngay trước Đền Thờ) làm nơi dâng lễ thiêu, ngũ cốc và mỡ của lễ vật tạ ân, vì bàn thờ đồng không đủ chứa các lễ vật này.
65 Vậy, Sa-lô-môn và dân chúng Y-sơ-ra-ên từ khắp nơi, từ cổng Ha-mát cho đến suối Ai Cập, lũ lượt kéo đến trước mặt Chúa trong bảy ngày, rồi kéo dài thêm bảy ngày nữa.
66 Ngày thứ tám, vua cho dân chúng về. Họ chúc phước lành cho vua rồi lên đường. Trên đường về, lòng họ rộn rã vui mừng về mọi điều tốt lành Chúa Hằng Hữu làm cho Đa-vít tôi tớ Ngài và cho Y-sơ-ra-ên dân sự Ngài.
1 Sau khi Sa-lô-môn cất xong Đền Thờ, cung điện và những công trình kiến trúc khác,
2 Chúa hiện ra với ông lần thứ hai, giống như lần thứ nhất Ngài hiện ra ở Ga-ba-ôn, và
3 phán dạy: "Ta có nghe lời con cầu xin. Ta đã thánh hóa Đền Thờ con vừa xây và đặt Danh Ta tại đó đời đời. Mắt và lòng Ta sẽ hướng đến nơi này mãi mãi.
4 Nếu con noi gương Đa-vít cha con, đi trước mặt Ta với lòng chân thành, ngay thẳng, tuân giữ tất cả những điều Ta truyền bảo, những luật lệ và quy tắc của Ta,
5 thì Ta sẽ làm cho triều đại của dòng họ con tồn tại trong Y-sơ-ra-ên mãi mãi, theo lời Ta hứa với Đa-vít cha con: 'Con cháu con sẽ làm vua Y-sơ-ra-ên mãi mãi.'
6 Nhưng nếu con hoặc con cháu con không theo Ta, không tuân giữ các điều răn, luật lệ Ta, đi phụng thờ các thần khác,
7 thì Ta sẽ đày dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi đất Ta đã cho họ; còn Đền Thờ Ta đã thánh hóa sẽ bị phá bỏ khỏi mắt Ta. Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên một trò cười, một câu châm ngôn, một thành ngữ để cảnh cáo thế nhân.
8 Đền Thờ này sẽ đổ nát, mọi người đi ngang qua sẽ trố mắt kêu lên: 'Vì sao Chúa làm cho đất nước Y-sơ-ra-ên và Đền Thờ ra nông nỗi này?'
9 Có người sẽ đáp: 'Vì họ chối bỏ Thượng Đế Hằng Hữu mình, Đấng đã cứu họ ra khỏi Ai Cập, để theo thờ phụng các thần khác. Vì thế, Chúa giáng trên họ các tai họa này.' "
10 Sau hai mươi năm là thời gian xây cất Đền Thờ và cung điện,
11 Sa-lô-môn nhượng cho Hi-ram vua Ty-sơ hai mươi thành trong đất Ga-li-lê, vì Hi-ram đã cung ứng đầy đủ các nhu cầu về gỗ bách hương, trắc bá và vàng cho Sa-lô-môn.
12 Nhưng khi đến xem các thành này, Hi-ram không vừa ý,
13 nên nói: "Anh ơi, anh cho tôi những thành gì thế này?" Và người gọi các thành ấy "Thành của Hoang Địa." Ngày nay tên ấy vẫn còn.
14 Tổng số vàng Hi-ram gửi cho Sa-lô-môn lên đến gần nửa tấn.
15 Vua Sa-lô-môn trưng dụng nhân công để xây Đền Thờ, cung điện, căn cứ Mi-lô, tường thành Giê-ru-sa-lem, và các thành phố Hát-so, Mê-ghi-đô và Ghê-xe.
16 Ghê-xe trước kia là một thành của người Ca-na-an, bị Pha-ra-ôn vua Ai Cập đánh chiếm, đốt thành, giết dân, rồi đem thành cho con gái mình làm của hồi môn lúc thành hôn với Sa-lô-môn.
17 Sa-lô-môn xây lại Ghê-xe và các thành Bết-hô-rôn Hạ,
18 Ba-lát, Ta-ma trong sa mạc.
19 Vua cũng xây các thành làm kho trữ lương thực, thành chứa xe cộ, thành dành cho kỵ binh ở, cùng tất cả những kiến trúc Sa-lô-môn muốn thiết lập tại Giê-ru-sa-lem, Li-ban cũng như tại các nơi trong lãnh thổ mình.
20,21 Đoàn người bị cưỡng bách lao động là con cháu những người thuộc các dân Am-môn, Hết, Phê-rết, Hê-vi và Giê-bu còn sống sót sau khi bị người Y-sơ-ra-ên chinh phục. Họ không phải là người Y-sơ-ra-ên.
22 Đối với người Y-sơ-ra-ên, Sa-lô-môn chỉ tuyển mộ làm binh sĩ, công chức, sĩ quan, chỉ huy chiến xa và kỵ binh, vì người Y-sơ-ra-ên không làm nô lệ.
23 Có tất cả năm trăm năm mươi người Y-sơ-ra-ên điều khiển lao công thực hiện các công trình xây cất của vua Sa-lô-môn.
24 Công chúa con Pha-ra-ôn dời từ thành Đa-vít lên cung điện Sa-lô-môn vừa cất cho. Sau đó, Sa-lô-môn xây Mi-lô.
25 Từ khi cất xong Đền Thờ, cứ ba năm một lần Sa-lô-môn dâng lễ thiêu và lễ thù ân trên bàn thờ vua đã xây cho Chúa.
26 Xưởng đóng tàu Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lát, bên bờ Biển Đỏ thuộc đất Ê-đôm, đã đóng cho vua Sa-lô-môn một đoàn tàu.
27 Hi-ram gửi các chuyên viên hàng hải đến giúp các thủy thủ của Sa-lô-môn.
28 Họ thực hiện nhiều chuyến đi tìm vàng tại Ô-phia, và đem về cho Sa-lô-môn đến gần hai tấn vàng.
1 Nữ Vương Sê-ba Viếng Thăm Sa-lô-môn Nữ hoàng nước Sê-ba nghe Sa-lô-môn được Chúa Hằng Hữu ban cho khôn ngoan và nhiều phúc lành, nên đến Giê-ru-sa-lem để thử tài Sa-lô-môn bằng những câu hỏi khúc mắc.
2 Theo bà có cả một đàn lạc đà chở vô số hương liệu, ngọc và vàng. Khi gặp Sa-lô-môn, bà đem các câu hỏi ra cật vấn.
3 Sa-lô-môn giải đáp tất cả những câu hỏi của bà, chẳng câu nào quá ẩn bí đối với vua.
4 Khi thấy sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, cùng thấy cung điện vua xây,
5 cao lương mỹ vị trên bàn vua, người hầu bàn, cách họ ăn mặc, các triều thần, các lễ thiêu vua dâng trong Đền Thờ Chúa, nữ hoàng Sê-ba vô cùng sửng sốt.
6 Bà nói với vua: "Tất cả những điều tôi nghe khi còn ở nước nhà về sự khôn ngoan và công việc vua làm đều đúng cả,
7 nhưng tôi không tin cho đến khi tôi tới đây và thấy tận mắt. Đúng ra, tôi chỉ mới nghe có phân nửa. Sự khôn ngoan và giàu có của vua còn hơn xa những điều tôi nghe.
8 Dân của vua có phúc thật; tôi tớ của vua cũng có phúc lắm, vì hằng ngày họ được đứng đây để nghe những lời khôn sáng của vua.
9 Ngợi khen Thượng Đế Hằng Hữu của vua, vì Ngài hài lòng đặt vua lên ngôi Y-sơ-ra-ên. Chúa luôn thương yêu Y-sơ-ra-ên, nên mới đặt vua cai trị họ và xét xử họ cách công minh."
10 Rồi bà tặng vua gần nửa tấn vàng cùng vô số ngọc ngà và hương liệu. Không ai tặng vua Sa-lô-môn nhiều hương liệu bằng nữ hoàng Sê-ba.
11 (Khi đoàn tàu của Hi-ram đi chở vàng Ô-phia, cũng đem về rất nhiều gỗ bạch đàn và ngọc.
12 Vua dùng gỗ bạch đàn làm trụ Đền Thờ và cung điện, làm đàn thất huyền và thụ cầm cho các ca đoàn. Y-sơ-ra-ên chưa bao giờ có nhiều gỗ bạch đàn như thế).
13 Để đáp lễ, vua Sa-lô-môn tặng cho nữ hoàng Sê-ba tất cả những bảo vật bà thích và xin, ngoài những tặng vật chính thức của nhà vua. Sau đó, nữ hoàng và đoàn tùy tùng lên đường về nước.
14 Mỗi năm Sa-lô-môn thu được khoảng hai tấn rưỡi vàng,
15 chưa kể số vàng thu được do quan hệ ngoại thương với các vua Á-rập, và do các tổng đốc trong nước đem nộp.
16,17 Sa-lô-môn sai thợ lấy vàng gò thành khiên, hai trăm cái lớn (mỗi cái dùng hơn mười lạng vàng) và ba trăm cái nhỏ (mỗi cái dùng hơn ba lượng vàng). Những khiên này được đặt tại cung "Rừng Li-ban."
18 Vua cũng sai làm một cái ngai bằng ngà thật lớn, bọc vàng ròng.
19 Ngai có sáu bậc, thân ngai có đỉnh tròn, cạnh chỗ gác tay, mỗi bên có một con sư tử.
20 Ngoài ra có mười hai con sư tử khác đứng trên sáu bậc, mỗi con đứng ở một góc bậc. Không nước nào có ngai như thế.
21 Vua Sa-lô-môn uống bằng những tách vàng. Tất cả vật dụng trong cung "Rừng Li-ban" đều bằng vàng ròng, không có vật nào bằng bạc, vì dưới triều Sa-lô-môn bạc không mấy giá trị.
22 Cứ ba năm một lần, đoàn tàu hoàng gia cùng đoàn tàu của Hi-ram vượt biển đi Ta-rê-si đem về vàng, bạc, ngà, cùng dã nhân và con công.
23 Vua Sa-lô-môn giàu có, và khôn ngoan hơn tất cả các vua trên thế giới.
24 Thiên hạ đều mong được gặp Sa-lô-môn để lĩnh hội tư tưởng khôn ngoan Thượng Đế đã phú cho vua.
25 Hằng năm người ta đến, đem theo vô số lễ vật, gồm những vật bằng vàng và bạc, y phục, binh giáp, hương liệu, ngựa, la.
26 Sa-lô-môn cũng sắm nhiều ngựa và xe. Vua có một ngàn bốn trăm cỗ xe và mười hai ngàn kỵ binh đóng trong các thành chứa xe và ngay tại Giê-ru-sa-lem.
27 Tại Giê-ru-sa-lem, bạc trở nên tầm thường như đá, gỗ bách hương như cây sung mọc đầy trong thung lũng.
28 Sa-lô-môn mua ngựa từ Ai Cập. Toán thương gia của nhà vua đi mua từng bầy với giá phải chăng.
29 Một cỗ xe mua từ Ai Cập mang về bán với giá chưa tới một lượng vàng, một con ngựa khoảng chừng ba chỉ. Đó là giá các vua người Hết và vua Sy-ri trả cho các thương gia của vua.
