1 Sau khi vua A-háp qua đời, người Mô-áp nổi dậy chống Y-sơ-ra-ên giành độc lập.
2 Một ngày nọ tại kinh đô Sa-ma-ri, vua A-cha-xia ngã từ thang gác xuống, thương tích trầm trọng. Vua sai sứ đi cầu thần Ba-anh Xê-bụt ở Éc-rôn xem thử mình có khỏi bệnh không.
3 Lúc ấy, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu bảo tiên tri Ê-li người Tích-bê đi đón các sứ của vua Sa-ma-ri và bảo họ: "Y-sơ-ra-ên không có Thượng Đế hay sao mà lại phải đi cầu Ba-anh Xê-bụt ở Éc-rôn?
4 Bởi thế, Chúa Hằng Hữu phán: 'A-cha-xia phải nằm liệt giường cho đến chết.' " Ê-li vâng lời ra đi.
5 Nghe xong những lời của Ê-li, các sứ quay về. Vua hỏi: "Tại sao trở về?"
6 Họ đáp: "Có một người đón đường chúng tôi, bảo trở về tâu với bệ hạ như sau: 'Chúa Hằng Hữu phán: Y-sơ-ra-ên không có Thượng Đế hay sao, mà phải đi cầu Ba-anh Xê-bụt ở Éc-rôn? Bởi thế ngươi sẽ không rời giường bệnh, nhưng phải chết.' "
7 Vua hỏi: "Người đón các ngươi trông như thế nào?"
8 Họ đáp: "Người ấy mặc áo xù lông, thắt lưng bằng giây da." Vua nói: "Đó là Ê-li, người Tích-bê."
9 Vua sai một viên quan dẫn năm mươi lính đi bắt Ê-li. Lúc ấy ông đang ngồi trên một đỉnh đồi. Viên quan gọi: "Thưa người của Thượng Đế! Vua bảo ông đi xuống."
10 Nhưng Ê-li đáp: "Nếu tôi là người của Thượng Đế, thì lửa trời sẽ thiêu đốt ông và lính của ông." Thế là có lửa từ trời rơi xuống thiêu họ.
11 Vua lại sai một viên quan dẫn năm mươi người lính khác đến. Viên quan nói: "Thưa người của Thượng Đế! Vua ra lệnh bảo ông xuống ngay."
12 Ê-li đáp: "Nếu tôi là người của Thượng Đế, thì lửa trời sẽ thiêu đốt ông và lính của ông." Lửa của Thượng Đế từ trời xuống thiêu họ luôn.
13 Vua lại sai một viên quan thứ ba với năm mươi lính khác đi. Đến nơi, viên quan quỳ xuống trước Ê-li, khẩn khoản: "Thưa người của Thượng Đế! Xin ông tha mạng tôi và mạng của năm mươi người đầy tớ ông đây.
14 Lửa từ trời đã thiêu hai toán trước; nhưng bây giờ, xin tha mạng chúng tôi."
15 Thiên sứ của Chúa Hằng Hữu nói với Ê-li: "Xuống với người ấy đi, đừng sợ." Ông xuống, đi với viên quan đến gặp vua.
16 Ê-li nói với A-cha-xia: "Chúa Hằng Hữu phán: 'Vì ngươi sai sứ đi cầu thần Ba-anh Xê-bụt ở Éc-rôn (Y-sơ-ra-ên không có Thượng Đế để cầu hỏi sao?) nên ngươi sẽ không rời khỏi giường bệnh, nhưng phải chết.' "
17 Vậy, A-cha-xia chết, đúng theo lời Chúa Hằng Hữu dùng Ê-li tuyên phán. Vì A-cha-xia không có con trai, nên em vua là Giô-ram lên ngôi kế vị vào năm thứ hai đời Giô-ram con Giô-sa-phát vua Giu-đa.
18 Các việc khác của A-cha-xia đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
1 Đã đến lúc Chúa Hằng Hữu đem Ê-li lên trời trong một trận gió lốc, Ê-li bảo Ê-li-sê khi sắp rời Ghinh-ganh:
2 "Con ở lại đây, vì Chúa Hằng Hữu bảo thầy đi Bê-tên." Nhưng Ê-li-sê đáp: "Con thề với Chúa Hằng Hữu và với thầy rằng con sẽ không rời thầy." Vậy, hai thầy trò đi Bê-tên.
3 Môn đệ các tiên tri ở Bê-tên đi đón họ và nói với Ê-li-sê: "Anh có biết hôm nay Chúa Hằng Hữu sẽ đem thầy anh lên trời không?" Ê-li-sê đáp: "Tôi biết chứ! Không cần các anh nói."
4 Ê-li lại bảo Ê-li-sê: "Con ở lại đây, vì Chúa bảo thầy đi Giê-ri-cô." Ê-li-sê cương quyết: "Con không rời thầy. Con thề với Chúa và với thầy như thế." Và như vậy, hai thầy trò cùng đi Giê-ri-cô.
5 Môn đệ các tiên tri ở Giê-ri-cô ra đón, nói với Ê-li-sê: "Hôm nay là ngày Chúa đem thầy anh lên trời, anh biết đó chứ?" Ê-li-sê đáp: "Tôi biết chứ. Các anh không cần nói."
6 Ê-li nói với Ê-li-sê lần thứ ba: "Con ở lại đây, vì Chúa bảo thầy đến sông Giô-đan." Ê-li-sê vẫn khăng khăng: "Con không rời thầy. Con thề với Chúa và với thầy như thế." Vậy, hai thầy trò tiếp tục đi.
7 Họ đến đứng bên bờ sông Giô-đan. Có năm mươi người trong số các môn đệ của các tiên tri đi theo, đến đứng cách hai người một quãng.
8 Ê-li lấy chiếc áo choàng cuộn lại, cầm áo đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên. Hai người đi qua trên đất khô.
9 Qua bờ bên kia, Ê-li nói với Ê-li-sê: "Con muốn xin thầy điều gì trước khi thầy được đem đi?" Ê-li-sê thưa: "Xin cho con được gấp đôi Thần của thầy."
10 Ê-li nói: "Con xin một việc khó. Nhưng nếu con thấy ta lúc ta được cất lên, thì con sẽ toại nguyện; nếu không, việc sẽ không thành."
11 Trong lúc hai người vừa đi vừa nói chuyện, đột nhiên có một chiếc xe bằng lửa do một đoàn ngựa cũng bằng lửa kéo, phân rẽ hai người ra hai bên, và một cơn gió lốc đem Ê-li lên trời.
12 Thấy cảnh tượng ấy, Ê-li-sê la lớn lên: "Cha ơi! Cha ơi! Xe và kỵ binh của Y-sơ-ra-ên!" Đến lúc không còn thấy bóng thầy nữa, Ê-li-sê nắm áo mình, xé ra từng mảnh.
13,14 Ông nhặt chiếc áo choàng của Ê-li rơi xuống, quay về bờ sông Giô-đan, vừa cầm áo đập xuống nước, vừa kêu lên: "Chúa Hằng Hữu Thần của Ê-li ở đâu?" Nước sông rẽ ra hai bên và Ê-li-sê đi qua.
15 Nhóm môn đệ các tiên tri ở lại Giê-ri-cô, bên kia sông, thấy thế bảo nhau: "Thần của Ê-li đã ở lại với Ê-li-sê." Họ đi ra đón Ê-li-sê, cung kính cúi chào,
16 và nói: "Các tôi tớ thầy có năm mươi người lực lưỡng tại đây. Nếu thầy muốn, chúng tôi sẽ sai họ đi tìm chủ thầy. Biết đâu Thần Linh của Chúa đem chủ thầy lên, rồi đặt xuống trên một ngọn núi, hoặc tại một thung lũng nào chăng?" Ê-li-sê đáp: "Đừng bảo họ đi."
17 Nhưng họ cứ ép nài, đến độ ông khó xử, phải nói: "Thì bảo họ đi đi!" Năm mươi người đi tìm suốt ba ngày nhưng chẳng thấy Ê-li đâu cả.
18 Họ trở về khi Ê-li-sê vẫn còn ở Giê-ri-cô. Ông nói: "Tôi đã bảo đừng đi mà!"
19 Bây giờ dân thành Giê-ri-cô đến trình bày với Ê-li-sê: "Như thầy thấy đó, thành này ở vào một vị trí rất tốt; chỉ tiếc vì nước độc, đất không sinh sản hoa mầu."
20 Ông bảo: "Đem cho tôi một cái bát mới đựng đầy muối." Người ta vâng lời.
21 Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống suối và nói: "Chúa phán: 'Ta cho nước này hóa lành, từ nay nước sẽ không gây chết chóc nhưng sẽ làm cho đất sinh sản hoa mầu.' "
22 Và từ đó đến nay, nước hóa lành như lời Ê-li-sê đã nói.
23 Rời Giê-ri-cô, Ê-li-sê đi Bê-tên. Dọc đường có đám thiếu niên trong thành kéo ra chế giễu ông: "Lên đi, lão sói đầu ơi! Lên đi, lão sói đầu ơi!"
24 Ông quay lại nhìn, rồi nhân Danh Chúa nguyền rủa chúng nó. Có hai con gấu cái trong rừng ra, xé xác bốn mươi hai đứa trong bọn ấy.
25 Ông tiếp tục đi đến núi Cát-mên, rồi quay lại Sa-ma-ri.
1 Giô-ram con A-háp lên làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ mười tám đời Giô-sa-phát vua Giu-đa, và cai trị mười hai năm tại Sa-ma-ri.
2 Vua làm điều ác trước mặt Chúa, nhưng có điểm khá hơn cha mẹ mình là vua dẹp trụ thờ Ba-anh do vua cha dựng lên.
3 Tuy nhiên, Giô-ram không từ bỏ tội Giê-rô-bô-am (con Nê-bát) đã phạm, là tội lôi kéo nhân dân phạm tội.
4 Lúc ấy, Mê-sa vua Mô-áp nuôi rất nhiều cừu. Hằng năm vua nạp cống cho vua Y-sơ-ra-ên một trăm ngàn con cừu và lông của một trăm ngàn cừu đực.
5 Nhưng từ ngày A-háp mất, vua Mô-áp nổi lên chống lại Y-sơ-ra-ên.
6 Vua Y-sơ-ra-ên từ Sa-ma-ri đi khắp nơi trong nước chiêu mộ quân sĩ.
7 Đồng thời, vua sai sứ hỏi Giô-sa-phát vua Giu-đa: "Vua Mô-áp phản loạn. Vua sẵn lòng cùng tôi đi đánh Mô-áp không?" Vua Giu-đa đáp: "Vâng, tôi đi ra trận với vua. Dân tôi và ngựa tôi sẵn sàng cho vua điều động.
8 Ta sẽ tiến quân theo lối nào?" Giô-ram đáp: "Lối sa mạc Ê-đôm."
9 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên và vua Giu-đa, có cả vua Ê-đôm theo, kéo quân đi vòng trong sa mạc bảy ngày. Trong cuộc hành quân, họ thiếu nước cho người và thú vật uống.
10 Vua Y-sơ-ra-ên than: "Chúa gọi ba chúng ta đến đây để nạp cho người Mô-áp rồi!"
11 Giô-sa-phát hỏi: "ở đây không có tiên tri nào của Chúa cho chúng ta cầu hỏi Ngài sao?" Một tôi tớ của vua Y-sơ-ra-ên lên tiếng: "Có Ê-li-sê con Sa-phát là môn đệ của Ê-li trước kia."
12 Giô-sa-phát nói: "Người ấy sẽ nói lời của Chúa cho chúng ta." Vậy, cả ba vua đi đến gặp Ê-li-sê.
13 Ê-li-sê nói với vua Y-sơ-ra-ên: "Bệ hạ đến đây làm gì? Sao không đi tìm các tiên tri của cha mẹ bệ hạ?" Vua Y-sơ-ra-ên đáp: "Không. Vì Chúa có gọi chúng ta đến đây để nạp cho người Mô-áp."