1 Ngoài công chúa con Pha-ra-ôn, Sa-lô-môn còn thương yêu nhiều cô gái ngoại quốc từ Mô-áp, Ê-đôm, Si-đôn và Hết,
2 mặc dù Chúa Hằng Hữu đã nghiêm cấm người Y-sơ-ra-ên không đươc kết thông gia với người các nước ấy, vì họ sẽ quyến rũ Y-sơ-ra-ên thờ thần của họ. Tuy nhiên Sa-lô-môn vẫn say mê các mỹ nữ này.
3,4 Vua có bảy trăm hoàng hậu và ba trăm cung phi. Các bà quyến rũ vua thờ thần của họ, nhất là lúc Sa-lô-môn về già. Lòng vua không trung thành với Thượng Đế Hằng Hữu như Đa-vít cha vua trước kia.
5 Sa-lô-môn thờ nữ thần Át-tạt-tê của người Si-đôn và thần Minh-côm, một thần đáng ghê tởm của người Am-môn.
6 Như thế, Sa-lô-môn đã làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu, không hết lòng theo Chúa như Đa-vít cha vua.
7 Sa-lô-môn còn cất miếu thờ Kê-móc (thần đáng ghê tởm của người Mô-áp) và Mô-lóc, (thần đáng ghê tởm của người Am-môn) trên ngọn đồi phía đông Giê-ru-sa-lem.
8 Như thế, Sa-lô-môn đã tiếp tay với các bà vợ ngoại quốc, để họ đốt nhang dâng sinh tế cho thần mình.
9 Chúa Hằng Hữu rất giận Sa-lô-môn, vì lòng vua chối bỏ Ngài, là Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, mặc dù Ngài đã hai lần hiện ra cho vua thấy,
10 bảo vua không được thờ thần khác, nhưng vua vẫn không vâng lời.
11 Vì thế Chúa phán: "Vì con đã hành động như thế, không giữ lời ước, không tuân hành luật Ta, Ta sẽ tước quyền trị nước khỏi tay con, đem giao cho tôi tớ con.
12,13 Tuy nhiên vì Đa-vít cha con, Ta sẽ không làm việc này trong đời con, nhưng sẽ tước quyền khỏi tay của con. Dù vậy, Ta vẫn không tước đoạt hết và Ta sẽ để lại một đại tộc cho con của con, vì cớ Đa-vít đầy tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem, thành Ta đã chọn."
14 Chúa khiến Ha-đát, một người thuộc hoàng gia Ê-đôm, trở thành đối thủ của Sa-lô-môn.
15,16 Vào thời Đa-vít chinh phục Ê-đôm, tư lệnh Giô-áp, trong dịp đi lo việc chôn cất những người bị giết, đã đóng quân tại Ê-đôm sáu tháng và giết sạch đàn ông trong nước này.
17 Nhưng Ha-đát lúc đó còn nhỏ, cùng với mấy người đầy tớ cha mình sống sót, chạy trốn qua Ai Cập.
18 Họ chạy từ Ma-đi-an đến Pha-ran, tại đó có một số người theo. Đến Ai Cập, Pha-ra-ôn cho họ nhà cửa, thực phẩm, đất đai.
19 Ha-đát chiếm được cảm tình của Pha-ra-ôn, nên Pha-ra-ôn gả em vợ mình cho ông, tức em hoàng hậu Tác-bê-ne.
20 Vợ ông sinh con trai, tên Giê-nu-bát. Cậu này được hoàng hậu Tác-bê-ne nuôi dưỡng trong cung cùng với các hoàng tử con của Pha-ra-ôn.
21 Khi đang ở Ai Cập, Ha-đát nghe tin Đa-vít và Giô-áp đã qua đời, liền xin Pha-ra-ôn cho phép về nước.
22 Pha-ra-ôn hỏi: "ễ đây có gì thiếu thốn đâu mà ngươi muốn trở về nước?" Ông đáp: "Không thiếu gì, nhưng xin cứ cho tôi đi."
23 Chúa cũng bắt Sa-lô-môn đương đầu với một đối thủ thứ hai là Rê-xôn, con Ê-li-a-đa. Khi Đa-vít đánh giết người Xô-ba, người này bỏ chủ (Ha-đa-đê-xe vua Xô-ba) chạy trốn.
24 Người ấy chiêu tập bộ hạ, cầm đầu đảng cướp, kéo sang Đa-mách và trở thành vua Đa-mách.
25 Suốt đời Sa-lô-môn, Rê-xôn chống lại Y-sơ-ra-ên, gây bao thảm họa chẳng kém gì Ha-đát. Khi đã làm vua Sy-ri, Rê-xôn lại càng ghét Y-sơ-ra-ên cách cay đắng.
26 Ngoài ra cũng có một người Y-sơ-ra-ên nổi lên chống Sa-lô-môn. Đó là Giê-rô-bô-am con của Nê-bát người ở Xê-rê-đa thuộc đất Ép-ra-im. Mẹ ông là một góa phụ tên Xê-ru-a.
27 Đây là lý do khiến Giê-rô-bô-am làm phản: Sa-lô-môn xây thành Mi-lô và tu bổ thành Đa-vít mà cha vua đã xây.
28 Khi thấy Giê-rô-bô-am là một người trẻ tuổi, vừa có khả năng, vừa làm việc cần mẫn, vua giao cho ông trông coi đoàn nhân công của đại tộc Giô-sép.
29 Một hôm Giê-rô-bô-am từ trong thành Giê-ru-sa-lem đi ra, giữa đường gặp tiên tri A-hi-gia người Si-lô đang mặc một cái áo mới (lúc ấy chỉ có hai người ở ngoài đồng).
30 A-hi-gia nắm chiếc áo mới đang mặc, xé ra làm mười hai mảnh,
31 và bảo Giê-rô-bô-am: "Ông lấy mười mảnh, vì Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên có phán: 'Ta sẽ xé nước trong tay Sa-lô-môn, cho ngươi mười đại tộc
32 (nhưng Ta sẽ để lại cho con Sa-lô-môn một đại tộc, vì cớ Đa-vít tôi tớ Ta và Giê-ru-sa-lem, thành Ta chọn trong khắp Y-sơ-ra-ên),
33 vì Sa-lô-môn đã chối bỏ Ta, đi thờ nữ thần Át-tạt-tê của người Si-đôn, thần Kê-mốt của người Mô-áp và thần Minh-côm của người Am-môn. Nó không theo đường lối ta, không làm điều phải trước mặt Ta, không tuân giữ luật lệ và quy tắc Ta như Đa-vít cha nó trước kia.
34 Dù thế, Ta cho nó cứ làm vua suốt đời, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta đã chọn, là người đã tuân theo mọi điều răn, luật lệ Ta. Ta sẽ không tước quyền khỏi tay nó ngay bây giờ
35 nhưng đợi đến đời con nó, và Ta sẽ cho ngươi mười đại tộc.
36 Ta chỉ cho con Sa-lô-môn được giữ lại một đại tộc, để Đa-vít có người nối ngôi mãi mãi trước mặt Ta tại Giê-ru-sa-lem, thành Ta chọn để mang tên Ta.
37 Ta sẽ cho ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên, ngươi sẽ cai trị như lòng mình mong muốn.
38 Nếu ngươi nghe lệnh Ta, đi theo lối Ta, làm điều phải trước mắt Ta, giữ điều răn, luật lệ Ta như tôi tớ Đa-vít Ta trước kia, Ta sẽ ở cùng ngươi, lập triều đại ngươi vững chắc như triều đại Đa-vít, vì Ta cho ngươi nước Y-sơ-ra-ên.
39 Vì tội của Sa-lô-môn, Ta hình phạt con cháu Đa-vít, nhưng hình phạt này không kéo dài mãi.' "
40 Sa-lô-môn định giết Giê-rô-bô-am, nhưng ông chạy trốn sang Ai Cập, ở với vua Si-sắc cho đến ngày Sa-lô-môn qua đời.
41 Các công việc khác của Sa-lô-môn, những lời khôn ngoan của vua đều được chép trong sách 'Công Việc của Sa-lô-môn.'
42 Sa-lô-môn cai trị Y-sơ-ra-ên bốn mươi năm,
43 rồi an nghỉ cùng tổ tiên, được chôn trong thành Đa-vít, là thành của cha mình. Hoàng tử Rô-bô-am lên ngôi kế vị.
1 Rô-bô-am đến Si-chem và toàn dân tập họp tại đó để cử hành lễ đăng quang.
2 Giê-rô-bô-am con Nê-bát đang ở Ai Cập (vì ông chạy trốn vua Sa-lô-môn) nhận được tin này,
3 và được người ta mời về nước. Ông hướng dẫn các đại biểu dân chúng đến gặp Rô-bô-am, trình bày như sau:
4 "Vua cha đã bắt chúng tôi làm việc nặng nề. Bây giờ, nếu bệ hạ giảm nhẹ trách nhiệm cho chúng tôi thì chúng tôi xin phục vụ bệ hạ."
5 Vua đáp: "Ba ngày nữa trở lại đây, ta sẽ trả lời." Mọi người ra về.
6 Vua Rô-bô-am hỏi ý kiến những người cao niên trước kia làm cố vấn cho Sa-lô-môn cha mình: "Các ông nghĩ tôi nên trả lời thế nào?"
7 Họ đáp: ôNếu bây giờ bệ hạ chịu khó phục vụ dân, đối xử tử tế với họ, họ sẽ thần phục bệ hạ mãi mãi."
8 Vua không nghe lời khuyên của những bậc cao niên, nhưng đi bàn với những người trẻ, đồng trang lứa và thân cận với mình.
9 Rô-bô-am hỏi: "Dân chúng muốn ta giảm bớt gánh nặng cho họ, các anh em nghĩ sao?"
10 Nhóm trẻ đáp: ôBệ hạ nên trả lời thế này: 'Ngón tay út của ta còn lớn hơn lưng cha ta.
11 Nếu cha ta bắt các ngươi làm việc nặng nề, thì ta sẽ gia tăng công tác cho nặng nề hơn. Cha ta dùng roi để trừng trị, ta sẽ dùng bò cạp.' "
12 Ba ngày sau, Giê-rô-bô-am và dân chúng trở lại gặp vua.
13 Vua không theo lời khuyên của những người lớn tuổi, nhưng giở giọng gay gắt, trả lời theo cách
14 những người trẻ tuổi đề nghị: "Cha ta bắt các ngươi làm việc nặng nề, ta sẽ gia tăng công tác càng nặng nề hơn. Cha ta dùng roi để trừng trị, ta sẽ dùng bò cạp."
15 Vua không nghe lời thỉnh cầu của dân, vì Chúa tể trị các diễn biến để làm ứng nghiệm lời Ngài đã dùng A-hi-gia người Si-lô nói với Giê-rô-bô-am con Nê-bát.
16 Khi thấy vua từ khước thỉnh cầu của họ, người Y-sơ-ra-ên nói: "Chúng ta chẳng có phần gì với Đa-vít, không thừa hưởng gì nơi con trai Gie-sê cả. Anh em Y-sơ-ra-ên ơi, về đi thôi! Từ nay Đa-vít ơi, hãy liệu lấy việc nhà ngươi!" Và người Y-sơ-ra-ên ai rút về trại nấy.