14 Ê-li-sê nói: "Tôi thề trước Chúa Toàn Năng là Đấng tôi hầu việc, nếu không nể Giô-sa-phát vua Giu-đa, tôi chẳng nhìn bệ hạ đâu.
15 Bây giờ, xin đem đến đây một nhạc sĩ." Khi nhạc sĩ tấu nhạc, sứ điệp của Chúa đến với Ê-li-sê.
16 Ông nói: "Chúa bảo đào thật nhiều hào hố trong thung lũng này.
17 Vì Chúa phán: Người ta sẽ không thấy mưa gió, nhưng cả thung lũng sẽ đầy nước cho người và thú vật uống.
18 Việc này đối với Chúa không đáng kể nên Ngài còn làm cho người Mô-áp bại trận nữa.
19 Các vua sẽ chiếm hết các thành kiên cố và phồn thịnh nhất của họ, sẽ đốn ngã cây có trái, chận các dòng nước và lấy đá phá hủy những đồng ruộng phì nhiêu."
20 Sáng hôm sau, vào giờ dâng tế lễ, nước từ hướng Ê-đôm chảy đến, cho đến khi khắp miền ấy ngập cả nước.
21 Khi người Mô-áp nghe tin các vua liên minh kéo quân đánh, liền động viên tất cả những người có thể sử dụng khí giới, kể cả trẻ con và người lớn tuổi. Họ kéo quân ra trấn biên giới.
22,23 Hôm sau, khi mặt trời mọc, quân Mô-áp thức dậy thấy nước phản chiếu ánh dương đỏ rực, tưởng là máu nên bảo nhau: "Chắc các vua ấy đánh giết lẫn nhau rồi. Bây giờ anh em ta chỉ việc đi thu chiến lợi phẩm."
24 Nhưng khi quân Mô-áp đến doanh trại Y-sơ-ra-ên, quân Y-sơ-ra-ên xông ra chém giết. Quân Mô-áp bỏ chạy. Y-sơ-ra-ên đuổi theo đến đất địch
25 phá tan các thành phố, lấy đá lấp các đồng ruộng phì nhiêu, chận các dòng nước, đốn cây có trái. Cuối cùng, chỉ còn vách thành Kiệt-ha-rê-sết trơ trọi, nhưng rồi cũng bị đội quân bắn đá vây quanh triệt hạ.
26 Vua Mô-áp thấy không cự địch nổi, mới đem theo bảy trăm kiếm thủ, định chọc thủng phòng tuyến của vua Ê-đôm để thoát thân, nhưng không thành công.
27 Túng thế, vua Mô-áp bắt thái tử là người sẽ lên ngôi kế vị mình đem lên vách thành tế sống. Quân Y-sơ-ra-ên phải rút về nước vì cơn phẫn nộ của Thượng Đế nổi lên.
1 Có một môn đệ của các tiên tri qua đời. Vợ người ấy đến khóc lóc với Ê-li-sê: "Ông biết chồng tôi là một người kính sợ Chúa. Thế mà, khi anh ấy vừa chết đi, chủ nợ đã đến đòi bắt hai đứa con tôi làm nô lệ để trừ nợ."
2 Ê-li-sê hỏi: "Tôi có thể giúp chị điều gì? Chị có gì trong nhà không?" Người đàn bà đáp: "Tôi chẳng có gì trừ một bình dầu."
3 Ê-li-sê bảo: "Chị đi mượn thật nhiều bình trống không của những người láng giềng,
4 đem về nhà, đóng cửa lại, cùng với các con chị đổ dầu vào các bình không này; bình nào đầy, để riêng ra."
5 Chị ấy vâng lời, cùng hai con vào nhà đóng cửa lại. Các con mang bình đến cho mẹ đổ dầu vào.
6 Khi các bình đều đầy, chị bảo con: "Đem cho mẹ một bình nữa." Đứa con đáp: "Không còn bình nào nữa cả." Dầu liền ngừng chảy.
7 Chị đến trình lại cho người của Thượng Đế. Ê-li-sê nói: "Đem dầu đi bán, trả nợ; số còn thừa lại để chi dùng trong gia đình."
8 Một hôm Ê-li-sê đi Su-nem. Tại đó có một người đàn bà giàu mời ông dùng bữa. Về sau, mỗi lần đi qua nơi ấy, ông ghé lại nhà bà dùng bữa.
9 Bà nói với chồng: "Tôi biết chắc người vẫn thường ghé lại nhà mình là người thánh của Thượng Đế.
10 Ta nên cất một cái phòng nhỏ trên gác rồi để một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cây đèn trong ấy. Phòng này dành riêng cho ông ấy mỗi khi ông ghé lại nhà ta."
11 Hôm nọ, Ê-li-sê đến, nghỉ trong phòng.
12 Ông bảo Ghê-ha-si đầy tớ mình: "Mời bà chủ nhà vào đây." Khi bà vào,
13 ông bảo Ghê-ha-si nói với bà: "Vì bà đã lo lắng sắm sửa cho chúng tôi mọi thứ này, chúng tôi phải làm gì cho bà? Bà muốn tôi nói giùm với vua hoặc với tổng tư lệnh quân đội cho bà điều gì không?" Bà đáp: "Không. Tôi vẫn sống bình thường giữa đồng bào tôi."
14 Sau đó, Ê-li-sê lại hỏi Ghê-ha-si: "Như thế, chúng ta phải làm gì cho bà ấy?" Ghê-ha-si gợi ý: "Bà ta không con mà chồng thì lớn tuổi."
15 Ê-li-sê nói: "Gọi bà vào." Bà vào đứng ở ngưỡng cửa.
16 Tiên tri nói: "Sang năm, vào lúc này bà sẽ có một con trai." Bà kêu lên: "Người của Thượng Đế ơi! Xin đừng dối tôi!"
17 Sau đó, bà mang thai, quãng một năm sau, sinh một cháu trai như lời Ê-li-sê đã nói.
18 Đứa bé lớn lên. Một hôm, khi người cha đang ở ngoài đồng với thợ gặt thì nó đến,
19 nói với cha: "Con đau đầu." Ông bảo người đầy tớ đem về cho mẹ nó.
20 Người đầy tớ đem nó về. Nó ngồi trên gối mẹ cho đến trưa rồi chết.
21 Bà mang nó đặt trên giường của người Thượng Đế, và đi ra, đóng cửa lại.
22 Bà gọi chồng, xin một người đầy tớ và một con lừa để đi ngay đến gặp người của Thượng Đế.
23 Người chồng hỏi: "Hôm nay đâu phải ngày trăng non hay ngày Sa-bát, sao bà đi làm gì?" Bà đáp: "Không sao, để tôi đi."
24 Bà thắng lừa và dặn người đầy tớ: "Đánh lừa đi cho nhanh, lúc nào tôi bảo mới đi chậm lại."
25 Và bà đi tận núi Cát-mên tìm người của Thượng Đế. Thấy bà đằng xa, người của Thượng Đế bảo Ghê-ha-si: "Người đàn bà ở Su-nem đến kia kìa.
26 Chạy ra đón và hỏi bà ấy: "Mọi việc bình thường chứ? Chồng bà có sao không? Con bà thì sao?" Người ấy đáp: "Bình an."
27 Nhưng khi lên núi gặp người của Thượng Đế, bà ôm chặt lấy chân ông. Ghê-ha-si đến định xô bà ra, nhưng người của Thượng Đế nói: "Để mặc bà, vì bà đang khổ tâm điều gì đó. Về điều này, Chúa không cho ta biết." Bà nói:
28 "Tôi đâu có dám cầu xin một con trai? Tôi chẳng bảo ông đừng làm tôi hi vọng quá là gì?"
29 Ê-li-sê quay sang bảo Ghê-ha-si: "Thắt lưng, cầm gậy này đi ngay! Dọc đường, đừng chào hỏi ai cả. Đem gậy đặt lên mặt đứa bé."
30 Bà mẹ nói: "Tôi thề với Chúa Hằng Hữu và với ông, nếu ông không xuống, tôi sẽ không rời khỏi đây." Vậy, Ê-li-sê ra đi sau bà.
31 Ghê-ha-si đi trước, đặt gậy lên trên mặt đứa bé, nhưng chẳng nghe hoặc thấy dấu hiệu gì chứng tỏ nó sống; nên quay lại thưa với Ê-li-sê: "Nó không tỉnh lại."
32 Vào nhà, Ê-li-sê thấy đứa bé nằm chết trên giường.
33 Ông vào phòng, đóng cửa lại, cầu nguyện với Chúa Hằng Hữu.
34 Sau đó, ông nằm sấp trên mình đứa bé, đặt miệng mình trên miệng nó, mắt mình trên mắt nó, tay mình trên tay nó. Khi ông nằm trên mình đứa bé như thế thì người nó ấm dần lại.
35 Ông đứng lên, đi qua đi lại trong phòng một lúc, rồi lại lên nằm trên mình đứa bé như trước. Đứa bé hắt hơi bảy lần và mở mắt ra.
36 Ông bảo Ghê-ha-si mời người mẹ vào. Khi bà vào, ông bảo: "Con bà đó!"
37 Bà sụp xuống đất dưới chân Ê-li-sê, rồi đứng lên bế con đi ra.
38 Ê-li-sê trở lại Ghinh-ganh vào lúc đang có nạn đói. Một hôm, các môn đệ đang ngồi trước mặt, ông bảo người đầy tớ: "Lấy nồi lớn nấu canh cho các môn đồ ăn."
39 Một người đi ra đồng hái rau, gặp cây bí dại, hái trái, bọc đầy vạt áo đem về, cắt ra bỏ vào nồi, chẳng cần biết trái ấy là trái gì.
40 Nấu xong họ múc canh ra, nhưng có người nếm thử, kêu lên: "Thưa người của Thượng Đế, canh này độc chết người!" Và không ai dám ăn nữa.
41 Ê-li-sê nói: "Đem bột lại đây." Ông bỏ bột vào nồi rồi bảo: "Múc ra cho mọi người ăn." Nồi canh không còn độc nữa.
42 Có một người ở Ba-anh Sa-li-sa đem đến biếu người của Thượng Đế một số hoa lợi đầu mùa, gồm hai mươi ổ bánh lúa mạch và một bao bắp tươi. Ê-li-sê bảo: "Đem dọn cho mọi người ăn."
43 Ghê-ha-si hỏi: "Có ngần này đâu đủ cho một trăm người ăn?" Tiên tri lặp lại: "Đem dọn cho mọi người ăn. Vì Chúa Hằng Hữu phán: 'Mọi người sẽ ăn no đủ và còn thừa lại nữa.' "
44 Ghê-ha-si vâng lời, và đúng theo lời Chúa Hằng Hữu đã phán, ai nấy ăn no nê và còn thừa lại.
1 Thượng Đế dùng tướng Na-a-man, là tư lệnh quân đội Sy-ri, để giải cứu dân tộc này. Ông đã lập được nhiều chiến công nên rất được nhà vua quí chuộng. Tuy là một chiến sĩ dũng cảm, nhưng chẳng may Na-a-man lại mắc bệnh phung.
2 Vợ Na-a-man có nuôi một cô bé gái giúp việc người Y-sơ-ra-ên. Cô bé này đã bị quân Sy-ri bắt cóc trong một cuộc đột kích vào đất Y-sơ-ra-ên.
3 Cô nói với bà chủ: "Nếu ông chủ đến gặp vị tiên tri ở Sa-ma-ri, tiên tri sẽ chữa sạch bệnh cho ông liền."
4 Na-a-man đem lời cô nói tâu với vua.
5 Vua Sy-ri bảo: "Thế thì ông nên đi và ta sẽ viết thư cho vua Y-sơ-ra-ên." Vậy, Na-a-man lên đường, mang theo 10 ta-lâng bạc, 6.000 đồng vàng, và mười bộ áo.