17 Chỉ còn lại những người ở trong đại tộc Giu-đa thần phục Rô-bô-am.
18 Khi Rô-bô-am sai A-đô-ram đi lo việc tổ chức lao động, ông bị dân chúng Y-sơ-ra-ên ném đá chết. Vua Rô-bô-am vội vàng lên xe chạy trốn về Giê-ru-sa-lem.
19 Từ đó đến nay, người Y-sơ-ra-ên tiếp tục chống lại các vua dòng Đa-vít.
20 Khi hay tin Giê-rô-bô-am từ Ai Cập trở về, dân chúng Y-sơ-ra-ên liền tổ chức đại hội mời ông đến dự rồi tấn phong ông làm vua Y-sơ-ra-ên. Chỉ có đại tộc Giu-đa trung thành với nhà Đa-vít.
21 Về đến Giê-ru-sa-lem, Rô-bô-am triệu tập quân sĩ thuộc đại tộc Giu-đa và Bên-gia-min, chọn một trăm tám mươi ngàn người định đem đi đánh các đại tộc khác của Y-sơ-ra-ên để khôi phục quyền hành.
22 Nhưng Thượng Đế phán bảo Sê-ma-gia, là người của Thượng Đế, như sau:
23 "Con nói với Rô-bô-am con Sa-lô-môn vua Giu-đa và người thuộc hai đại tộc Giu-đa, Bên-gia-min cùng mọi người khác rằng:
24 Chúa Hằng Hữu cấm không được đi đánh anh em mình là người Y-sơ-ra-ên. Mỗi người phải trở về nhà mình, vì việc này do Ta định liệu." Mọi người vâng lời Chúa, ai về nhà nấy.
25 Giê-rô-bô-am xây thành Si-chem trên núi Ép-ra-im và đóng đô tại đó. Sau đó, vua xây thành Phê-nu-ên.
26 Giê-rô-bô-am tự nghĩ: "Không khéo nước lại rơi về tay nhà Đa-vít mất.
27 Chừng nào dân chúng còn đi lên Giê-ru-sa-lem dâng lễ vật cho Chúa Hằng Hữu trong Đền Thờ, họ sẽ trở lòng theo chủ cũ, quay lại giết ta để phục vụ Rô-bô-am vua Giu-đa."
28 Sau khi tham khảo ý kiến với các cố vấn, vua quyết định làm hai tượng bò con bằng vàng. Vua nói với dân chúng: "Đồng bào phải đi Giê-ru-sa-lem thật xa xôi vất vả. Bây giờ có thần của Y-sơ-ra-ên đây, là thần đã đem đồng bào ra khỏi Ai Cập."
29 Vua đặt một tượng ở Bê-tên, một ở Đan.
30 Vua làm cho dân chúng phạm tội, vì họ thờ các tượng ấy.
31 Vua còn xây đền miếu trên các ngọn đồi, bổ nhiệm thầy tế lễ trong hàng thường dân chứ không chọn người Lê-vi.
32,33 Giê-rô-bô-am tự ý chọn ngày rằm tháng tám làm ngày lễ, như lễ tổ chức tại Giu-đa. Vào dịp này, vua dâng sinh tế trên bàn thờ và dâng hương cho tượng bò con mình làm ở Bê-tên. Vua cũng bổ nhiệm các thầy tế lễ phụ trách các miếu trên đồi.
1 Khi Giê-rô-bô-am đang đứng dâng hương trước bàn thờ, thì có một người của Thượng Đế vâng lời Chúa Hằng Hữu từ Giu-đa đến Bê-tên.
2 Người này vâng lệnh của Chúa và quở trách bàn thờ: "Bàn thờ! Bàn thờ! Nghe đây, lời Chúa Hằng Hữu phán: 'Một con trai sinh trong dòng Đa-vít tên là Giô-si-a, là người sẽ thiêu trên mày các thầy tế lễ của các đền miếu trên đồi cao, và đốt trên mày hài cốt của người chết.' "
3 Cùng lúc đó, người của Thượng Đế loan báo: "Đây là dấu hiệu Chúa Hằng Hữu làm: Bàn thờ sẽ bể ra, tro trên bàn thờ sẽ đổ xuống."
4 Khi nghe lời người của Thượng Đế tuyên bố nghịch với bàn thờ ở Bê-tên, vua Giê-rô-bô-am liền đưa tay (từ phía bàn thờ) và truyền lệnh: "Bắt nó đi!" Nhưng cánh tay đang đưa ra của vua liền khô cứng, không co lại được.
5 Ngay lúc đó, bàn thờ bể ra, tro trên bàn thờ đổ xuống, đúng như lời người của Thượng Đế đã vâng theo lời Chúa Hằng Hữu báo.
6 Thấy vậy, nhà vua lên tiếng, nói với người của Thượng Đế: "Xin ông thưa với Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế của ông, cầu nguyện cho tôi và xin cho cánh tay tôi có thể co lại như cũ." Người của Thượng Đế liền cầu nguyện với Chúa Hằng Hữu, và vua co tay lại được như cũ.
7 Vua liền nói: "Mời ông về cùng tôi để nghỉ ngơi cho lại sức, và tôi sẽ tặng ông một món quà."
8 Người của Thượng Đế đáp: "Dù bệ hạ có cho tôi phân nửa tài sản, tôi cũng không thể về với bệ hạ, và cũng không ăn bánh hay uống nước tại chỗ này.
9 Vì Chúa Hằng Hữu có bảo tôi: "Con không được ăn bánh uống nước, và cũng không được theo con đường đã đến Bê-tên mà trở về."
10 Vậy, người của Thượng Đế theo một con đường khác, chứ không đi trở lại con đường đã dẫn ông đến Bê-tên.
11 Lúc đó có một tiên tri già đang sinh sống ở Bê-tên. Con trai ông về thuật lại cho ông những việc người của Thượng Đế đã làm tại Bê-tên và các lời người đã nói với vua.
12 Tiên tri già hỏi các con trai mình: "Người đó đâu? Đi đường nào?" Mấy người con liền chỉ cho cha con đường người của Thượng Đế đi,
13 Tiên tri già bảo con: "Thắng lừa cho cha." Họ thắng lừa và ông liền lên cỡi.
14 Tiên tri già đuổi theo người của Thượng Đế, thấy người đang ngồi nghỉ dưới gốc cây sồi, nên lên tiếng hỏi: "Ông có phải là người của Thượng Đế từ Giu-đa đến không?" Người đáp: "Phải, tôi đây."
15 Tiên tri già tiếp: "Mời ông về nhà dùng bữa với tôi."
16 Người của Thượng Đế từ chối: "Tôi không thể trở về với ông, cũng không vào nhà ông hay ăn bánh uống nước với ông tại chỗ này,
17 vì có lời của Chúa Hằng Hữu phán với tôi rằng: 'Con sẽ sẽ không ăn bánh uống nước ở đó, cũng không theo con đường con đi đến Bê-tên để trở về.' "
18 Người kia nói: "Tôi cũng là tiên tri như ông. Có một thiên sứ đã vâng lệnh Chúa Hằng Hữu bảo tôi rằng: 'Đem người ấy về nhà, để người ấy ăn bánh uống nước.' " Nhưng ông này nói dối.
19 Nghe vậy, người của Thượng Đế về nhà với tiên tri già và ăn bánh uống nước trong nhà ông này.
20 Khi họ đang ngồi ăn, có lời của Chúa Hằng Hữu phán với tiên tri già.
21 Ông này la lên, và nói với người của Thượng Đế ở Giu-đa rằng: "Chúa Hằng Hữu phán: 'Vì ngươi kháng cự lời của Chúa Hằng Hữu và không vâng theo mệnh lệnh Chúa truyền cho ngươi,
22 mà trở lại ăn bánh uống nước tại chỗ này, là nơi Chúa cấm ngươi không được ăn uống, nên xác ngươi sẽ không được chôn trong mộ địa của ông cha ngươi.' "
23 Sau khi ăn uống xong, tiên tri già thắng lừa và mời tiên tri ở Giu-đa lên cỡi.
24 Trên đường về, người này gặp một con sử tử, và bị sư tử giết chết. Xác người này nằm bên đường; con lừa đứng một bên, và sư tử cũng đứng bên xác chết.
25 Có mấy người đi qua đó, thấy xác chết trên đường, và sư tử đứng kề bên, nên vào thành tiên tri già ở và thuật lại điều họ thấy.
26 Nghe tin này, tiên tri già, là người đã thuyết phục người của Thượng Đế trở lại, liền nói: "Đó là người của Thượng Đế mà đã phản nghịch lời Chúa Hằng Hữu, nên Chúa sai sư tử xé xác, đúng như lời Ngài đã phán."
27 Rồi ông bảo các con trai thắng lừa và họ liền vâng lời.
28 Tiên tri già ra đi, thấy xác chết và thấy sư tử đứng một bên. Sư tử chẳng những không ăn thịt người chết mà cũng không giết con lừa.
29 Ông liền ôm xác người của Thượng Đế, đặt lên lưng lừa đem về nhà.
30 Khi đã vào thành, ông chôn xác người của Thượng Đế trong ngôi mộ đã chuẩn bị cho mình và than khóc: "Than ôi! Anh ơi!"
31 Sau đó, ông căn dặn các con trai: "Khi cha qua đời, các con đem chôn cha vào ngôi mộ cha vừa chôn người của Thượng Đế, đặt cha bên cạnh xác người ấy,
32 vì lời người ấy đã loan báo theo lệnh của Chúa Hằng Hữu về đền thờ ở Bê-tên và về các đền miếu trong các thành phố xứ Sa-ma-ri chắc chắn sẽ ứng nghiệm."
33 Mặc dù đã nghe lời Chúa Hằng Hữu cảnh cáo, Giê-rô-bô-am vẫn không lìa bỏ con đường tà ác. Nhưng vua lại lo tuyển mộ từ trong đám thường dân những thầy tế lễ cho các đền miếu trên đồi cao. Ai muốn làm thầy tế lễ đều được vua tấn phong để phục vụ tại các đền miếu đó.
34 Chính tội ác này khiến vương quốc của Giê-rô-bô-am cùng cả gia đình ông bị tiêu diệt.
1 Khi thấy con trai mình là A-bi-gia bệnh nặng,
2 Giê-rô-bô-am nói với vợ: "Bà hóa trang để không ai biết là vợ tôi, rồi đi Si-lô gặp tiên tri A-hi-gia, là người báo trước việc tôi làm vua;
3 cũng nhớ mang theo mười ổ bánh, mấy cái bánh ngọt và một lọ mật ong. Khi gặp tiên tri, ông sẽ cho biết con ta có khỏi không."
4 Bà vâng lời, đi đến nhà A-hi-gia tại Si-lô. Lúc ấy, A-hi-gia đã già lắm, đôi mắt mù lòa.
5 Chúa bảo A-hi-gia: "Có vợ của Giê-rô-bô-am đến kia. Bà muốn hỏi thăm về tình trạng đứa con đang ốm." Chúa bảo ông những điều phải nói với bà, và cho ông biết bà đã hóa trang làm một người khác.
6 Nghe tiếng chân bước qua cửa, A-hi-gia nói vọng ra: "Vợ Giê-rô-bô-am đó à, mời bà vào. Tại sao bà phải giả dạng? Đây, tôi có hung tín cho bà.
7 Bà về nói với Giê-rô-bô-am: Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên phán như sau: 'Từ một thường dân, ngươi được Ta cất nhắc làm vua Y-sơ-ra-ên.
8 Ta đã tước quyền trị nước khỏi tay nhà Đa-vít, đem giao cho ngươi. Nhưng ngươi không được như Đa-vít, tôi tớ Ta, người đã tuân lệnh Ta, theo Ta hết lòng, làm điều công chính trước mặt Ta.
9 Còn ngươi lại làm điều ác hơn cả các tiền bối ngươi, tạo cho mình thần khác, đúc tượng để thờ, chọc giận Ta, chối bỏ Ta.
10 Vì thế, Ta sẽ giáng tai họa trên nhà ngươi, giết hết đàn ông trong nhà, kể cả nô lệ. Ta sẽ quét sạch người nhà Giê-rô-bô-am như người ta quét phân cho sạch chuồng.
11 Trong số người nhà Giê-rô-bô-am, ai chết trong thành sẽ bị chó ăn, ai chết ngoài đồng bị chim ăn.' Đó là lời Chúa.
12 Bây giờ, bà đứng lên về nhà đi. Khi bà bước vào thành, con bà sẽ chết.
13 Y-sơ-ra-ên sẽ than khóc và chôn cất nó. Nó là người duy nhất trong nhà Giê-rô-bô-am được mồ êm mả đẹp, vì Chúa thấy nó có được vài điều Ngài vừa ý.
14 Chúa sẽ cất nhắc một người lên làm vua Y-sơ-ra-ên, người này sẽ tiêu diệt nhà Giê-rô-bô-am.
15 Từ nay, Chúa sẽ đày đọa Y-sơ-ra-ên như cây sậy bị sóng vỗ dập dồi, bị nhổ gốc khỏi đất lành Ngài đã cho tổ tiên họ, bị rải tản mác bên kia Phát-giang, vì họ đi thờ thần tượng và chọc giận Chúa.
16 Ngài sẽ từ bỏ Y-sơ-ra-ên, vì Giê-rô-bô-am phạm tội và lôi kéo Y-sơ-ra-ên tòng phạm."
17 Vợ Giê-rô-bô-am đứng lên đi về Tiệt-sa. Khi bà bước qua ngưỡng cửa nhà, thì đứa con chết.
18 Y-sơ-ra-ên chôn cất và khóc thương nó, đúng như lời Chúa dùng tiên tri A-hi-gia tôi tớ Ngài báo trước.
19 Mọi công việc khác của Giê-rô-bô-am (các cuộc chiến tranh và công cuộc trị dân) đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
20 Sau khi làm vua được hai mươi hai năm, Giê-rô-bô-am an nghỉ với tổ tiên. Con trai vua là Na-đáp lên ngôi kế vị.
21 Trong khi ấy, Rô-bô-am con Sa-lô-môn làm vua Giu-đa. Rô-bô-am được bốn mươi mốt tuổi lúc lên ngôi, và cai trị mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, thành phố được Chúa chọn trong khắp nước Y-sơ-ra-ên làm nơi Ngài ngự. Mẹ Rô-bô-am là Na-a-ma người Am-môn.
22 Người Giu-đa làm điều ác trước mặt Chúa, chọc giận Ngài còn hơn tổ tiên họ đã làm trước kia.
23 Họ cất miếu thờ trên đồi cao, lập trụ thờ, dựng tượng Át-tạt-tê trên các ngọn đồi và dưới các tàng cây xanh.
24 Trong xứ còn có cả nạn tình dục đồng giới. Họ làm những điều bỉ ổi chẳng khác gì thổ dân trước kia đã bị Chúa đuổi đi cho người Y-sơ-ra-ên chiếm xứ.
25 Vào năm thứ năm đời vua Rô-bô-am, Si-sắc vua Ai Cập tấn công Giê-ru-sa-lem,
26 vơ vét kho tàng của Đền Thờ và của cung vua đem về Ai Cập, kể cả các khiên vàng Sa-lô-môn đã làm.
27 Vua Rô-bô-am làm những khiên đồng để thay thế, rồi giao khiên cho các sĩ quan của đội ngự lâm canh gác cung vua.
28 Mỗi khi vua lên Đền Thờ Chúa, lính cận vệ mang khiên vào. Sau đó, họ đem trả khiên về đồn gác.
29 Tất cả các công việc khác của Rô-bô-am đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
30 Chiến tranh giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am xảy ra liên tục.
31 Rô-bô-am an nghỉ với tổ tiên, được chôn trong thành Đa-vít. (Mẹ vua là Na-a-ma, người Am-môn.) A-bi-giam, con trai vua lên ngôi kế vị.
1 Năm thứ mười tám đời vua Giê-rô-bô-am (con Nê-bát), A-bi-giam lên làm vua Giu-đa,
2 và cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người là Ma-a-ca con gái A-bi-sa-lôm.
3 Vua theo đường tội lỗi của cha mình, không hết lòng trung thành với Thượng Đế Hằng Hữu như Đa-vít, tổ tiên mình.
4 Nhưng vì Đa-vít, Thượng Đế Hằng Hữu cho con cháu ông tiếp tục làm vua, như một ngọn đèn thắp ở Giê-ru-sa-lem trong thời gian thành này còn tồn tại.
5 (Đa-vít đã làm điều lương thiện trước mặt Chúa, suốt đời vâng theo lệnh Ngài, trừ ra vụ U-ri người Hết mà thôi.)
6 Trong thời A-bi-giam, chiến tranh giữa Giu-đa và Y-sơ-ra-ên vẫn tiếp diễn.
7 Các công việc khác của A-bi-giam đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
8 A-bi-giam an nghỉ cùng tổ tiên mình, được chôn trong thành Đa-vít. A-sa con trai vua lên ngôi kế vị.
9 Vào năm thứ hai mươi đời Giê-rô-bô-am vua Y-sơ-ra-ên, A-sa lên ngôi làm vua Giu-đa,
10 và cai trị bốn mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Bà nội vua là Ma-a-ca con gái A-bi-sa-lôm.
11 A-sa làm điều lương thiện trước mặt Chúa, như Đa-vít tổ tiên đã làm.
12 Vua đuổi bọn nam mãi dâm (tình dục đồng giới) ra khỏi xứ, phá bỏ các thần tượng do vua cha để lại.
13 Vua cũng cách chức thái hậu Ma-a-ca, vì bà lập tượng thần Át-tạt-tê. Tượng này bị A-sa chặt xuống và đem thiêu tại suối Kít-rôn.
14 Mặc dù miếu thờ trên các đồi cao không bị phá dỡ, nhưng trọn đời A-sa vẫn một lòng trung thành với Chúa.
15 Vua đem vào Đền Thờ Chúa những dụng cụ bằng bạc và vàng của cha mình và của chính mình hiến dâng cho Ngài.
16 A-sa chinh chiến với Ba-ê-sa vua Y-sơ-ra-ên trọn đời.
17 Ba-ê-sa kéo quân đến vây thành Ra-ma, chặn đường giao thông của Giu-đa.
18 Thấy thế, A-sa lấy hết vàng bạc còn lại trong kho Đền Thờ Chúa và kho hoàng gia, giao cho sứ thần đem sang Đa-mách tặng Bên-ha-đát vua Sy-ri, với những lời sau:
19 "Chúng ta nên liên minh với nhau như cha chúng ta đã làm. Tôi gửi theo đây một số vàng để tặng vua. Xin vua hủy hiệp ước liên minh với Ba-ê-sa vua Y-sơ-ra-ên, để Ba-ê-sa rút khỏi đất tôi."
20 Bên-ha-đát đồng ý, sai các tướng kéo quân đi đánh Y-sơ-ra-ên, tấn công các thành Y-sơ-ra-ên là Đan, A-bên Bết Ma-ca, cả vùng Ki-nê-rốt và đất Nép-ta-li.
21 Nghe tin bị tấn công, Ba-ê-sa liền bỏ dở việc xây Ra-ma, rút về Tiệt-sa.
22 A-sa kêu gọi toàn dân Giu-đa đến tháo gỡ gỗ và đá của Ba-ê-sa đang xây thành Ra-ma còn dang dở, đem xây thành Ghê-ba trong đất Bên-gia-min và thành Mích-ba.
23 Các công việc khác của A-sa, quyền lực vua, và các thành vua xây đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa. Lúc già, vua bị đau chân.
24 A-sa an nghỉ với tổ tiên và được chôn với họ trong thành Đa-vít. Giô-sa-phát con vua lên ngôi kế vị.
25 Na-đáp con trai Giê-rô-bô-am lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ hai đời A-sa vua Giu-đa, và trị vì được hai năm.
26 Na-đáp làm điều ác trước mặt Chúa, theo gót cha mình phạm tội và lôi kéo Y-sơ-ra-ên tòng phạm.
27 Ba-ê-sa con A-hi-gia người thuộc đại tộc Y-sa-ca mưu phản, giết Na-đáp trong khi đang cầm quân vây thành Ghi-bê (thôn của người Phi-li-tin.
28 Việc xảy ra vào năm thứ ba đời A-sa vua Giu-đa. Và Ba-ê-sa lên ngôi làm vua.
29 Vừa lên nắm quyền, Ba-ê-sa giết sạch người nhà Giê-rô-bô-am, không tha một mạng, đúng như lời Chúa dùng tôi tớ Ngài là A-hi-gia người Si-lô báo trước.
30 Lý do vì Giê-rô-bô-am phạm tội và lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội, chọc giận Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên.
31 Các công việc khác của Na-đáp đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
32 Chiến tranh giữa Giu-đa và Y-sơ-ra-ên xảy ra liên tục trong đời A-sa và Ba-ê-sa.
33 Ba-ê-sa con A-hi-gia làm vua Y-sơ-ra-ên tại Tiệt-sa hai mươi bốn năm, bắt đầu từ năm thứ ba đời A-sa vua Giu-đa.
34 Vua làm điều ác trước mặt Chúa, theo gót Giê-rô-bô-am, phạm tội và lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội.
1 Chúa Hằng Hữu có lời khiển trách Ba-ê-sa, và lời này được phán qua Giê-hu con Ha-na-ni:
2 "Ta đã cất nhắc ngươi từ trong đất bụi, cho ngươi lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng ngươi theo gót Giê-rô-bô-am, lôi kéo dân Y-sơ-ra-ên Ta phạm tội, chọc giận Ta,
3 nên Ta sẽ tận diệt ngươi và cả gia đình ngươi. Nhà ngươi sẽ như nhà Giê-rô-bô-am con Nê-bát;
4 ai chết trong thành sẽ bị chó ăn, ai chết ngoài đồng bị chim ăn."
5 Các công việc khác của Ba-ê-sa, quyền lực vua, đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
6 Ba-ê-sa an nghỉ với các tổ tiên, được chôn trong thành Tiệt-sa. Ê-la con trai vua lên kế vị.
7 Như vậy, Chúa dùng tiên tri Giê-hu con Ha-ne-ni khiển trách Ba-ê-sa và gia đình, không những vì các điều ác vua làm, vì vua chọc giận Chúa, nhưng cũng vì vua theo gót nhà Giê-rô-bô-am phạm tội, mặc dù chính tay vua đã tiêu diệt nhà Giê-rô-bô-am.