6 Ông đến trình vua Y-sơ-ra-ên lá thư của vua Sy-ri, viết như sau: "Người cầm thư này là Na-a-man, cận thần tôi. Xin vua chữa cho người khỏi bệnh phung."
7 Đọc xong thư, vua Y-sơ-ra-ên xé áo, nói: "Ta có phải Thượng Đế đâu để định việc sống chết? Thế mà vua ấy bảo ta chữa cho người phung này! Đúng là chỉ muốn kiếm cớ để gây hấn."
8 Khi Ê-li-sê, người của Thượng Đế, nghe vua Y-sơ-ra-ên xé áo, liền sai người đến tâu với vua: "Tại sao bệ hạ phải xé áo? Bảo người ấy đến gặp tôi, rồi sẽ biết trong Y-sơ-ra-ên có một tiên tri."
9 Vậy Na-a-man đến nhà Ê-li-sê, xe ngựa dừng lại trước cửa.
10 Ê-li-sê cho người ra bảo Na-a-man: "Xuống sông Giô-đan tắm bảy lần thì các vết phung sẽ lành."
11 Na-a-man nổi giận bỏ đi, sừng sộ: "Ta nghĩ ông ấy phải ra đón ta, đứng đó kêu cầu Danh Thượng Đế Hằng Hữu, đưa tay qua lại trên vết phung và chữa cho ta.
12 Hai con sông A-ba-na và Bạt-ba ở Đa-mách không hơn các sông ở Y-sơ-ra-ên sao? Tắm sông nhà không sạch được hay sao?" Vậy, ông bỏ đi, tức giận lắm.
13 Các đầy tớ đến bên ông, nói: "Nếu tiên tri bảo cha làm việc gì khó khăn to tát, cha còn có thể làm thay, huống hồ ông ấy chỉ bảo: Tắm thì được sạch."
14 Nghe thế, Na-a-man xuống sông Giô-đan, hụp xuống nước bảy lần, theo lời người của Thượng Đế. Thịt ông trở thành lành lặn, mịn màng như da thịt một em bé, và bệnh phung lành hẳn.
15 Na-a-man và đoàn tùy tùng quay lại nhà người của Thượng Đế. Đứng trước mặt tiên tri, Na-a-man nói: "Bây giờ tôi nhận biết rằng trừ Y-sơ-ra-ên, thế gian không có Thượng Đế. Vậy xin tiên tri vui lòng nhận món quà mọn này."
16 Ê-li-sê đáp: "Tôi thề trước Chúa Hằng Hữu, Đấng tôi phụng sự, tôi không nhận gì cả." Na-a-man lại năn nỉ, nhưng Ê-li-sê một mực từ khước.
17 Cuối cùng, Na-a-man nói: "Thế thì, xin tiên tri cho tôi hai thồ đất để la chở về. Vì từ nay, tôi sẽ không dâng lễ thiêu hoặc lễ vật gì khác cho một thần nào cả, trừ Chúa Hằng Hữu.
18 Tuy nhiên, xin Chúa tha thứ cho tôi điều này: Mỗi khi vua Sy-ri là chủ tôi vào thờ lạy trong miếu thần Rim-môn, vua tựa mình trên tay tôi, và khi vua lạy, tôi phải cúi mình theo. Xin Chúa tha thứ cho điều ấy."
19 Ê-li-sê nói: "Chúc ông về bình an."
Khi Na-a-man mới đi được một quãng,
20 Ghê-ha-si, đầy tớ của Ê-li-sê, nghĩ thầm: "Thầy ta chẳng nhận món gì của người Sy-ri này cả. Ta thề với Chúa ta sẽ chạy theo, bắt người ấy phải biếu quà gì mới phải chứ."
21 Nghĩ xong, Ghê-ha-si đuổi theo Na-a-man. Thấy Ghê-ha-si chạy theo, Na-a-man nhảy xuống xe, quay lại đón, hỏi: "Mọi việc đều bình an chứ?"
22 Đáp: "Bình an. Thầy tôi bảo tôi nói với ông: Có hai thanh niên từ núi Ép-ra-im mới đến, là môn đệ tiên tri. Xin ông cho họ một ta-lâng bạc và hai bộ áo."
23 Na-a-man năn nỉ: "Xin nhận hai ta-lâng." Rồi ông lấy hai ta-lâng bạc và hai bộ áo bỏ trong hai cái bao, buộc lại, giao cho hai người đầy tớ. Họ quay lại, đi trước Ghê-ha-si.
24 Gần đến nơi, Ghê-ha-si lấy hai cái bao và cho hai người kia về, rồi đem bao vào cất trong nhà.
25 Khi Ghê-ha-si vào đứng hầu thầy, Ê-li-sê hỏi: "Ghê-ha-si, con vừa đi đâu về?" Ghê-ha-si chối: "Con không đi đâu cả."
26 Nhưng Ê-li-sê nói: "Con không biết khi người ấy xuống xe đón con, tinh thần ta có ở đó sao? Bây giờ có phải lúc nhận tiền bạc, áo quần, vườn ô-liu, vườn nho, cừu, bò, tôi tớ hay sao?
27 Bệnh phung của Na-a-man sẽ dính vào mình con và dòng dõi con mãi mãi." Vừa khi rời khỏi Ê-li-sê, Ghê-ha-si mắc bệnh phung, trắng như tuyết.
1 Ngày nọ, các môn đệ của tiên tri thưa với Ê-li-sê: "Thưa thầy, nhà chúng ta chật hẹp quá.
2 Xin cho chúng con đến bên sông Giô-đan đốn gỗ, cất tại đó một cái nhà để ở." Ê-li-sê đồng ý.
3 Một môn đệ thưa: "Xin thầy cùng đi với chúng con." Ông đáp: "Được, ta cùng đi."
4 Họ đến bên sông, bắt đầu đốn cây.
5 Đang đốn, lưỡi rìu của một người sút cán văng xuống nước. Người ấy kêu lên: "Thầy ơi! Rìu này con mượn của người ta."
6 Người của Thượng Đế hỏi: "Rơi chỗ nào?" Môn đệ chỉ nơi nó văng xuống. Ê-li-sê chặt một khúc gỗ, ném xuống nơi ấy, lưỡi rìu nổi lên.
7 Ê-li-sê bảo: "Nhặt lên." Người môn đệ với tay nắm lấy lưỡi rìu.
8 Khi chiến tranh bùng nổ giữa Sy-ri với Y-sơ-ra-ên, vua Sy-ri bàn với các tướng: "Ta sẽ phục quân tại địa điểm này."
9 Người của Thượng Đế liền sai người đến dặn vua Y-sơ-ra-ên: "Đừng đi đến địa điểm ấy, vì có quân Sy-ri mai phục."
10 Vua Y-sơ-ra-ên sai tình báo đến nơi dò xét, quả đúng như lời Thượng Đế. Tiên tri Ê-li-sê đã cứu mạng vua Y-sơ-ra-ên nhiều lần như thế.
11 Vua Sy-ri thắc mắc lắm, gọi các tướng đến, hỏi: "Ai đã tiết lộ cho vua Y-sơ-ra-ên biết?"
12 Một tướng đáp: "Không ai trong chúng tôi cả. Chỉ có Ê-li-sê, là tiên tri Y-sơ-ra-ên, cho vua ấy biết, ngay cả những điều bệ hạ nói riêng trong phòng ngủ mình."
13 Vua Sy-ri ra lệnh: "Đi tìm xem người ấy ở đâu để ta cho quân đến bắt." Khi nhận được tin Ê-li-sê đang ở Đô-than,
14 vua sai một đạo quân hùng hậu ra đi, đem theo nhiều xe và ngựa. Đạo quân đến Đô-than vào lúc trời tối và bao vây thành.
15 Sáng hôm sau, người đầy tớ của Ê-li-sê thức dậy sớm, đi ra thấy quân lính, ngựa, xe vây chặt quanh thành. Thanh niên này vội quay về, cuống cuồng: "Thầy ơi! Chúng ta làm sao đây?"
16 Ê-li-sê ôn tồn bảo: "Con đừng sợ. Lực lượng bên ta đông hơn bên chúng."
17 Nói xong, Ê-li-sê cầu nguyện: "Lạy Chúa xin mở mắt cho nó thấy." Chúa mở mắt cho thanh niên và anh thấy vô số ngựa và xe bằng lửa vây quanh Ê-li-sê.
18 Khi ấy, Ê-li-sê cầu nguyện: "Lạy Chúa Hằng Hữu, xin làm cho họ mù." Chúa nhậm lời.
19 Ê-li-sê nói với quân Sy-ri: "Đây không phải là đường các ông muốn đi, thành các ông muốn đến. Cứ theo tôi, tôi sẽ dẫn các ông đến người các ông tìm." Và ông dẫn họ đến Sa-ma-ri.
20 Khi họ vào trong thành rồi, Ê-li-sê cầu nguyện: "Lạy Chúa Hằng Hữu, bây giờ xin mở mắt cho họ thấy." Chúa nhậm lời ông. Họ mở mắt ra, thấy đang ở giữa Sa-ma-ri.
21 Thấy vậy, vua Y-sơ-ra-ên hỏi Ê-li-sê: "Thưa cha, có nên đánh giết họ không?"
22 Tiên tri đáp: "Không. Khi bắt được tù binh vua có giết không? Hãy dọn bánh cho họ ăn, nước cho họ uống, rồi tha họ về."
23 Vua Y-sơ-ra-ên mở tiệc đãi họ, và khi ăn uống xong, họ được thả về với vua Sy-ri. Từ đó, giặc Sy-ri không còn quấy nhiễu đất Y-sơ-ra-ên như trước nữa.
24 Tuy nhiên về sau, Bên-ha-đát vua Sy-ri động viên toàn lực, kéo lên vây Sa-ma-ri.
25 Thủ đô Sa-ma-ri bị nạn đói trầm trọng, đến cả một cái đầu lừa cũng bán được tám mươi lạng bạc, chừng nửa lít phân bồ câu bán năm lạng bạc.
26 Một hôm, khi vua Y-sơ-ra-ên đang đi thị sát trên thành, có một người đàn bà kêu lên: "Cứu tôi với, bệ hạ ơi!"
27 Vua hỏi: "Nếu Chúa Hằng Hữu không cứu, ta cứu sao được? Vì ta đâu còn đập lúa, ép nho để có mà giúp chị?"
28 Vua tiếp: "Chị có việc gì đó?" Thưa: "Chị này đề nghị ăn thịt con tôi ngày trước, qua ngày sau sẽ ăn thịt con chị ta.
29 Chúng tôi đã nấu thịt con tôi ăn rồi; qua ngày sau tôi đòi ăn con chị, nhưng chị ấy đem giấu biệt."
30 Nghe xong, vua xé áo mình. Vì vua đang đứng trên thành, nên mọi người thấy vua có mặc vải bố bên trong.
31 Vua thề: "Xin Thượng Đế trừng phạt ta nếu ta không chém đầu Ê-li-sê hôm nay."
32 Đang lúc Ê-li-sê ngồi trong nhà với các trưởng lão, vua sai người đến tìm ông. Trước khi sứ giả đến nơi, Ê-li-sê nói với các trưởng lão: "Con của tên sát nhân sai người đến chém đầu tôi. Khi người ấy đến, chúng ta đóng cửa lại, đừng cho vào, vì có tiếng chân chủ người ấy đi theo sau."
33 Khi ông còn đang nói, sứ giả đến, vua cũng đến và than trách: "Chúa đã giáng họa này. Ta còn trông đợi Ngài làm chi!"
1 Ê-li-sê đáp: "Xin lắng tai nghe lời Chúa Hằng Hữu phán: 'Ngày mai, vào giờ này, một đấu bột lọc bán một lạng bạc, hai đấu lúa mạch cũng bán một lạng ngay tại cửa thành Sa-ma-ri.' "
2 Sĩ quan hầu cận của vua nói với người của Thượng Đế: "Dù cho Chúa có mở các cửa sổ trên trời, việc ấy cũng không thể nào xảy ra được." Ê-li-sê đáp: "Mắt ông sẽ thấy việc ấy, nhưng ông sẽ không ăn được gì cả."