8 Vào năm thứ hai mươi sáu đời A-sa, Ê-la con Ba-ê-sa lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên và làm vua hai năm tại Tiệt-sa.
9 Trong số bầy tôi vua, có Xim-ri (tướng chỉ huy phân nửa số chiến xa quân đội Y-sơ-ra-ên) mưu phản. Một hôm, Ê-la đến nhà ạt-sa (quản đốc hoàng cung tại Tiệt-sa) uống rượu say sưa.
10 Xim-ri bước vào đánh Ê-la ngã xuống, giết chết và cướp ngôi. Việc này xảy ra vào năm thứ hai mươi bảy đời A-sa vua Giu-đa.
11 Vừa lên ngôi, Xim-ri giết hết nhà Ba-ê-sa, không sót một người đàn ông, cùng những người họ hàng và quen biết với gia đình này.
12 Như vậy, Xim-ri tiêu diệt nhà Ba-ê-sa, đúng như lời Chúa dùng tiên tri Giê-hu phán trước,
13 vì tội của Ba-ê-sa và của Ê-la con vua, và vì họ lôi kéo Y-sơ-ra-ên vào đường cúng thờ thần tượng, chọc giận Chúa.
14 Các công việc khác của Ê-la đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
15 Xim-ri lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ hai mươi bảy đời A-sa vua Giu-đa, và làm vua bảy ngày tại Tiệt-sa. Lúc ấy, quân đội Y-sơ-ra-ên đang tấn công thành Ghi-bê-thôn của người Phi-li-tin.
16 Nghe tin Xim-ri phản loạn, ám sát vua, toàn thể quân sĩ trong trại hôm ấy tôn Ôm-ri, là tư lệnh quân đội, lên làm vua Y-sơ-ra-ên.
17 Ôm-ri bỏ Ghi-bê-thôn, kéo quân về vây Tiệt-sa.
18 Khi Xim-ri thấy kinh thành bị chiếm, liền chạy vào hoàng thành, phóng hỏa hoàng cung rồi chết thiêu trong ấy.
19 Xim-ri nhận lấy hậu quả vì làm điều ác trước mặt Chúa, theo gót Giê-rô-bô-am phạm tội và lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội theo.
20 Các công việc khác của Xim-ri, việc phản loạn của vua đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
21 Nhưng, bấy giờ dân chúng Y-sơ-ra-ên chia làm hai nhóm, phân nửa theo Ôm-ri, phân nửa theo Típ-ni con Ghi-nát.
22 Phe Ôm-ri thắng. Típ-ni chết, còn Ôm-ri làm vua.
23 Ôm-ri bắt đầu làm vua vào năm thứ ba mươi mốt đời A-sa vua Giu-đa, và làm vua mười hai năm, sáu năm đầu tại Tiệt-sa.
24 Sau đó vua mua ngọn đồi của Sê-ma với giá tám lượng vàng và xây trên ấy một thành, đặt tên là Sa-ma-ri, theo tên chủ đất.
25 Ôm-ri làm điều ác trước mặt Chúa, còn hơn cả những vua trước.
26 Vua theo gót Giê-rô-bô-am con Nê-bát phạm tội và lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội; vua thờ hình tượng, chọc giận Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên.
27 Các công việc khác của Ôm-ri và quyền lực của vua đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
28 Ôm-ri an giấc với tổ tiên mình, được chôn tại Sa-ma-ri. Con vua là A-háp lên kế vị.
29 A-háp lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ ba mươi tám đời A-sa vua Giu-đa, và làm vua hai mươi hai năm tại Sa-ma-ri.
30 A-háp làm điều ác trước mặt Chúa, còn hơn cả những vua trước.
31 Cho rằng việc theo gót Giê-rô-bô-am phạm tội vẫn còn chưa đủ, nên A-háp đi cưới Giê-sa-bên, con gái Ết-ba-anh vua Si-đôn làm vợ, và đi phụng sự, thờ lạy thần Ba-anh.
32 Vua cất miếu và bàn thờ cho Ba-anh tại Sa-ma-ri,
33 rồi dựng tượng Át-tạt-tê. Vậy, vua chọc giận Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên hơn cả các vua Y-sơ-ra-ên trước.
34 Vào đời A-háp, Hi-ên người Bê-tên xây lại thành Giê-ri-cô. Khi ông đặt nền, con trưởng là A-bi-ra chết; lúc dựng cổng, con út là Sê-gúp chết, đúng như lời Chúa dùng Giô-suê con của Nun đã báo trước.
1 Ê-li (người Tích-bê thuộc Ga-la-át) nói với A-háp: "Tôi đứng trước mặt của Thượng Đế Hằng Sống của Y-sơ-ra-ên, quả quyết rằng trong những năm sắp tới sẽ không có sương cũng không có mưa, cho đến khi tôi tuyên bố lại."
2 Chúa Hằng Hữu bảo Ê-li:
3 "Con đi về hướng đông, ẩn mình tại suối Kê-rít, phía đông sông Giô-đan.
4 Tại đó, con sẽ uống nước suối, còn thức ăn, Ta sẽ bảo đàn quạ đem đến."
5 Ê-li vâng lời Chúa, đi trú bên suối Kê-rít, về phía đông sông Giô-đan.
6 Quạ mang bánh và thịt cho ông mỗi buổi sáng và buổi chiều. Khi khát, ông uống nước suối.
7 Nhưng một thời gian sau, con suối cạn khô, vì trong xứ không có mưa.
8 Chúa lại bảo Ê-li:
9 "Đi đến Sa-rép-ta thuộc Si-đôn và cư ngụ tại đó. Ta có sai một phụ nữ cung cấp thực phẩm cho con."
10 Vậy, Ê-li đi Sa-rép-ta. Khi tới cổng thành này, ông thấy một góa phụ đang nhặt củi, liền nói: "Chị ơi, chị múc ít nước trong bình cho tôi uống với."
11 Khi người ấy đi múc nước, ông lại nói: "Cho tôi xin một miếng bánh nữa."
12 Người đàn bà đáp: "Tôi thề trước Thượng Đế Hằng Hữu của ông rằng tôi không có bánh, chỉ còn lại vỏn vẹn một nắm bột trong bình và một chút dầu trong lọ. Bây giờ, tôi đi nhặt mấy cành củi đem về nấu nướng cho hai mẹ con tôi ăn, và sau đó chỉ còn chờ chết."
13 Ê-li bảo bà: "Đừng lo. Bà cứ về nấu ăn đi; nhưng trước tiên, làm một cái bánh nhỏ đem ra đây cho tôi, và sau đó sẽ làm bánh cho bà và con trai bà.
14 Vì Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên phán: 'Bình bột sẽ không hết, hũ dầu sẽ không cạn cho đến ngày Chúa cho mưa rơi xuống đất.' "
15 Người ấy làm theo lời Ê-li dạy. Và qua nhiều ngày, Ê-li cùng mẹ con bà vẫn có ăn;
16 bình bột không hết, hũ dầu không cạn, đúng như lời Chúa dùng Ê-li phán trước.
17 Một hôm, đứa con trai của góa phụ lâm bệnh trầm trọng và tắt thở.
18 Bà hỏi Ê-li: "Người của Thượng Đế ơi! Sao ông hại tôi? Ông đến để bới tội tôi rồi giết con tôi phải không?"
19 Ông bảo: "Đưa nó đây cho tôi." Và ông bế đứa nhỏ từ tay mẹ nó, đem nó lên gác chỗ ông ở, và đặt nó lên giường mình.
20 Ông kêu với Chúa: "Thượng Đế Hằng Hữu của tôi! Sao Chúa giáng họa trên nhà tôi trọ, mà giết con của bà góa này?"
21 Ông nằm dài trên mình đứa bé ba lần, rồi kêu xin Chúa: "Lạy Thượng Đế Hằng Hữu của tôi! Xin cho hồn đứa bé trở lại với nó."
22 Chúa nghe lời Ê-li cầu xin, cho đứa bé sống lại.
23 Ê-li bế nó xuống nhà, giao cho mẹ nó và nói: "Nó sống rồi đây này, bà thấy không?"
24 Bà nói với Ê-li: "Bây giờ tôi nhận ra rằng ông thật là người của Thượng Đế, và là lời của Chúa phán qua miệng ông là chân thật."
1 Ba năm sau, Chúa Hằng Hữu bảo Ê-li: "Con đi gặp A-háp và bảo rằng Ta sẽ cho mưa trở lại."
2 Ê-li vâng lời đi gặp A-háp. Lúc ấy, nạn đói đang hoành hành khắp xứ Sa-ma-ri.
3,4 Ngày nọ, A-háp gọi viên quản lý hoàng gia là Ô-ba-đia đến. (Ô-ba-đia là người hết lòng kính sợ Chúa. Khi Giê-sa-bên giết các tiên tri của Chúa, Ô-ba-đia đem một trăm tiên tri giấu trong hai hang đá, mỗi hang năm muơi người, và đem bánh và nước nuôi họ.)
5,6 Vua A-háp bảo Ô-ba-đia: "Chúng ta chia nhau đi khắp nơi, đến các suối, các khe, tìm xem nơi nào có cỏ, may ra có thể cứu được một số ngựa và la khỏi chết." Vậy họ lên đường, mỗi người đi một hướng.
7 Trên đường, Ô-ba-đia gặp Ê-li. Khi nhận ra Ê-li, ông sấp mình dưới đất, hỏi: "Có đúng ông là Ê-li đó không?"
8 Ê-li đáp: "Vâng tôi là Ê-li. Ông hãy đi báo với vua A-háp là tôi đang ở đây."
9 Ô-ba-đia thắc mắc: "Tôi có tội gì mà ông cho A-háp giết tôi?
10 Tôi thề trước mặt Thượng Đế rằng A-háp đã sai người đi lùng ông khắp nơi. Khi dân một địa phương nào nói: 'Ê-li không có ở đây,' A-háp buộc họ phải thề rằng khắp địa phương ấy không ai gặp ông.
11 Bây giờ ông bảo tôi đi báo với A-háp rằng ông đang ở đây.
12 Nếu tôi bỏ đây ra đi và Thần Linh của Chúa đem ông đi nơi nào chẳng biết, và khi A-háp đến đây không tìm thấy ông, vua sẽ giết tôi, mặc dù tôi vẫn một lòng tôn kính Chúa ngay từ thời thơ ấu.
13 Ông không biết việc tôi làm khi Giê-sa-bên giết các tiên tri của Chúa sao? Tôi đem một trăm vị giấu trong hai hang đá, đem bánh và nước nuôi họ.
14 Thế mà, bây giờ ông bảo tôi đi nói với A-háp rằng Ê-li ở đây; thế nào tôi cũng bị giết."
15 Ê-li đáp: "Tôi đứng trước Chúa Toàn Năng, thề với ông rằng tôi sẽ gặp A-háp hôm nay."
16 Vậy, Ô-ba-đia đi báo cho A-háp, và A-háp đến gặp Ê-li.
17 Khi thấy Ê-li, A-háp hỏi: "Có phải đây là người gây rối loạn cho Y-sơ-ra-ên không?"
18 Ê-li đáp: "Không phải tôi là người gây rối loạn Y-sơ-ra-ên, nhưng chính bệ hạ và nhà cha bệ hạ, vì đã chối bỏ điều răn của Chúa, theo thờ thần Ba-anh.