3 Lúc ấy có bốn người phung ngồi ngoài cửa thành Sa-ma-ri. Họ bàn với nhau: "Tại sao chúng ta đành ngồi đây chờ chết?
4 Ngồi đây cũng chết đói, mà vào thành cũng chết đói. Chi bằng cứ liều qua trại quân Sy-ri. Nếu họ tha cho, chúng ta sẽ sống; nếu không, đằng nào cũng chết!"
5 Vậy, vào lúc hoàng hôn, họ qua trại quân Sy-ri. Đến nơi, họ chẳng thấy ai cả.
6 Vì Chúa có cho quân Sy-ri nghe tiếng chiến xa, tiếng vó ngựa và tiếng quân đội di chuyển nên họ bảo nhau: "Vua Y-sơ-ra-ên mướn quân Hết và quân Ai Cập đến tấn công ta!"
7 Thế rồi, họ vùng chạy vào bóng đêm để mong thoát thân, bỏ lại trại, ngựa, lừa, và tất cả mọi thứ.
8 Mấy người phung đến trại quân Sy-ri, vào một trại, ăn uống rồi lấy vàng bạc, áo quần đem đi giấu. Họ trở lại, vào trại khác lấy đồ đạc đem đi giấu nốt.
9 Sau đó, họ bảo nhau: "Làm thế này thật không phải. Hôm nay có tin mừng, nếu chúng ta không chịu đi báo tin, đợi đến sáng thì trễ mất, chúng ta sẽ bị đoán phạt. Bây giờ chúng ta đi báo cho mọi người."
10 Và họ đi gọi những người canh cổng thành, nói: "Chúng tôi đến trại quân Sy-ri, thấy không có ai ở đó cả. Trại bỏ không, ngựa và lừa còn buộc cả đó."
11 Lính canh cho người vào cung vua báo cáo.
12 Vua choàng thức dậy, nghe tin tỏ ý ngờ vực: "Ta biết đây là mưu của người Sy-ri. Họ thấy ta đang đói, nên vờ bỏ trại, ra phục ngoài đồng và dặn: 'Khi địch quân ra khỏi thành, ta sẽ bắt sống họ, rồi vào chiếm thành.' "
13 Một tôi tớ của vua đề nghị: "Xin vua sai vài người bắt năm con ngựa trong số còn lại, đi xem thử. Nếu họ quay về, họ sẽ như những nguời Y-sơ-ra-ên còn sống sót tại đây; còn nếu có việc gì xảy ra, họ cũng chết như những người Y-sơ-ra-ên đã chết mà thôi."
14 Và như thế, hai cỗ xe ngựa được chuẩn bị cho mấy người được vua sai đi để dò xem hư thực ra sao.
15 Họ theo dấu quân Sy-ri đến tận sông Giô-đan, thấy dọc đường áo quần, đồ đạc bỏ ngổn ngang. Đó là những vật quân Sy-ri bỏ lại trong lúc vội vàng thoát thân. Họ quay về phúc trình vua Y-sơ-ra-ên.
16 Dân chúng đổ ra cướp trại người Sy-ri. Và vì thế, một đấu bột lọc bán một lạng bạc, hai đấu lúa mạch cũng bán một lạng, đúng như lời Chúa đã phán.
17 Vua có chỉ định vị sĩ quan hầu cận mình phụ trách việc kiểm soát cổng thành, nhưng sĩ quan này bị đám đông dẫm chết tại đó. Sự việc này đã được Ê-li-sê nói trước khi vua đến tìm ông.
18 Lúc ấy, người Thượng Đế nói trước về giá cả của bột lọc và lúa mạch đem bán tại cổng thành ngày hôm sau.
19 Nghe xong, sĩ quan hầu cận có nói: "Cho dù Chúa có mở các cửa sổ trên trời, việc ấy cũng không thể nào xảy ra được," và Ê-li-sê đáp: "Ông sẽ thấy việc ấy tận mắt, nhưng không được ăn gì cả."
20 Và việc đã xảy ra đúng như thế, đám đông đè bẹp sĩ quan ấy tại cổng thành khi họ đổ xô đi tìm thực phẩm.
1 Ê-li-sê bảo người đàn bà có con đã được ông cứu sống lại: "Bà nên đem gia đình đi một nơi khác, vì Chúa sẽ làm cho nước Y-sơ-ra-ên bị nạn đói trong bảy năm."
2 Người đàn bà vâng lời, đem gia đình đến đất Phi-li-tin sống trong bảy năm.
3 Sau đó, bà trở về Y-sơ-ra-ên và đến xin vua phục hồi chủ quyền nhà cửa đất đai cho mình.
4 Vào lúc ấy, vua đang nói chuyện với Ghê-ha-si, đầy tớ của Ê-li-sê. Vua bảo Ghê-ha-si kể cho mình những việc lớn lao tiên tri Ê-li-sê đã làm.
5 Vừa lúc Ghê-ha-si thuật đến việc Ê-li-sê cứu người chết sống lại, mẹ con bà kia bước vào. Ghê-ha-si nói ngay: "Đây là hai mẹ con tôi vừa mới nói đến. Cậu này chính là người được tiên tri Ê-li-sê cứu sống lại."
6 Vua hỏi bà ấy việc xảy ra thế nào, và bà kể lại cho vua nghe mọi sự. Sau đó, vua bảo một quan chức lo việc phục hồi tài sản cho bà, kể cả hoa mầu thu được suốt thời gian bà đi vắng.
7 Ê-li-sê đi Đa-mách. Ông đến vào lúc Bên-ha-đát vua Sy-ri đang ốm. Hay tin người của Thượng Đế đến,
8 vua bảo tướng Ha-xa-ên: "Đem lễ vật đi tặng người của Thượng Đế, và xin người cầu hỏi Thượng Đế xem ta có khỏi bệnh không?"
9 Ha-xa-ên lấy các phẩm vật giá trị của Đa-mách, chất đầy trên bốn mươi con lạc đà làm lễ vật, đi đến đứng trước mặt Ê-li-sê, thưa: "Con ngài là Bên-ha-đát vua Sy-ri sai tôi đến cầu hỏi ngài; xem vua có được khỏi bệnh không?"
10 Ê-li-sê đáp: "Hãy về nói với vua: 'Bệ hạ sẽ khỏi,' thế nhưng, Chúa lại cho tôi biết: 'Vua phải chết.' "
11 Ê-li-sê nhìn Ha-xa-ên chằm chặp, đến độ người này phải ngượng ngùng; rồi tiên tri khóc.
12 Ha-xa-ên hỏi: "Sao ngài khóc?" Tiên tri đáp: "Vì tôi biết những điều tai hại ông sẽ làm cho người Y-sơ-ra-ên. Ông sẽ thiêu hủy đồn lũy, chém giết thanh niên, chà nát trẻ con, mổ bụng đàn bà có thai."
13 Ha-xa-ên hỏi: "Nhưng tôi tớ ông chỉ là một con chó, sao có thể làm được những việc đến thế?" Ê-li-sê trả lời: "Chúa cho tôi biết ông sẽ làm vua Sy-ri."
14 Ha-xa-ên từ giã Ê-li-sê. Về đến nơi, vua hỏi: "Ê-li-sê nói thế nào?" Ha-xa-ên đáp: "Ông ấy nói thế nào bệ hạ cũng khỏi."
15 Nhưng qua hôm sau, Ha-xa-ên lấy một cái chăn nhúng nước, đắp lên mặt Bên-ha-đát làm vua chết ngạt. Ha-xa-ên lên ngôi làm vua.
16 Vào năm thứ năm đời Giô-ram, con A-háp vua Y-sơ-ra-ên, Giô-ram con Giô-sa-phát lên làm vua Giu-đa.
17 Lúc ấy, vua được ba mươi hai tuổi, và cai trị tám năm tại Giê-ru-sa-lem.
18 Vua theo đường của các vua Y-sơ-ra-ên, theo gót nhà A-háp, vì vợ vua là con gái A-háp. Vua làm điều ác trước mặt Chúa.
19 Nhưng vì Đa-vít, tôi tớ Ngài, Chúa không tiêu diệt Giu-đa; Ngài đã hứa cho Đa-vít có người nối ngôi mãi mãi.
20 Trong đời Giô-ram, người Ê-đôm nổi dậy chống chính quyền Giu-đa, tôn lên cho mình một vua.
21 Giô-ram kéo quân sang Xai-rơ, đem theo tất cả chiến xa mình. Nhưng vua bị quân Ê-đôm bao vây. Đang đêm, vua và các sĩ quan chỉ huy chiến xa xông ra, phá vòng vây và giết nhiều quân sĩ Ê-đôm. Tuy nhiên, bộ binh địch thoát được về trại.
22 Từ đó đến nay, Ê-đôm không còn thần phục Giu-đa nữa. Líp-na cũng nổi dậy vào dịp ấy.
23 Các việc khác của Giô-ram đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
24 Giô-ram an giấc với tổ tiên, được chôn với họ trong thành Đa-vít. A-cha-xia con vua lên ngôi kế vị.
25 Vào năm thứ mười hai đời Giô-ram con A-háp vua Y-sơ-ra-ên, A-cha-xia con Giô-ram lên làm vua Giu-đa.
26 Lúc ấy vua được hai mươi hai tuổi, và cai trị một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ là A-tha-li, cháu nội của Ôm-ri vua Y-sơ-ra-ên.
27 Vua theo đường của nhà A-háp, làm điều ác trước mặt Chúa, vì vua là rể của nhà A-háp.
28 Vua liên minh với Giô-ram con A-háp đi đánh Ha-xa-ên vua Sy-ri tại Ra-mốt Ga-la-át. Trong trận này, Giô-ram bị thương,
29 nên phải trở về Gít-rê-ên chữa trị. A-cha-xia vua Giu-đa đến thăm Giô-ram tại đó.
1 Tiên tri Ê-li-sê gọi một môn đệ đến bảo: "Con sửa soạn đi Ra-mốt Ga-la-át. Cầm lọ dầu này,
2 đi tìm Giê-hu con Giô-sa-phát cháu Nim-si. Con sẽ gặp người ấy đang ngồi với anh em mình. Bảo người theo con vào một phòng kín,
3 lấy lọ dầu đổ trên đầu người và nói: 'Chúa Hằng Hữu phán: Ta xức dầu cho ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên.' Xong, con phải nhanh chân chạy thoát."
4 Vậy, môn đệ tiên tri đến Ra-mốt Ga-la-át,
5 gặp các tướng tá đang ngồi họp. Môn đệ ấy nói với Giê-hu: "Tôi có chuyện nói với ông."
6 Giê-hu đứng lên, đi vào nhà. Người ấy theo vào, đổ dầu lên đầu Giê-hu và nói: "Chúa Hằng Hữu Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên phán: 'Ta xức dầu cho ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên, dân Ta.
7 Ngươi sẽ tiêu diệt nhà A-háp chủ ngươi, báo thù cho các tiên tri và các đầy tớ Ta đã bị Giê-sa-bên tàn sát.
8 Cả nhà A-háp phải bị diệt sạch, mọi người đàn ông trong nhà, cả tự do lẫn nô lệ đều phải bị giết.
9 Ta sẽ làm cho nhà A-háp giống như nhà Giê-rô-bô-am con Nê-bát, và nhà Ba-ê-sa con A-hi-gia.
10 Giê-sa-bên sẽ bị chó ăn thịt tại Gít-rê-ên, thây nó không ai chôn cất.' " Nói xong, môn đệ ấy mở cửa chạy đi.
11 Giê-hu trở ra với các sĩ quan. Họ hỏi: "Mọi sự tốt đẹp chứ? Gã khùng ấy đến có việc gì thế?" Giê-hu đáp: "Các ông biết người ấy, và cũng biết những điều người ấy nói rồi."
12 Họ nhao nhao: "Có biết gì đâu! Anh nói cho chúng tôi biết đi." Giê-hu kể cho họ nghe những điều người ấy nói, và cho họ biết mình đã được xức dầu làm vua Y-sơ-ra-ên.
13 Lập tức, mọi người tại đó lấy áo trải dưới chân Giê-hu, nơi các bực thang rồi thổi kèn, tung hô: "Vua Giê-hu vạn tuế!"
14 Và như thế, Giê-hu con Giô-sa-phát cháu Nim-si làm phản vua Giô-ram khi quân đội Y-sơ-ra-ên đang lo chống giữ Ra-mốt Ga-la-át trước lực lượng của Ha-xa-ên vua Sy-ri.
15 Nhưng khi lâm chiến, Giô-ram đã bị thương và phải trở về Gít-rê-ên chữa trị.
Giê-hu nói với mọi người ở đó: "Nếu anh em đồng ý, ta sẽ giữ không cho một ai ra khỏi thành để về Gít-rê-ên báo tin."
16 Nói xong, ông lên xe đi Gít-rê-ên, nơi Giô-ram đang nằm điều trị thương tích. Lúc ấy, A-cha-xia vua Giu-đa đến thăm Giô-ram, và cũng có mặt tại Gít-rê-ên.
17 Người lính gác trên vọng canh thành Gít-rê-ên trông thấy Giê-hu và những người đi theo tiến đến, liền lớn tiếng báo tin: "Tôi thấy một đoàn người đang đi tới." Giô-ram ra lệnh: "Sai một người cưỡi ngựa ra xem thử họ đến với tinh thần hòa hảo hay không."
18 Một người phi ngựa ra gặp Giê-hu, hỏi: "Vua muốn biết các ông đến với tinh thần hòa bình hay không." Giê-hu nói: "Hòa hay chiến có liên hệ gì với ngươi? Tránh ra đằng sau!" Người lính canh báo cáo: "Sứ giả đến gặp họ rồi nhưng không quay về."
19 Vua sai một người thứ hai phóng ngựa ra, nói: "Vua muốn biết các ông đến với hòa khí hay không?" Giê-hu nói: "Hòa hay bất hoà có việc gì đến ngươi? Tránh ra đằng sau!"
20 Người lính canh lại báo cáo: "Sứ giả gặp họ rồi, nhưng cũng không quay về. Còn người đang tới chắc là Giê-hu, vì người ấy lái xe một cách hung hăng."
21 Giô-ram ra lệnh: "Chuẩn bị xe cộ sẵn sàng cho ta." Thế rồi, Giô-ram và A-cha-xia vua Giu-đa, mỗi người lên xe, ra đón Giê-hu. Họ gặp nhau trong cánh đồng của Na-bốt ở Gít-rê-ên.
22 Giô-ram hỏi: "Ngươi đến trong hòa khí phải không, Giê-hu?" Giê-hu hỏi vặn: "Hòa thế nào được trong khi Giê-sa-bên mẹ vua vẫn sống trong dâm loạn, tà thuật?"
23 Giô-ram quay xe chạy trốn, đồng thời gọi A-cha-xia, báo: "Có âm mưu phản loạn!"
24 Giê-hu lắp tên, kéo cung, bắn vào giữa hai vai Giô-ram, mũi tên xuyên thấu tim. Giô-ram ngã chết trong xe.
25 Giê-hu bảo Bích-ca, người phụ tá: "Đem thây hắn ném vào cánh đồng của Na-bốt. Vì chắc ông còn nhớ, lúc ông với tôi cùng cưỡi ngựa theo sau A-háp cha hắn, Chúa Hằng Hữu có phán với A-háp những lời này:
26 'Hôm qua, Ta có thấy huyết của Na-bốt và các con người ấy, và ngươi sẽ chịu quả báo ngay trong cánh đồng này.' Vậy, ném hắn xuống cánh đồng của Na-bốt đi, theo như lời Chúa đã phán."
27 Thấy việc xảy ra, A-cha-xia bỏ chạy về hướng Bết-ha-gan. Giê-hu đuổi theo ra lệnh: "Đánh chết nó luôn trong xe nó!" Và A-cha-xia bị tấn công lúc đang ngồi trong xe tại dốc Gu-rơ, gần íp-lê-am. Vua chạy đến Mê-ghi-đô, và chết tại đó.
28 Các tôi tớ A-cha-xia đặt xác vua trên một cỗ xe, chở về Giê-ru-sa-lem, chôn trong mộ cùng với tổ tiên vua tại thành Đa-vít.
29 A-cha-xia bắt đầu làm vua Giu-đa vào năm thứ mười một đời Giô-ram con A-háp.
30 Khi Giê-sa-bên nghe Giê-hu đến Gít-rê-ên, liền vẽ mắt, đánh phấn tô son, trang điểm tóc, rồi đứng bên cửa sổ lâu đài nhìn ra.
31 Thấy Giê-hu đến trước cổng, Giê-sa-bên nói: "Này Xim-ri! Kẻ giết chủ, còn đến đây làm gì?"
32 Giê-hu ngước đầu nhìn lên cửa sổ, hỏi: "Ai thuộc về phe ta?" Vài ba thái giám nhìn xuống về phía Giê-hu.
33 Ông bảo: "Ném nó xuống đây!" Họ ném Giê-sa-bên xuống, máu tung toé lên tường, vấy cả lên ngựa. Ngựa giẫm lên xác Giê-sa-bên.
34 Giê-hu vào cung vua. Ăn uống xong, ông nói: "Bây giờ lo đi chôn mụ đàn bà bị nguyền rủa kia, vì mụ ta cũng thuộc hoàng tộc."
35 Nhưng những người được sai đi chôn Giê-sa-bên chỉ còn thấy cái sọ, hai chân và hai bàn tay nằm đó.
36 Họ quay lại báo cáo. Giê-hu nói: "Đúng như lời Chúa phán qua đầy tớ Ngài là Ê-li người Tích-bê: 'Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên trong đất Gít-rê-ên.
37 Thây nó sẽ như phân trong đồng ruộng Gít-rê-ên. Chẳng ai còn biết đó là Giê-sa-bên được nữa.' "
1 Giê-hu viết thư cho các nhà chức trách, các trưởng lão của thành Sa-ma-ri, và các giám hộ của bảy mươi con trai A-háp đang ở tại đó, như sau:
2,3 "Nhận được thư này, các ông hãy chọn trong số các con trai của chủ mình một người tài giỏi nhất lập lên làm vua, và lo chiến đấu cho nhà chủ mình. Vì các ông sẵn có xe và chiến mã, thành lũy kiên cố và khí giới đầy đủ."
4 Đọc thư xong, họ khiếp sợ, bảo nhau: "Hai vua còn không chống nổi ông ấy, huống chi chúng ta!"
5 Thế rồi, quản lý cung điện, các nhà chức trách địa phương, các trưởng lão và các giám hộ con A-háp sai người đi nói với Giê-hu: "Chúng tôi là đầy tớ của ông, sẵn sàng tuân lệnh ông. Chúng tôi không muốn tôn người nào lên làm vua cả. Xin ông cứ tùy ý hành động."
6 Giê-hu viết cho họ một thư thứ hai, nói: "Nếu các ông đứng về phe tôi, sẵn sàng tuân lệnh tôi, các ông phải lấy đầu các con trai của chủ mình, đem đến Gít-rê-ên cho tôi ngày mai, vào giờ này." (Bảy mươi người con trai của A-háp lúc ấy đang được các nhân sĩ trong thành nuôi nấng và dạy dỗ.)
7 Được thư ấy, họ bắt bảy mươi người con trai A-háp giết đi, lấy đầu để trong giỏ, gửi đến Gít-rê-ên cho Giê-hu.
8 Nghe tin thủ cấp các con A-háp đã đến, Giê-hu ra lệnh cho chất đầu thành hai đống trước cổng thành, để đó cho đến qua đêm.
9 Sáng hôm sau, Giê-hu ra đứng trước mọi người, tuyên bố: "Đồng bào vô tội. Chỉ có tôi phản loạn, giết chủ; nhưng tại sao những người này bị giết?
10 Đó là để ứng nghiệm lời Chúa Hằng Hữu đã loan báo về nhà A-háp. Chúa thực hiện những lời Ngài do Ê-li, tôi tớ Ngài đã báo trước."
11 Giê-hu cũng giết tất cả những người khác trong gia đình A-háp tại Gít-bê-ên, tất cả các đại thần, bạn hữu và các tế sư của A-háp, không tha một người.
12 Sau đó, Giê-hu đi Sa-ma-ri. Trên đường, ông ghé qua một nhà xén lông cừu.
13 Tại đó, ông gặp họ hàng của A-cha-xia vua Giu-đa. Giê-hu hỏi xem họ là ai. Họ đáp: "Chúng tôi là bà con của A-cha-xia. Chúng tôi đi thăm các hoàng tử và hoàng thân."
14 Giê-hu ra lệnh bắt sống những người ấy và giết họ tại một cái hố gần nhà xén lông cừu, tất cả là bốn mươi hai người.
15 Rời nơi ấy ra đi, ông gặp Giô-na-đáp con của Rê-cáp. Thấy người này ra đón, Giê-hu chào hỏi và nói: "Ông có chân thành với tôi như tôi chân thành với ông không?" Giô-na-đáp trả lời: "Chân thành." Giê-hu bảo: "Nếu thế, ông đưa tay ra. Giê-hu nắm lấy, kéo ông lên xe ngồi với mình,
16 và nói: "Đi với tôi, ông sẽ thấy lòng nhiệt thành của tôi với Chúa." Vậy Giô-na-đáp cùng ngồi xe với Giê-hu.
17 Khi đến Sa-ma-ri, Giê-hu giết nốt những người thuộc nhà A-háp còn sót lại, không chừa một người, đúng như lời Chúa đã phán với Ê-li.
18 Giê-hu triệu tập toàn thể nhân dân và tuyên bố: "A-háp phục vụ Ba-anh cách sơ sài, còn ta sẽ phục vụ cách tích cực.
19 Đồng bào mời đến đây cho ta tất cả các tiên tri, đồ đệ và các tế sư của Ba-anh, đừng thiếu sót một ai, vì ta sẽ dâng lễ vật long trọng cho Ba-anh. Ai vắng mặt sẽ bị giết." Đây chỉ là mưu của Giê-hu để diệt các đồ đệ Ba-anh,
20,21 Giê-hu ra lệnh tuyên cáo cho toàn dân về buổi lễ long trọng cúng thờ Ba-anh và tin tức về buổi lễ này được truyền ra khắp nước Y-sơ-ra-ên. Tất cả môn đệ của Ba-anh đều được mời đến, không thiếu một ai. Họ tụ tập chật đền Ba-anh.
22 Giê-hu ra lệnh cho người giữ áo lễ, phát áo cho tất cả các đồ đệ Ba-anh.
23 Sau đó, Giê-hu đi cùng Giô-na-đáp con Rê-cáp vào đền. Ông kêu gọi các môn đệ Ba-anh kiểm điểm, đừng để cho một môn đệ nào của Chúa lọt vào đền.
24 Khi người ta dâng lễ vật và lễ thiêu, Giê-hu phục tám mươi người bên ngoài đền, và dặn dò: "Ai sơ suất, để cho một người chạy thoát, người ấy phải đền mạng."
25 Vừa dâng lễ thiêu xong, Giê-hu ra lệnh các sĩ quan và lính mai phục: "Vào giết hết chúng nó đi!" Họ vào, dùng kiếm giết hết mọi người và ném thây ra bên ngoài; rồi vào giữa đền Ba-anh,
26 kéo trụ thờ cho đổ xuống, nổi lửa đốt.