19 Bây giờ, tôi yêu cầu bệ hạ triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên tại núi Cát-mên, cùng với bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh và bốn trăm tiên tri của Át-tạt-tê là những người ăn chung bàn với Giê-sa-bên."
20 Vậy A-háp triệu tập toàn dân và các tiên tri tại núi Cát-mên.
21 Ê-li đến, trách cứ dân chúng: "Đồng bào còn phân vân giữa ngã ba đường cho đến bao giờ? Nếu Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế, hãy theo Ngài! Nếu Ba-anh là Thượng Đế, cứ theo hắn!" Dân chúng không ai nói gì cả.
22 Ê-li tiếp: "Về phía Chúa, chỉ có tôi là tiên tri còn lại. Nhưng tiên tri của Ba-anh có đến bốn trăm năm mươi người.
23 Hãy đem đến đây hai con bò để các tiên tri Ba-anh chọn lấy một con, chặt ra từng miếng, chất trên củi, nhưng không được châm lửa. Tôi sẽ làm thịt con kia, chất trên củi và cũng không châm lửa.
24 Họ sẽ cầu thần của họ; còn tôi sẽ cầu Chúa Hằng Hữu. Thần nào trả lời bằng lửa làm cho sinh tế bốc cháy là Chân Thần." Toàn dân đều cho lời Ê-li nói là hợp lý.
25 Ê-li bảo các tiên tri của Ba-anh: "Các ông chọn lấy một con bò, làm thịt trước đi vì bên các ông đông. Nhớ cầu thần mình nhưng đừng châm lửa vào củi."
26 Họ làm thịt con bò, rồi từ sáng đến trưa khấn vái Ba-anh: "Lạy Ba-anh, xin đáp lời chúng tôi!" Nhưng chẳng có tiếng đáp. Họ bắt đầu nhảy chung quanh bàn thờ mới dựng.
27 Đến trưa, Ê-li chế giễu: "Chắc các ông phải la lớn hơn. Vì là thần, có lẽ Ba-anh đang ngẫm nghĩ chuyện, hoặc bận việc, hoặc đi đường xa, có khi đang ngủ cũng nên."
28 Họ kêu thật lớn, lấy gươm giáo rạch mình cho đến khi máu đổ ra như họ thường làm.
29 Họ nói lảm nhảm suốt buổi trưa cho đến giờ dâng sinh tế buổi chiều. Nhưng chẳng có tiếng nói, không ai trả lời; tuyệt nhiên không một thần nào lưu ý.
30 Lúc ấy, Ê-li nói với dân chúng: "Xin đồng bào lại đây!" Họ đến gần ông. Ông sửa lại bàn thờ của Chúa đã bị phá hủy,
31 lấy mười hai viên đá theo số mười hai đại tộc của các con Gia-cốp, là người được Chúa đổi tên thành Y-sơ-ra-ên,
32 xây dựng một bàn thờ cho Chúa. Chung quanh bàn thờ, ông đào một cái mương rộng có thể chứa được hai đấu hạt giống.
33 Ông chất củi lên bàn thờ, chặt con bò ra từng miếng, đem sắp trên củi, rồi nói: "Múc đầy bốn bình nước, đem tưới lên sinh lễ và củi."
34 Khi người ta làm xong, ông bảo họ làm như thế lần thứ hai. Ông lại bảo làm lần thứ ba. Họ vâng lời.
35 Nước từ bàn thờ chảy ra ngập cả mương.
36 Đến giờ dâng sinh tế buổi chiều, tiên tri Ê-li đến bên bàn thờ, cầu nguyện: "Lạy Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên, hôm nay xin chứng minh cho mọi người biết Chúa là Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, cho họ biết con là đầy tớ Ngài và con làm những việc này theo lệnh Chúa.
37 Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đáp lời con. Ngài đáp lời con để dân này biết Chúa Hằng Hữu là Chân Thần và Chúa dẫn họ trở về với Ngài."
38 Chúa cho lửa rơi xuống thiêu hóa sinh tế, củi, đá, bụi và đốt cạn nước trong mương.
39 Dân chúng thấy thế,
đồng loạt quỳ mọp xuống đất, tung hô: "Chúa Hằng Hữu là Chân Thần! Chúa Hằng Hữu là Chân Thần!"
40 Ê-li ra lệnh: "Bắt hết các tiên tri Ba-anh, đừng để sót một người!" Dân chúng vâng lời, bắt họ. Ê-li đem họ xuống suối Ki-sôn và giết tất cả.
41 Ê-li nói với A-háp: "Nhà vua lo ăn mừng đi! Vì tôi nghe trời đang chuyển mưa."
42 A-háp mở tiệc ăn mừng. Còn Ê-li leo lên đỉnh núi Cát-mên, gập mình dưới đất, cúi đầu giữa hai gối.
43 Ông bảo người đầy tớ: "Đi nhìn về hướng biển xem." Người ấy vâng lời, đi nhìn rồi thưa: "Con chẳng thấy gì cả." Ông bảo: "Cứ tiếp tục đi bảy lần như thế."
44 Lần thứ bảy người đầy tớ nói: "Có một cụm mây nhỏ bằng bàn tay hiện ra từ biển lên." Ê-li bảo: "Đi bảo A-háp lên xe chạy xuống núi ngay, nếu không sẽ bị mưa cầm chân."
45 Trong khoảnh khắc, bầu trời bị mây phủ đen kịt. Gió kéo mưa lớn đến. A-háp vội vàng lên xe về Gít-rê-ên.
46 Lúc đó Chúa cho Ê-li có sức đặc biệt chạy bộ trước xe A-háp cho đến thành Gít-rê-ên.
1 Khi vua A-háp thuật cho hoàng hậu Giê-sa-bên nghe các việc Ê-li đã làm, kể cả việc Ê-li chém chết các tiên tri Ba-anh,
2 Giê-sa-bên sai người tới nói với Ê-li: "Ta thề trước các thần thánh, vào giờ này ngày mai ta sẽ giết ngươi, như ngươi đã giết các tiên tri."
3 Ê-li sợ, nên tìm cách chạy trốn. Đến Bê-e-sê-ba thuộc Giu-đa, ông để người đầy tớ ở lại,
4 rồi theo đường sa mạc, đi suốt ngày. Ông đến ngồi dưới một cây tùng cối, cầu cho được chết: "Lạy Chúa Hằng Hữu, đủ rồi, xin cất mạng con đi, vì con chẳng khá gì hơn cha ông con cả!"
5 Rồi ông nằm xuống ngủ dưới cây tùng cối. Một thiên sứ đụng vào người ông, bảo ông dậy và ăn.
6 Ông mở mắt, thấy có một cái bánh nướng trên đá nóng và một bình nước đặt cạnh đầu mình. Ông dậy ăn uống rồi lại nằm xuống.
7 Thiên sứ của Chúa lại đến, đụng vào người ông một lần nữa, bảo: "Dậy ăn thêm đi để lấy sức vì đường còn xa lắm."
8 Ông ngồi dậy ăn uống, nhờ vậy ông có đủ sức đi bốn mươi ngày đêm đến Hô-rếp, là núi của Thượng Đế.
9 Đến nơi, ông trú trong một hang đá. Tại đó Chúa hỏi ông: "Con làm gì ở đây, Ê-li?"
10 Ông thưa: "Con vẫn giữ lòng nhiệt thành với Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế Toàn Năng, mặc dù dân chúng Y-sơ-ra-ên đã phạm giao ước của Chúa, phá dỡ bàn thờ, chém giết các tiên tri của Ngài. Bây giờ chỉ có một mình con còn lại, và họ đang truy nã để giết con."
11 Chúa bảo ông: "Con đi ra, đứng trên núi trước mặt Ta." Chúa đi qua, có một ngọn gió mạnh xé núi ra, đá vụn bắn tung tóe, nhưng không có Chúa trong ngọn gió. Sau ngọn gió, có một trận động đất, nhưng không có Chúa trong trận động đất.
12 Sau trận động đất, có một đám lửa bùng cháy, nhưng không có Chúa trong đám lửa. Sau đám lửa, có một tiếng nói êm dịu nhẹ nhàng.
13 Khi nghe tiếng ấy, Ê-li lấy chiếc áo choàng phủ kín mặt rồi đi ra đứng tại cửa hang. Có tiếng hỏi: "Con làm gì ở đây, Ê-li?"
14 Ông thưa: "Con vẫn giữ lòng nhiệt thành với Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế Toàn Năng, mặc dù dân chúng Y-sơ-ra-ên đã vi phạm giao ước với Chúa, phá dỡ bàn thờ, chém giết các tiên tri của Ngài. Bây giờ chỉ có một mình con còn lại, và họ đang truy nã để giết con."
15 Chúa bảo ông: "Con trở lại con đường sa mạc, đi Đa-mách. Đến nơi, con sẽ xức dầu tấn phong Ha-xa-ên làm vua Sy-ri,
16 xức dầu tấn phong Giê-hu (con Nim-si) làm vua Y-sơ-ra-ên và xức dầu cho Ê-li-sê (con Sa-phát ở A-bên Mê-hô-la) làm tiên tri thay con.
17 Ai thoát khỏi kiếm của Ha-xa-ên sẽ bị Giê-hu giết; ai thoát khỏi kiếm của Giê-hu sẽ bị Ê-li-sê giết.
18 Tuy nhiên, trong Y-sơ-ra-ên vẫn còn bảy ngàn người không hề quì gối trước Ba-anh và môi họ không hề hôn nó."
19 Vậy, Ê-li lên đường, thấy Ê-li-sê, con Sa-phát, đang cày ruộng. Có mười hai cặp bò đang kéo cày và Ê-li-sê cày cặp thứ mười hai. Ê-li đi qua, ném áo choàng mình trên Ê-li-sê,
20 Ê-li-sê bỏ bò, chạy theo Ê-li, nói: "Xin cho tôi về từ giã cha mẹ tôi đã, rồi tôi sẽ theo ông." Ê-li bảo: "Cứ đi về rồi trở lại đây! Ta có làm gì đâu?"
21 Khi trở lại Ê-li-sê bắt đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi nấu nướng, mời mọi người ăn tiệc. Ăn xong, ông đi theo phụ tá Ê-li.
1 Bên-ha-đát vua Sy-ri động viên quân lực, liên kết với ba mươi hai vua khác, đem theo vô số chiến xa và kỵ mã, đi vây đánh Sa-ma-ri.
2,3 Vua Bên-ha-đát sai sứ vào thành nói với A-háp vua Y-sơ-ra-ên như sau: "Vàng bạc của vua nay thuộc về ta; vợ đẹp con xinh hơn hết của vua cũng thuộc về ta."
4 A-háp đáp: "Vua chúa tôi ơi! Đúng thế. Tôi và những gì của tôi đều thuộc về vua cả."
5 Bên-ha-đát lại sai sứ đến nói: "Ngoài vàng, bạc, vợ đẹp con xinh như ta đã nói,
6 ngày mai vào giờ này, ta sẽ sai người đến xét cung vua và nhà dân, họ sẽ lấy bất kỳ vật gì họ thích."
7 Vua Y-sơ-ra-ên triệu tập các trưởng lão trong nước lại, nói: "Quí vị xem, người này thật tình muốn gây rối. Người ấy đã đòi vợ con, vàng bạc của tôi, tôi có từ chối gì đâu?"