27 Họ cũng đánh đổ tượng Ba-anh, phá hủy đền thần ấy tan tành, biến nơi ấy thành một nhà xí cho đến ngày nay.
28 Như thế, Giê-hu trừ diệt Ba-anh khỏi Y-sơ-ra-ên.
29 Tuy nhiên, Giê-hu không phá hủy tượng bò vàng của Giê-rô-bô-am đặt tại Bê-tên và Đan. Đây là một trọng tội của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, vì người này đã tạo cơ hội cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.
30 Chúa phán bảo Giê-hu: "Vì ngươi đã thi hành đúng theo ý Ta trong việc tiêu diệt nhà A-háp, con cháu ngươi sẽ được làm vua Y-sơ-ra-ên cho đến đời thứ tư."
31 Nhưng Giê-hu không hết lòng tuân theo luật lệ của Chúa Hằng Hữu Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là tội đã tạo cơ hội cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.
32 Vào thời ấy, Chúa thu hẹp bờ cõi Y-sơ-ra-ên, và cho phép Ha-xa-ên chiếm đóng nhiều nơi trong nước:
33 phía đông sông Giô-đan, tất cả miền Ga-la-át, đất Gát, đất Ru-bên, và một phần của đất Ma-na-se, từ A-rô-e trong thung lũng ạt-nôn cho đến Ga-la-át và Ba-san.
34 Các việc khác của Giê-hu và thế lực của vua đều được chép trong lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
35 Giê-hu an giấc với tổ tiên, được chôn tại Sa-ma-ri. Giô-a-cha con trai Giê-hu lên ngôi kế vị.
36 Giê-hu cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri hai mươi tám năm.
1 Thái hậu A-tha-li, mẹ vua A-cha-xia, thấy con mình đã chết, vội ra tay giết hết các hoàng tử.
2 Nhưng Giô-sê-ba (chị A-cha-xia, con vua Giô-ram) đem một người con trai của A-cha-xia là Giô-ách giấu trong phòng ngủ cùng với một bà vú. Như vậy, hoàng tử Giô-ách không bị A-tha-li giết như những hoàng tử khác,
3 nhưng trốn trong Đền Thờ Chúa sáu năm trong khi A-tha-li làm nữ vương cai trị Giu-đa.
4 Qua năm thứ bảy, thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa mời các sĩ quan chỉ huy vệ binh vào gặp mình trong Đền Thờ Chúa, bắt họ thề giữ bí mật, rồi cho họ gặp Giô-ách.
5 Giê-hô-gia-đa truyền chỉ thị cho các sĩ quan: "Một phần ba của đội vệ binh không có phận sự trong ngày Sa-bát sẽ đi gác cung vua,
6 một phần ba sẽ canh cổng Su-rơ, và một phần ba sẽ giữ cổng ở đằng sau trụ sở vệ binh. Như vậy cung vua sẽ được canh gác cẩn mật.
7,8 Còn hai đội vệ binh có nhiệm vụ túc trực trong ngày Sa-bát sẽ canh gác Đền Thờ, vây chung quanh vua, vũ khí cầm tay, sẵn sàng giết chết những ai muốn xông vào. Họ phải theo sát vua."
9 Các sĩ quan làm theo chỉ thị của thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Họ dẫn lính đến trước thầy tế lễ, cả lính không có phận sự trong ngày Sa-bát, cũng như lính trực trong ngày ấy.
10 Thầy tế lễ lấy vũ khí trong kho Đền Thờ phát cho họ, gồm những giáo và khiên từ đời vua Đa-vít.
11 Vệ binh cầm vũ khí đứng dài từ góc phải sang góc trái Đền Thờ, dọc theo bàn thờ và Đền Thờ.
12 Giê-hô-gia-đa đem Giô-ách ra, lấy vương miện đội lên đầu, giao cho người cuốn sách luật, và xức dầu cho Giô-ách làm vua. Mọi người, vỗ tay reo hò: "Vua vạn tuế!"
13,14 Nghe tiếng huyên náo, A-tha-li chạy vào Đền Thờ, thấy vua đứng bên cột trụ theo nghi thức đăng quang. Các sĩ quan và những người thổi kèn đứng quanh đó, mọi người hân hoan, trổi nhạc. A-tha-li xé áo, la lên: "Phản loạn! Phản loạn!"
15 Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa ra lệnh cho các sĩ quan: "Đem bà ta ra khỏi đây. Đừng giết bà trong Đền Thờ. Ai theo bà ta đều phải bị giết."
16 Người ta lôi bà trở về cung vua theo lối đi của ngựa và giết bà tại đó.
17 Giê-hô-gia-đa lập giao ước giữa Chúa Hằng Hữu vua và toàn dân, qui định họ là dân của Chúa. Ông cũng lập qui ước cho vua với dân.
18 Sau đó, mọi người kéo đến đền Ba-anh, phá đổ đền, đập nát tượng và bàn thờ, giết tế sư của Ba-anh là Ma-than ngay trước bàn thờ. Sau khi đặt lính canh Đền Thờ Chúa,
19 Giê-hô-gia-đa cùng các sĩ quan, vệ binh và cả dân chúng rước vua từ Đền Thờ qua cổng của vệ binh để vào cung vua. Giô-ách lên ngồi trên ngai.
20 Nhân dân khắp nơi đều vui mừng. Thành phố trở lại yên tĩnh sau cái chết của A-tha-li.
21 Lúc lên làm vua, Giô-ách mới được bảy tuổi.
1 Giô-ách lên ngôi vào năm thứ bảy đời vua Giê-hu nước Y-sơ-ra-ên, và cai trị bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Xi-bia, quê ở Bê-e-sê-ba.
2 Nhờ được thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa dạy dỗ nên trọn đời Giô-ách làm điều thiện trước mặt Chúa.
3 Tuy nhiên các miếu trên đồi vẫn không bị phá dỡ, và người ta vẫn tiếp tục cúng tế, đốt nhang tại các nơi ấy.
4,5 Giô-ách nói với các thầy tế lễ: "Ta nên dùng tiền thuế thân và tiền dâng tình nguyện (những số tiền này được dành riêng và để trong kho Đền Thờ) để sửa chữa Đền Thờ. Quí vị sẽ đứng ra thu tiền ấy trong giới thân thuộc và trông coi tu bổ những chỗ bị hư hại."
6 Nhưng, cho đến năm thứ hai mươi ba, đời Giô-ách, các thầy tế lễ vẫn chưa xúc tiến việc sửa chữa Đền Thờ.
7 Vì thế, Giô-ách cho mời Giê-hô-gia-đa và các thầy tế lễ khác đến, hỏi: "Sao quí vị chưa lo việc tu bổ Đền? Bây giờ, xin quí vị đừng lo việc thu tiền nữa, nhưng đem số đã thu được giao cho người có trách nhiệm lo việc tu bổ."
8 Các thầy tế lễ đồng ý không đứng thu tiền nữa. Họ cũng đồng ý giao trách nhiệm sửa Đền cho người khác.
9 Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa lấy một cái rương, đục lỗ trên nắp, đặt bên phải bàn thờ tại cổng vào Đền Thờ. Thầy tế lễ giữ cổng Đền bỏ tất cả tiền người ta đem dâng vào rương ấy.
10 Khi thấy rương đầy tiền, thư ký của vua và thầy tế lễ thượng phẩm đến đếm tiền, bỏ vào bao,
11,12 rồi đem giao cho các đốc công trông coi việc sửa chữa để trả công cho thợ mộc, thợ nề, thợ đẽo đá; hoặc để mua gỗ, đá và dùng vào các chi phí khác trong công cuộc sửa Đền.
13 Tiền này không dùng vào việc sắm sửa các dụng cụ bằng vàng, bằng bạc như bát, kéo cắt tim đèn, chậu, kèn hay dụng cụ nào khác thuộc loại này,
14 nhưng chỉ dùng để sửa sang Đền Thờ.
15 Người ta không bắt các đốc công phải tính sổ vì họ là những người ngay thực.
16 Tuy nhiên, tiền dâng làm lễ chuộc lỗi và lễ chuộc tội vẫn thuộc về các thầy tế lễ, không để chung với tiền sửa chữa Đền Thờ.
17 Vào lúc ấy, Ha-xa-ên vua Sy-ri đem quân chiếm đất Gát và tiến về Giê-ru-sa-lem.
18 Giô-ách vua Giu-đa thu tóm các vật thánh của cha ông mình (các vua Giô-sa-phát, Giô-ram và A-cha-xia) đã dâng hiến, cùng với những vật thánh chính Giô-ách đã dâng, tất cả vàng trong kho Đền Thờ và trong cung vua, đem triều cống cho Ha-xa-ên. Vì thế Ha-xa-ên không đánh Giê-ru-sa-lem.
19 Các việc khác của Giô-ách đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
20,21 Các đầy tớ Giô-ách nổi lên làm phản. Giô-xa-ca con Si-mê-át, cùng với Giô-sa-bát con Sô-mê giết Giô-ách tại cung Mi-lô, trên đường đi Si-la. Giô-ách được chôn với các tổ tiên trong thành Đa-vít. A-ma-xia con Giô-ách lên ngôi kế vị.
1 Con của Giê-hu là Giô-a-cha lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ hai mươi ba đời Giô-ách con A-cha-xia vua Giu-đa. Giô-a-cha làm vua được mười bảy năm tại Sa-ma-ri.
2 Vua làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu, theo đường tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội. Vua không hề từ bỏ tội lỗi mình.
3 Vì thế, Chúa rất giận Y-sơ-ra-ên. Ngài để cho Ha-xa-ên vua Sy-ri và Bên-ha-đát con Ha-xa-ên liên tục đánh phá Y-sơ-ra-ên.
4 Nhưng đến khi Giô-a-cha cầu cứu Chúa Hằng Hữu, Ngài nhậm lời vua, vì Ngài thấy cảnh vua Sy-ri áp bức Y-sơ-ra-ên.
5 Chúa cho Y-sơ-ra-ên có một nhà cứu quốc, giải thoát dân khỏi quyền lực Sy-ri, và họ lại được sống an hòa như xưa.
6 Nhưng rồi, họ lại tiếp tục phạm tội, không từ bỏ đường lối của Giê-rô-bô-am, người đã lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội. Họ vẫn thờ cúng thần A-sê-ra tại Sa-ma-ri.
7 Lúc ấy, quân của Giô-a-cha chỉ còn có mười ngàn bộ binh, năm mươi kỵ binh và mười chiến xa, vì phần lớn đã bị vua Sy-ri tiêu diệt như cám trong sân đập lúa.
8 Các việc khác của Giô-a-cha và thế lực vua đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
9 Giô-a-cha an giấc với tổ tiên, được chôn tại Sa-ma-ri; con vua là Giô-ách lên kế vị.
10 Con của Giô-a-cha là Giô-ách lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ ba mươi bảy đời Giô-ách vua Giu-đa, và cai trị mười sáu năm tại Sa-ma-ri.
11 Vua làm điều ác trước mặt Chúa, không từ bỏ tội của Giê-rô-bô-am con Nê-bát lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội, nhưng cứ một mực theo đường lối ấy.
12 Các việc khác của Giô-ách, cùng các trận chiến với A-ma-xia vua Giu-đa, đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
13 Giô-ách an giấc với tổ tiên, được chôn tại Sa-ma-ri cùng với các vua Y-sơ-ra-ên khác. Con Giô-ách là Giê-rô-bô-am lên ngôi kế vị.
14 Ê-li-sê mang bệnh, và qua đời. Trước khi Ê-li-sê qua đời, Giô-ách vua Y-sơ-ra-ên có đến thăm. Nhìn vị tiên tri, vua khóc lóc thở than; "Cha ơi! Cha! Xe và kỵ binh của Y-sơ-ra-ên!"