8 Các trưởng lão và mọi người ở đó đồng tình đáp: "Xin bệ hạ đừng nhượng bộ."
9 Nghe thế, A-háp nói với sứ Bên-ha-đát: "Tâu với vua chúa tôi rằng tất cả những điều vua đòi hỏi lần trước, tôi xin làm theo; còn về điều sau này, tôi không làm được." Sứ trở về phúc trình cho Bên-ha-đát.
10 Bên-ha-đát lại sai sứ nói với A-háp: "Xin các thần trừng phạt ta, nếu ta không nghiền nát Sa-ma-ri thành bụi đất."
11 A-háp đáp: "Vua không nên khoác lác khi việc chưa thành."
12 Bên-ha-đát đang uống rượu với các vua trong trại, vừa nghe được những lời này, liền ra lệnh chuẩn bị tấn công.
13 Lúc ấy, có một tiên tri đến gặp A-háp, nói: "Chúa Hằng Hữu phán: Ngươi có thấy đạo quân đông đảo ấy không? Hôm nay Ta sẽ nạp nó vào tay ngươi để ngươi biết Ta là Chúa Hằng Hữu."
14 A-háp hỏi: "Dùng ai để chiến đấu?" Tiên tri đáp: "Chúa bảo dùng tôi tớ các quan đầu tỉnh." A-háp lại hỏi: "Ai cầm quân?" Tiên tri đáp: "Bệ hạ chỉ huy."
15 A-háp động viên thuộc hạ của các quan đầu tỉnh, chỉ được hai trăm ba mươi hai người. Đi sau các người này có bảy ngàn quân động viên trong toàn dân Y-sơ-ra-ên.
16 Giữa trưa, khi Bên-ha-đát và ba mươi hai vua đang uống rượu say mèm trong trại, Y-sơ-ra-ên kéo quân ra;
17 Tôi tớ của các quan đầu tỉnh đi trước. Đội thám báo của Bên-ha-đát thấy được, báo cáo: "Có người từ Sa-ma-ri kéo ra."
18 Bên-ha-đát ra lệnh: "Bắt sống tất cả cho ta, dù chúng nó đầu hàng hay chống cự cũng bắt hết."
19 Vừa lúc ấy quân Y-sơ-ra-ên kéo đến, quân sĩ theo sau tôi tớ các quan đầu tỉnh,
20 ai nấy thẳng tay chém giết địch quân. Quân Sy-ri bỏ chạy và quân Y-sơ-ra-ên đuổi theo. Vua Bên-ha-đát lên ngựa chạy thoát với một đám kỵ binh.
21 Vua Y-sơ-ra-ên kéo quân tiêu diệt rất nhiều chiến xa và chiến mã cùng vô số địch quân.
22 Tiên tri đến gần A-háp, nói: ôVua phải chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc tấn công lần thứ hai của địch quân, vì mùa xuân sang năm vua Sy-ri lại kéo quân đến."
23 Các thuộc hạ của vua Sy-ri bàn kế với chủ: "Sở dĩ Y-sơ-ra-ên thắng trận vì thần của họ là thần núi. Nếu đánh họ dưới đồng bằng ta sẽ thắng.
24 Lần này ta sẽ dùng các tướng thay thế các vua;
25 và tuyển mộ một đạo quân như đạo quân bệ hạ đã mất, số chiến xa và kỵ mã cũng bằng lần trước. Chỉ có điều lần này ta sẽ đánh họ trong đồng bằng, chắc chắn ta sẽ thắng." Vua Sy-ri làm theo lời họ bàn.
26 Mùa xuân năm sau, Bên-ha-đát động viên quân lực, kéo đến tấn công Y-sơ-ra-ên tại A-phéc.
27 Y-sơ-ra-ên cũng tập họp quân sĩ, chuẩn bị lương thực và kéo ra nghênh chiến. Quân Y-sơ-ra-ên đóng quân đối diện với địch, nom giống như hai đàn dê nhỏ trước đạo quân Sy-ri đông như kiến cỏ.
28 Người của Thượng Đế đến, truyền cho Y-sơ-ra-ên lời Chúa: "Vì người Sy-ri nói Chúa Hằng Hữu là thần núi chứ không phải thần thung lũng, nên Ta sẽ nạp đạo quân đông đảo này vào tay ngươi để ngươi biết Ta là Chúa."
29 Hai bên đóng quân đối nhau như vậy trong bảy ngày, và đến ngày thứ bảy, trận chiến khởi sự. Trong một ngày, quân Y-sơ-ra-ên giết một trăm ngàn bộ binh của địch.
30 Tàn quân Sy-ri chạy vào thành A-phéc, nhưng tường thành đổ xuống, đè bẹp hai mươi bảy ngàn người. Bên-ha-đát cũng chạy vào thành, trốn trong phòng kín của một ngôi nhà.
31 Các thuộc hạ tâu: "Nghe nói các vua Y-sơ-ra-ên vốn nhân từ, vì vậy, xin cho chúng tôi thắt bao bố vào lưng, quấn dây thừng trên đầu, ra xin vua Y-sơ-ra-ên tha cho bệ hạ."
32 Rồi họ thắt bao bố, quấn dây thừng đi đến tâu với vua Y-sơ-ra-ên: "Đầy tớ bệ hạ là Bên-ha-đát cầu xin bệ hạ tha mạng cho!" A-háp hỏi: "Người còn sống không? Người là anh em ta."
33 Các thuộc hạ nắm lấy các lời ấy (vì họ đang chăm chú quan sát phản ứng của A-háp) vội vàng đáp: "Bên-ha-đát đúng là em vua." A-háp bảo: "Đem người đến đây." Khi Bên-ha-đát đến, A-háp mời lên ngồi xe với mình.
34 Bên-ha-đát thương lượng: "Tôi xin hoàn trả các thành cha tôi đã chiếm của cha vua. Ngoài ra, vua được quyền thiết lập các cơ sở thương mại tại Đa-mách, như cha tôi đã thiết lập tại Sa-ma-ri." A-háp đáp: "Ta chấp thuận các đề nghị này và bằng lòng tha vua." Thế rồi họ kết ước với nhau và Bên-ha-đát được tha về.
35 Lúc đó trong số các tiên tri, có một người vâng lệnh Chúa Hằng Hữu nói với bạn mình: "Anh đánh tôi đi!" Người kia không chịu đánh.
36 Tiên tri nói với bạn: "Vì không nghe lời Chúa, anh sẽ bị sư tử giết ngay sau khi anh rời tôi." Vừa lúc người bạn rời tiên tri, một con sư tử vồ người ấy chết.
37 Tiên tri nói với người khác: "Xin anh đánh tôi đi!" Người này đánh tiên tri bị thương.
38 Tiên tri lấy vải che mặt, giả dạng, đứng bên đường chờ vua đi qua.
39 Khi vua đi qua, tiên tri nói lớn tiếng cho vua nghe: "Lúc tôi ở trong chiến trận, có một người lính giao cho tôi giữ một tù binh và dặn: 'Giữ người này. Nếu để cho nó chạy thoát, anh phải đền mạng hay thường năm lượng vàng.
40 Nhưng tôi bận công việc, để tên tù chạy mất." Vua Y-sơ-ra-ên nói: "Chính anh đã tuyên án cho mình!"
41 Tiên tri vội kéo vải che mặt xuống. Vua Y-sơ-ra ên nhận ra đó là một trong các tiên tri.
42 Tiên tri nói tiếp: "Chúa Hằng Hữu phán: 'Vì ngươi tha một kẻ Ta định cho chết, nên mạng ngươi phải đền mạng nó, dân ngươi chịu số phận dân nó.' "
43 Vua Y-sơ-ra-ên về Sa-ma-ri, vừa phiền vừa giận.
1 Na-bốt, người Gít-rê-ên, có một vườn nho tại thành Gít-rê-rê-ên gần cung điện vua A-háp.
2 Một hôm, A-háp đề nghị với Na-bốt: "Nhường cho ta vườn nho ấy để ta làm vườn rau đi, vì nó ở ngay bên cung ta. Ta sẽ đổi cho ngươi một vườn nho tốt hơn; hoặc, nếu ngươi muốn ta sẽ trả tiền cho."
3 Nhưng Na-bốt đáp: "Luật Chúa Hằng Hữu không cho tôi nhường cho bệ hạ di sản của cha ông để lại."
4 A-háp về cung, lòng phiền giận lắm. Vua nằm quay mặt vào tường, không chịu ăn.
5 Hoàng hậu Giê-sa-bên vào, hỏi A-háp: "Tại sao bệ hạ buồn phiền và không chịu ăn?"
6 A-háp đáp: "Vì ta có bảo Na-bốt bán hoặc đổi vườn nho cho ta, nhưng nó không chịu."
7 Giê-sa-bên hỏi: "Không phải bệ hạ đang cầm quyền cả nước Y-sơ-ra-ên sao? Dậy, ăn uống và vui vẻ lên! Tôi sẽ lấy vườn nho của Na-bốt cho bệ hạ."
8 Giê-sa-bên nhân danh vua Y-sơ-ra-ên viết một bức thư, rồi lấy con dấu của A-háp đóng lên, gửi cho chính quyềna thành Gít-rê-ên, nơi Na-bốt đang cư ngụ.
9 Trong thư bà bảo họ: "Truyền cho dân chúng trong thành dự lễ kiêng ăn, cầu nguyện và đặt Na-bốt lên ngồi hàng đầu.
10 Khi đó hãy cho hai đứa vô lại đứng ra làm chứng, buộc Na-bốt vào tội nguyền rủa Thượng Đế và đức vua, rồi mang ra ném đá cho chết."
11 Các nhà cầm quyền ở Gít-rê-ên thi hành lệnh Giê-sa-bên.
12 Họ thông báo cho dân đến dự lễ kiêng ăn cầu nguyện, đặt Na-bốt lên ngồi hàng đầu.
13 Hai đứa vô lại đến ngồi đối diện Na-bốt vu cáo ông trước công chúng: "Na-bốt nguyền rủa Thượng Đế và đức vua." Sau lời buộc tội, người ta lôi Na-bốt ra ngoài thành và ném đá ông chết.
14 Các nhà cầm quyền thành ấy sai báo cáo cho Giê-sa-bên: "Na-bốt bị ném đá chết rồi."
15 Được tin Na-bốt đã chết, Giê-sa-bên nói với A-háp: "Vườn nho của Na-bốt bệ hạ vẫn mong muốn, nay thuộc về bệ hạ, vì Na-bốt đã chết rồi. Dậy, đi chiếm vườn nó đi."
16 A-háp ngồi dậy, đi xuống chiếm vườn nho của Na-bốt.
17 Bấy giờ, Chúa Hằng Hữu phán bảo Ê-li người Tích-bê:
18 "Con đi Sa-ma-ri gặp A-háp vua Y-sơ-ra-ên, hiện đang ở trong vườn nho nó vừa chiếm đoạt của Na-bốt,
19 và bảo A-háp: "Chúa phán: 'Vì ngươi đã giết người lại còn cướp của, nên chó sẽ liếm máu ngươi tại chính nơi chúng đã liếm máu Na-bốt.' "
20 A-háp kinh ngạc: "Kẻ thù ta ơi! ngươi đã bắt gặp ta sao?" Ê-li đáp: "Phải, tôi đã bắt gặp bệ hạ, vì bệ hạ đã cả gan làm việc ác dưới mắt Chúa.