15 Ê-li-sê bảo Giô-ách: "Lấy cung và tên." Giô-ách vâng lời.
16,17 Tiên tri tiếp: "Mở cửa sổ phía đông." Vua làm theo. Tiên tri bảo vua giương cung. Giô-ách giương cung. Tiên tri đặt tay mình trên tay vua. Ê-li-sê ra lệnh: "Bắn." Giô-ách bắn tên đi. Tiên tri nói: "Đó là mũi tên của Chúa Hằng Hữu sẽ chiến thắng quân Sy-ri. Vì vua sẽ đánh tan lực lượng Sy-ri tại A-phác."
18 Tiên tri lại bảo: "Cầm cây tên đập xuống đất." Vua lấy cây tên đập xuống đất ba lần.
19 Người của Thượng Đế nổi giận, nói: "Đáng lẽ vua phải đập năm sáu lần, như thế vua mới đánh quân Sy-ri tiêu tan được. Nhưng thế này vua chỉ thắng họ ba trận thôi."
20 Ê-li-sê qua đời và được an táng. Trong thời ấy, quân cướp Mô-áp thường đến cướp phá vào mùa xuân.
21 Một hôm, người ta đang đi chôn một người chết, thấy quân cướp đến, vội quẳng xác vào mồ Ê-li-sê. Xác vừa đụng xương Ê-li-sê, liền vùng sống lại và đứng lên.
22 Suốt thời gian Giô-a-cha cai trị, Ha-xa-ên vua Sy-ri áp bức người Y-sơ-ra-ên.
23 Nhưng Chúa vẫn làm ơn cho họ. Vì lòng thương xót và vì giao ước Ngài đã kết với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, Ngài vẫn không từ bỏ họ và không để họ bị tiêu diệt.
24 Khi Ha-xa-ên vua Sy-ri chết, Bên-ha-đát con Ha-xa-ên lên kế vị.
25 Giô-ách đem quân đánh Bên-ha-đát, thắng ba trận lớn, chiếm lại các thành Bên-ha-đát đã chiếm của Y-sơ-ra-ên dưới triều vua Giô-a-cha cha mình.
1 Năm thứ hai đời Giô-ách con Giô-a-cha vua Y-sơ-ra-ên, A-ma-xia con Giô-ách lên ngôi làm vua Giu-đa
2 lúc hai mươi lăm tuổi và cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là bà Giê-hoa-đan, quê ở Giê ru-sa-lem.
3 A-ma-xia làm điều thiện trước mặt Chúa Hằng Hữu, nhưng không sánh bằng Đa-vít, tổ tiên vua. Vua noi gương phụ vương là Giô-ách.
4 Tuy nhiên vua vẫn không phá hủy các miếu thờ trên đồi, nên dân chúng vẫn còn cúng tế, đốt nhang tại những nơi ấy.
5 Khi đã bình định lãnh thổ và củng cố thế lực, A-ma-xia đem xử tử những người đã ám sát cha mình;
6 nhưng vua không giết con của những người ấy, đúng theo lệnh của Chúa được chép trong sách luật Mai-sen: "Cha sẽ không bị xử tử vì con có tội, và con cũng không bị xử tử vì cha, nhưng mỗi người chỉ bị xử tử vì tội của mình."
7 Trong một trận chiến tại thung lũng Muối, A-ma-xia giết mười ngàn quân Ê-đôm và chiếm Sê-la, đổi tên thành là Giốc-then và tên này đến nay vẫn còn.
8 Sau đó, A-ma-xia sai sứ đến với Giô-ách (con của Giô-a-cha, cháu Giê-hu, vua Y-sơ-ra-ên) thách thức: "Chúng ta thử giao chiến với nhau xem sao."
9 Giô-ách sai sứ trả lời: "Tại Li-ban, có một cây gai nhắn lời với cây bách hương: 'Gả con gái anh cho con trai tôi đi!' Nhưng có thú rừng đi qua dẫm nát cây gai.
10 Ngươi đánh bại Ê-đôm rồi sinh lòng kiêu căng. Sao không chịu ở nhà, mãn nguyện với chiến công ấy, lại còn muốn gây họa cho mình và cả nước Giu-đa, để cùng nhau suy sụp?"
11 Nhưng A-ma-xia không chịu nghe lời, nên Giô-ách kéo quân lên, giao chiến và đánh bại quân A-ma-xia ở Bết-sê-mết, thuộc đất Giu-đa.
12 Quân lính Giu-đa bỏ chạy về nhà.
13 A-ma-xia bị bắt. Quân Y-sơ-ra-ên tiến đến Giê-ru-sa-lem, phá đổ một đoạn tường thành dài khoảng hai trăm mét, từ cửa Ép-ra-im đến cửa Góc.
14 Giô-ách lấy hết vàng bạc, vật dụng trong Đền Thờ, trong cung vua, bắt nhiều người làm con tin rồi trở về Sa-ma-ri.
15 Các việc khác của Giô-ách, thế lực của vua, các trận chiến với A-ma-xia đều được chép trong sách lịch sử của các vua Y-sơ-ra-ên.
16 Giô-ách an giấc với tổ tiên, được chôn tại Sa-ma-ri cùng các vua Y-sơ-ra-ên. Giê-rô-bô-am con Giô-ách lên kế vị.
17 Sau khi Giô-ách mất, A-ma-xia vua Giu-đa còn sống mười lăm năm nữa.
18 Các việc khác của A-ma-xia đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
19 Tại Giê-ru-sa-lem có âm mưu phản loạn, nên A-ma-xia bỏ chạy đi La-ki. Người ta đuổi theo đến La-ki, giết A-ma-xia tại đó.
20 Xác vua được đặt lên lưng ngựa chở về Giê-ru-sa-lem và được chôn tại thành Đa-vít cùng với tổ tiên.
21 Nhân dân Giu-đa tôn A-xa-ria lên làm vua thế cho A-ma-xia cha vua. Lúc ấy A-xa-ria được mười sáu tuổi.
22 Sau khi vua cha an giấc với tổ tiên, A-xa-ria xây thành Ê-lát và khôi phục chủ quyền thành này về cho nước Giu-đa.
23 Vào năm thứ mười lăm đời A-ma-xia (con Giô-ách, vua Giu-đa) Giê-rô-bô-am con Giô-ách lên làm vua Y-sơ-ra-ên và cai trị bốn mươi mốt năm tại Sa-ma-ri.
24 Vua làm điều ác trước mặt Chúa, không chịu từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am (con Nê-bát), lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội theo.
25 Giê-rô-bô-am khôi phục bờ cõi Y-sơ-ra-ên từ Ha-mát đến Biển Chết, đúng như lời Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, đã dùng tôi tớ Ngài là tiên tri Giô-na, con trai A-mi-tai người Gát-hê-phe loan báo trước.
26,27 Chúa thấy cảnh Y-sơ-ra-ên bị hoạn nạn cay đắng, chẳng còn ai giúp đỡ, nên Ngài dùng Giê-rô-bô-am con Giô-ách giải cứu họ, và Chúa không hề có ý định xóa tên Y-sơ-ra-ên trên đất.
28 Các việc khác của Giê-rô-bô-am, thế lực người, các trận chiến, công cuộc khôi phục chủ quyền Đa-mách và Ha-mát (trước kia bị Giu-đa chiếm), đều được chép trong sách lịch-sử các vua Y-sơ-ra-ên.
29 Giê-rô-bô-am an giấc với tổ tiên, được chôn cùng các vua Y-sơ-ra-ên. Xa-cha-ri con vua lên ngôi kế vị.
1 Vào năm thứ hai mươi bảy đời Giê-rô-bô-am vua Y-sơ-ra-ên, A-xa-ria lên làm vua Giu-đa
2 lúc được mười sáu tuổi, và cai trị năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ A-xa-ria là Giê-cô-lia, người Giê-ru-sa-lem.
3 A-xa-ria làm điều thiện trước mặt Chúa Hằng Hữu, noi gương A-ma-xia cha mình.
4 Tuy nhiên vua vẫn không phá hủy các miếu thờ trên đồi và nhân dân vẫn tiếp tục cúng tế, đốt nhang tại các nơi ấy.
5 Vì thế vua bị Chúa phạt bị bịnh phung cho đến ngày chết. Vua A-xa-ria phải sống cách biệt trong một nhà riêng, và ủy quyền cho hoàng tử Giô-tham xử lý việc triều chính.
6 Các việc khác của A-xa-ria đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
7 A-xa-ria an giấc cùng tổ tiên, được chôn với họ trong thành Đa-vít. Giô-tham con vua lên kế vị.
8 Vào năm thứ ba mươi tám đời A-xa-ria vua Giu-đa, Xa-cha-ri con Giê-rô-bô-am lên làm vua Y-sơ-ra-ên, và cai trị sáu tháng tại Sa-ma-ri.
9 Vua làm điều ác trước mặt Chúa như cha vua đã làm; không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội.
10 Sa-lum con Gia-be làm phản, giết chết vua Xa-cha-ri tại íp-lê-am và chiếm ngôi.
11 Các việc khác của Xa-cha-ri đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
12 Như thế, việc đã xảy ra đúng như lời của Chúa phán về Giê-hu: "Con cháu ngươi sẽ làm vua Y-sơ-ra-ên đến đời thứ tư."
13 Sa-lum con Gia-be lên làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ ba mươi chín đời Ô-xia vua Giu-đa, và cai trị chỉ được một tháng,
14 vì bị Mê-na-hem con Ga-đi ở Tiệt-sa đến Sa-ma-ri ám sát và cướp ngôi.
15 Các việc khác của Sa-lum, việc phản loạn của vua, đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
16 Mê-na-hem đánh Típ-sắc, giết sạch nhân dân trong thành và miền phụ cận, từ Tiệt-sa trở đi. Lý do vì người ta không chịu mở cổng thành cho Mê-na-hem. Đàn bà có mang đều bị mổ bụng.
17 Mê-na-hem con Ga-đi lên làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ ba mươi chín đời A-xa-ria vua Giu-đa, và cai trị mười năm tại Sa-ma-ri.
18 Mê-na-hem làm điều ác trước mặt Chúa, trọn đời không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội theo.
19 Vua A-sy-ri là Bun kéo quân đến đánh. Mê-na-hem phải nạp cho Bun một ngàn ta lâng bạc để cứu vãn ngôi nước.
20 Mê-na-hem bắt dân đóng góp số tiền này, mỗi người khá giả phải đóng năm mươi đồngbạc. Vua A-sy-ri quay về nước.
21 Các việc khác của Mê-na-hem đều được chép trong các sách lịch sử của các vua Y-sơ-ra-ên.
22 Mê-na-hem an giấc với tổ tiên, Phê-ca-hia con vua lên kế vị.
23 Vào năm thứ năm mươi đời A-xa-ria vua Giu-đa, Phê-ca-hia con Mê-na-hem lên làm vua Y-sơ-ra-ên, và cai trị hai năm tại Sa-ma-ri.
24 Vua làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu, không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội.
25 Tư lệnh quân đội là Phê-ca con Rê-ma-hia, cùng với năm mươi người Ga-la-át làm phản, giết Phê-ca-hia trong thành nội hoàng cung, giết luôn ạc-gốp và A-ri-ên, rồi chiếm lấy ngôi.
26 Các việc khác của Phê-ca-hia đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
27 Phê-ca con Rê-ma-lia lên làm vua Y-sơ-ra-ên vào năm thứ năm mươi hai đời A-xa-ria vua Giu-đa, và cai trị hai mươi năm tại Sa-ma-ri.
28 Vua làm điều ác trước mặt Chúa, không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, lôi kéo Y-sơ-ra-ên phạm tội.