21 Ngài sẽ giáng tai họa trên bệ hạ, quét sạch dòng họ bệ hạ, không chừa cho bệ hạ một người đàn ông sống sót trong Y-sơ-ra-ên, dù là con trai của kẻ nô lệ trong nhà vua.
22 Vì bệ hạ đã chọc giận Chúa và xúi cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, Chúa sẽ làm cho gia đình bệ hạ giống như gia đình của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, và gia đình Ba-ê-sa con A-hi-gia.
23 Về phần Giê-sa-bên, Chúa báo trước rằng: 'Chó sẽ cắn xé thây Giê-sa-bên trong thành Gít-rê-ên.'
24 Trong dòng họ A-háp, ai chết trong thành sẽ bị chó xé xác; ai chết ngoài đồng, bị chim rỉa thây."
25 Không ai dám làm điều ác trước mắt Chúa như A-háp, vì bị vợ là Giê-sa-bên xúi giục.
26 Việc ác đáng tởm của A-háp là thờ thần tượng giống như người A-mo (dân đã bị Chúa đuổi khỏi xứ, lấy đất cho Y-sơ-ra-ên ở).
27 Nghe xong những lời ấy, A-háp liền xé áo, mặc bao bố, kiêng ăn, đắp bao bố khi ngủ, tỏ vẻ hạ mình khiêm tốn.
28 Chúa phán bảo Ê-li:
29 "Con có thấy A-háp tỏ vẻ khiêm ti trước mặt Ta không? Vì thế, Ta không giáng họa trong đời nó; nhưng đến đời con nó, Ta sẽ tiêu diệt dòng họ này."
1 Suốt ba năm giữa Y-sơ-ra-ên và vua Sy-ri không có chiến tranh.
2 Nhưng vào năm thứ ba, trong dịp Giô-sa-phát vua Giu-đa đến thăm,
3 vua Y-sơ-ra-ên nói khích quần thần: "Các ngươi có biết Ra-mốt Ga-la-át là đất Y-sơ-ra-ên không? Thế mà ta cứ lặng lẽ chịu nhục để cho Sy-ri chiếm đóng."
4 Vua Y-sơ-ra-ên quay sang hỏi Giô-sa-phát: "Vua có sẵn lòng cùng tôi đánh Ra-mốt Ga-la-át không?" Giô-sa-phát đáp: "Tôi sẵn sàng đi với vua, dân tôi và ngựa tôi sẵn sàng cho vua huy động.
5 Nhưng trước tiên, ta nên cầu hỏi ý Chúa."
6 Vua Y-sơ-ra-ên gọi chừng bốn trăm tiên tri đến, hỏi: "Ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không?" Họ tâu: "Nên, Chúa sẽ giao nạp thành ấy cho bệ hạ."
7 Nhưng Giô-sa-phát hỏi: "ễ đây không có tiên tri nào của Chúa Hằng Hữu để ta cầu hỏi sao?
8 Vua Y-sơ-ra-ên đáp: "Có một người tên là Mai-ca con Giêm-la. Nhưng tôi ghét tiên tri ấy, vì không bao giờ người báo điều lành cho tôi, mà chỉ báo toàn điều dữ." Giô-sa-phát nói: "Xin vua đừng nói thế."
9 Vua Y-sơ-ra-ên gọi một viên chức bảo: "Mời Mai-ca đến đây, nhanh lên!"
10 Trong khi ấy, các tiên tri kia cứ tiếp tục nói tiên tri trước mặt hai vua. Lúc ấy hai vua đang mặc cẩm bào, ngồi trên hai chiếc ngai đặt tại sân đập lúa gần cổng thành Sa-ma-ri.
11 Tiên tri Sê-đê-kia con Kê-na-na làm những sừng bằng sắt rồi nói: "Chúa phán: 'Với các sừng này, ngươi sẽ báng người Sy-ri cho đến khi tiêu diệt họ.'"
12 Các tiên tri khác cũng hùa theo: "Đi đánh Ra-mốt Ga-la-át, bệ hạ sẽ thắng, vì Chúa sẽ giao thành ấy cho bệ hạ."
13 Khi tìm gặp Mai-ca, sứ giả dặn trước: "Các tiên tri khác đều nói điều thuận lợi cho vua. Xin ông cũng theo họ mà nói."
14 Nhưng Mai-ca đáp: "Ta thề trước Chúa Hằng Hữu, ta chỉ nói những lời Ngài bảo ta thôi."
15 Khi Mai-ca đến, vua hỏi: "Chúng ta có nên đánh Ra-mốt Ga-la-át không?" Ông đáp: "Bệ hạ sẽ thắng, vì Chúa Hằng Hữu sẽ giao thành ấy cho bệ hạ."
16 Vua dè dặt: "Đã bao lần ta phải năn nỉ ngươi chỉ nhân Danh Chúa nói những lời chân thật mà thôi."
17 Mai-ca nói: "Tôi thấy người Y-sơ-ra-ên tản mát trên núi như cừu không người chăn. Và Chúa phán: 'Họ không có vua, hãy cho họ về nhà bình an.' "
18 Vua Y-sơ-ra-ên phân trần với Giô-sa-phát: "Tôi đã nói với vua là người này chẳng bao giờ tiên đoán điều lành cho tôi, mà chỉ nói toàn điều dữ thôi."
19 Mai-ca tiếp: "Xin lắng tai nghe lời Chúa. Tôi thấy Chúa ngồi trên ngai. Đạo thiên binh vây chung quanh Ngài.
20 Chúa hỏi: 'Ai sẽ dụ A-háp đi Ra-mốt Ga-la-át cho nó chết tại đó?' Có mấy ý kiến được đưa lên.
21 Cuối cùng một thần đến đứng trước ngai, thưa: 'Tôi xin đi.'
22 Chúa hỏi: 'Dùng cách gì?' Thần ấy thưa: 'Tôi sẽ làm thần nói dối ở trong miệng các tiên tri của A-háp.' Chúa bảo: 'Được. Ngươi sẽ dụ được nó. Đi làm như ngươi đã nói.'
23 Thế là, Chúa đã đặt thần nói dối trong miệng các tiên tri này vì Ngài định tâm giáng họa trên vua."
24 Sê-đê-kia con Kê-na-na bước đến tát vào mặt Mai-ca, hỏi: "Thần của Chúa rời bỏ ta khi nào để đi nói với ngươi?"
25 Mai-ca đáp: "Ngày nào ông phải trốn chui trốn nhủi trong phòng kín, ngày ấy ông sẽ biết."
26 Vua Y-sơ-ra-ên ra lệnh: "Bắt Mai-ca, đem giao cho thị trưởng A-môn và hoàng tử Giô-ách,
27 và dặn họ: Vua bảo bỏ tù người này, cho ăn uống tối thiểu cho đến ngày vua trở về bình an."
28 Mai-ca nói: "Nếu vua trở về bình an thì Chúa Hằng Hữu đâu có phán với tôi?" Rồi ông nói vói mọi người: "Xin nhớ lấy những lời tôi đã nói."
29 Thế rồi, vua Y-sơ-ra-ên và vua Giu-đa kéo quân đi đánh Ra-mốt Ga-la-át.
30 A-háp lập mưu gài Giô-sa-phát: "Lúc ra trận, để tôi cải trang, còn vua cứ mặc vương bào." Và như thế, trên chiến trường vua Y-sơ-ra-ên giả dạng làm một người lính.
31 Vua Sy-ri có ra lệnh cho ba muơi hai sĩ quan chỉ huy chiến xa: "Đừng đánh ai cả, chỉ tìm đánh giết vua Y-sơ-ra-ên mà thôi."
32 Khi các sĩ quan chỉ huy chiến xa thấy Giô-sa-phát đang mặc vương bào, liền bảo nhau: "Đó đúng là vua Y-sơ-ra-ên rồi," và xông vào tấn công. Giô-sa-phát la lên.
33 Lúc ấy, họ mới nhận ra đó không phải là vua Y-sơ-ra-ên, nên thôi không tấn công Giô-sa-phát nữa.
34 Nhưng, có một người lính tình cờ giương cung bắn, mũi tên trúng ngay đường nối của áo giáp vua A-háp đang mặc. Vua bảo người đánh xe: "Quay lại, đem ta ra khỏi trận địa! Ta bị thương nặng."
35 Vì chiến trận càng lúc càng khốc liệt, nên vua A-háp phải gắng gượng chống người đứng trong xe, tiếp tục chống cự với quân Sy-ri. Đến chiều hôm ấy, vua A-háp chết. Máu từ vết thương chảy ướt sàn xe.
36,37 Lúc mặt trời lặn, có tiếng loan báo trong hàng quân: "Xong rồi, ai về nhà nấy, vua đã băng hà."
Xác vua được đem về Sa-ma-ri an táng.
38 Khi xe vua được đem đi rửa tại ao Sa-ma-ri là nơi gái mãi dâm thường tắm, có chó đến liếm máu A-háp đúng như lời Chúa đã phán.
39 Các công trình A-háp thực hiện, cũng như cung điện bằng ngà và các thành vua xây, đều được ghi trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
40 A-háp qua đời và A-cha-xia con vua lên ngôi kế vị.
41 Giô-sa-phát con A-sa lên ngôi làm vua Giu-đa vào năm thứ tư đời A-háp vua Y-sơ-ra-ên.
42 Lúc ấy, Giô-sa-phát được ba mươi lăm tuổi và cai trị hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-xu-ba con Si-chi.
43 Giô-sa-phát đi theo đường của A-sa cha mình, hết lòng làm điều lương thiện trước mắt Chúa. Tuy nhiên, các miếu thờ trên đồi vẫn chưa được phá dỡ, và tại đó, người ta vẫn còn dâng lễ vật và đốt hương cho các thần tượng.
44 Giô-sa-phát thiết lập bang giao với vua Y-sơ-ra-ên.
45 Những công trình của Giô-sa-phát, cùng thế lực vua, các cuộc chiến vua tham dự đều được ghi lại trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
46 Vua quét sạch khỏi xứ bọn nam mãi dâm (tình dục đồng giới) còn sót lại từ đời vua A-sa.
47 (Lúc ấy nước Ê-đôm không có vua, chỉ có quan phụ chánh).
48 Giô-sa-phát có đóng một đoàn tàu để đi Ô-phia lấy vàng, nhưng không thành công vì tàu bị đắm ở Ê-xi-ôn Ghê-be.
49 A-cha-xia con A-háp có đề nghị với Giô-sa-phát cho các đầy tớ mình vượt biển cùng các thủy thủ của vua Giu-đa, nhưng Giô-sa-phát từ chối.
50 Giô-sa-phát an nghỉ với tổ tiên và được chôn trong thành Đa-vít tổ tiên mình. Giô-ram con vua lên kế vị.
51 Năm thứ mười bảy đời Giô-sa-phát vua Giu-đa, A-cha-xia con A-háp lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên và cai trị hai năm tại Sa-ma-ri.
52 Vua làm điều ác trước mặt Chúa, theo đường của cha mẹ mình và đường của Giê-rô-bô-am là người đã xui cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.
53 A-cha-xia phụng sự và thờ lạy thần Ba-anh, chọc giận Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, như vua cha đã làm.