29 Dưới đời Phê-ca, Tiếc-la Phi-lê-se vua A-sy-ri đánh Y-sơ-ra-ên, chiếm Y-giôn, A-bên Bết-ma-ca, Gia-nô-a, Kê-đe, Hát-so, Ga-la-át, Ga-li-lê và đất Nép-ta-li, bắt dân đem về A-sy-ri.
30 Vào năm thứ hai mươi đời vua Giô-tham con Ô-xia, Hô-sê con Ê-la nổi lên làm phản, giết Phê-ca và chiếm ngôi.
31 Các việc khác của Phê-ca đều được chép trong sách lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên.
32 Vào năm thứ hai đời Phê-ca con Rê-ma-lia vua Y-sơ-ra-ên, Giô-tham con Ô-xia lên làm vua Giu-đa.
33 Giô-tham được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi, và cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ Giô-tham là Giê-ru-sa con gái Xa-đốc.
34 Vua làm điều thiện trước mặt Chúa, noi theo mọi điều cha mình đã làm.
35 Nhưng các miếu thờ trên đồi vẫn không bị phá dỡ, nhân dân vẫn cúng tế, đốt nhang tại các nơi ấy. Dưới đời Giô-tham, cổng trên của Đền Thờ Chúa được xây cất.
36 Các việc khác của Giô-tham đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
37 Vào thời ấy, Chúa Hằng Hữu bắt đầu cho phép Rê-xin vua Sy-ri và Phê-ca con Rê-ma-lia đánh phá Giu-đa.
38 Giô-tham an giấc với tổ tiên, được chôn với họ trong thành Đa-vít. Hoàng tử A-cha lên kế vị.
1 Vào năm thứ mười bảy đời Phê-ca con Rê-ma-lia, A-cha con Giô-tham lên làm vua Giu-đa
2 lúc hai mươi tuổi, và cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua không noi gương tổ tiên là Đa-vít để làm điều thiện trước mặt Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình,
3 nhưng lại theo đường lối các vua Y-sơ-ra-ên. Hơn nữa, A-cha còn dâng con mình làm của lễ thiêu, theo thói tục tồi tệ của những dân tộc ngoại đạo bị Chúa đuổi ra khỏi đất này để dành chỗ cho Y-sơ-ra-ên.
4 A-cha cúng tế, đốt nhang tại các miếu trên đồi, dưới các cây xanh.
5 Lúc ấy, Rê-xin vua Sy-ri và Phê-ca con Rê-ma-lia vua Y-sơ-ra-ên kéo quân lên đánh A-cha, vây Giê-ru-sa-lem, nhưng không hạ thành được.
6 Cũng vào dịp này, Rê-xin vua Sy-ri chiếm lại thành Ê-lát, đuổi người Y-sơ-ra-ên ra khỏi thành, đem dân Sy-ri đến định cư và ở đó cho đến nay.
7 A-cha sai sứ đến cầu cứu Tiếc-la Phi-lê-se vua A-sy-ri: ôTôi là đầy tớ và là con của vua. Xin vua cứu tôi khỏi tay vua Sy-ri và vua Y-sơ-ra-ên."
8 A-cha lấy bạc, vàng trong Đền Thờ Chúa và trong kho hoàng cung gửi cho vua A-sy-ri.
9 Theo lời yêu cầu của A-cha, vua A-sy-ri kéo quân đi đánh Đa-mách, chiếm thành, giết vua Rê-xin, và bắt dân đem sang Ki-rơ.
10 Vua A-cha đi Đa-mách để hội kiến với Tiếc-la Phi-lê-se vua A-sy-ri. Tại đó, A-cha thấy một cái bàn thờ, liền lấy kiểu mẫu và ghi chú các chi tiết, rồi gửi về cho thầy tế lễ U-ri.
11 U-ri theo đó chế tạo một cái bàn thờ, để sẵn chờ A-cha về.
12,13 Vừa từ Đa-mách về, A-cha đến xem xét bàn thờ mới, rồi đứng dâng lễ thiêu, lễ vật ngũ cốc; đổ lễ quán và huyết của lễ vật thù ân trên đó.
14 A-cha cho dời bàn thờ đồng của Chúa (vốn đặt trước Đền Thờ, giữa cổng Đền Thờ và bàn thờ mới) đến đặt ở phía bắc bàn thờ mới.
15 Vua ra lệnh cho thầy tế lễ U-ri dâng trên bàn thờ mới này lễ thiêu buổi sáng, lễ vật ngũ cốc buổi tối, lễ thiêu và lễ vật ngũ cốc của vua, lễ thiêu, lễ vật ngũ cốc và lễ quán của dân, tất cả huyết của sinh vật dâng làm lễ thiêu và huyết của các sinh vật dâng trong các lễ khác. Còn bàn thờ bằng đồng cũ, vua dành riêng cho mình để cầu hỏi thần linh.
16 Thầy tế lễ U-ri nhất nhất vâng lệnh vua.
17 Vua A-cha còn phá bỏ bờ thành của cái bệ trong Đền Thờ, dẹp bỏ các chậu, hạ cái hồ trên lưng con bò bằng đồng xuống, và đem hồ đặt trên nền đá.
18 Vì sợ vua A-sy-ri, A-cha cũng phá dỡ mái hiên xây từ Đền Thờ ra đến cổng dành cho vua đi trong ngày Sa-bát.
19 Các việc khác của A-cha đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
20 A-cha an giấc với tổ tiên, được chôn với họ trong thành Đa-vít. Ê-xê-chia con A-cha lên kế vị.
1 Vào năm thứ mười hai đời A-cha vua Giu-đa, Ô-sê con Ê-la lên làm vua Y-sơ-ra-ên, cai trị chín năm tại Sa-ma-ri.
2 Ô-sê làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu nhưng không đến nỗi như các vua Y-sơ-ra-ên trước.
3 Sanh-ma-na-sa vua A-sy-ri đem quân đánh Y-sơ-ra-ên. Ô-sê thua, phải thần phục và nạp cống lễ cho A-sy-ri.
4 Nhưng Ô-sê mưu phản, sai sứ đi Ai Cập nhờ vua Sô giúp đỡ. Hành động này không qua khỏi mắt vua A-sy-ri. Ngoài ra, Ô-sê bắt đầu ngưng nạp cống thuế hằng năm cho A-sy-ri, nên vua A-sy-ri bắt Ô-sê xiềng lại, đem bỏ tù.
5 Quân A-sy-ri đánh phá khắp nơi và vây Sa-ma-ri suốt ba năm.
6 Vào năm thứ chín đời Ô-sê, Sa-ma-ri thất thủ. Người Y-sơ-ra-ên bị bắt đày qua A-sy-ri, bị tập trung tại Cha-la, và trên bờ sông Cha-bo ở Gô-xan, và các thành trong nước Mã-đại.
7 Những việc này xảy ra vì người Y-sơ-ra-ên phạm tội với Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của họ, Đấng đã đem họ ra khỏi Ai Cập, đã cứu họ khỏi quyền lực của Pha-ra-ôn. Họ đi thờ các thần khác,
8 theo thói tục xấu xa của các thổ dân bị Chúa đuổi đi để lấy đất cho họ ở, và theo quy lệ sai lầm của các vua Y-sơ-ra-ên mới lập ra.
9 Nhân dân lén lút làm những việc bất chính; xây miếu thờ tà thần trên các chỗ cao khắp nơi, ngay cả trên vọng canh, thành lũy;
10 dựng trụ thờ, tượng thần trên đồi núi, dưới cây xanh;
11 đốt nhang trong các miếu trên đồi giống như các dân đã bị Chúa đuổi đi. Các hành động gian ác này đã làm Chúa nổi giận.
12 Họ thờ thần tượng, mặc dù Chúa đã ngăn cấm.
13 Chúa sai các tiên tri cảnh cáo Y-sơ-ra-ên và Giu-đa để họ bỏ đường tội ác, tuân giữ điều răn, luật lệ Ngài đã dùng các tiên tri truyền cho tổ tiên họ thuở xưa.
14 Nhưng họ nào có nghe, lại cứ ngoan cố chẳng kém gì tổ tiên, không tin Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình.
15 Họ coi thường luật lệ và giao ước Ngài đã kết với tổ tiên họ, và những lời cảnh cáo của Ngài. Họ theo các thần nhảm nhí, và chính họ trở nên người xằng bậy. Mặc dù Chúa cấm đoán, họ vẫn bắt chước những dân tộc sống chung quanh.
16 Họ khước từ tất cả các điều răn của Chúa, Thượng Đế mình, đúc hai tượng bò con, tượng Át-tạt-tê, thờ lạy Ba-anh và các tinh tú trên trời.
17,18 Họ đem con trai, con gái thiêu sống để tế thần. Họ tin bói toán, phù thủy và chuyên làm điều dữ trước mặt Chúa, khiến Ngài giận vô cùng. Ngài đuổi họ đi nơi khác, chỉ để cho đại tộc Giu-đa ở lại.
19 Giu-đa cũng chẳng tuân giữ các điều răn của Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, nhưng theo gương Y-sơ-ra-ên.
20 Vì thế, Chúa từ bỏ tất cả con cháu Gia-cốp, trừng phạt họ, và để cho kẻ thù bóc lột họ. Cuối cùng Ngài đuổi họ đi nơi khác.
21 Khi Y-sơ-ra-ên tách ra khỏi chủ quyền nhà Đa-vít, họ tôn Giê-rô-bô-am con Nê-bát làm vua. Giê-rô-bô-am làm cho Y-sơ-ra-ên bỏ Chúa, phạm tội nặng nề.
22 Nhân dân Y-sơ-ra-ên phạm tất cả các tội Giê-rô-bô-am phạm, không từ một tội nào,
23 cho đến khi Chúa đuổi họ đi, như Ngài đã bảo tôi tớ Ngài là các tiên tri cảnh cáo họ trước. Như vậy, người Y-sơ-ra-ên bị đày qua A-sy-ri, và họ ở đó cho đến ngày nay.
24 Vua A-sy-ri đem dân ở Ba-by-luân, Cư-tha, A-va, Ha-mát và Sê-phạt-va-im đến định cư ở trong các thành của Sa-ma-ri và các thành khác của Y-sơ-ra-ên.
25 Khi mới đến đất Y-sơ-ra-ên, những người này không kính sợ Chúa Hằng Hữu, nên Ngài sai sư tử đến giết một số.
26 Khi vua A-sy-ri nhận được phúc trình: "Những người được đem qua Sa-ma-ri không biết luật của Thần địa phương, nên Thần ấy sai sư tử vồ họ chết."
27 Vua ra lệnh đem một thầy tế lễ Y-sơ-ra-ên đã bị đày trở về Sa-ma-ri, để dạy những người định cư luật lệ của Thần địa phương.
28 Vậy, một thầy tế lễ được đưa về Bê-tên, dạy những người mới đến cách kính sợ Chúa Hằng Hữu.
29 Tuy nhiên, những người này vẫn thờ thần của nước họ. Họ để tượng thần trong miếu trên đồi gần thành mình ở. Các miếu này đã được người Y-sơ-ra-ên xây cất trước kia.
30 Người Ba-by-luân thờ thần Su-cốt Bê-nốt; người Cúc thờ Nẹt-ganh; người Ha-mát thờ A-si-ma;
31 người A-va thờ Nếp-hát và Tạt-tác; người Sê-phạt-va-im thiêu con tế thần A-tra-mê-léc và A-na-mê-léc.
32 Tuy kính sợ Chúa Hằng Hữu, họ vẫn chỉ định người của mình làm chức tế lễ tại các miếu trên đồi để dâng lễ vật cho thần mình.
33 Như thế, họ vừa kính sợ Chúa, vừa thờ thần mình theo nghi thức cúng thờ tại quê hương.
34 Cho đến nay họ vẫn theo nghi thức cũ chứ không thực sự thờ phụng Chúa Hằng Hữu vì họ không theo đúng chỉ thị, luật lệ, điều răn của Chúa truyền cho con cháu Gia-cốp, người được Ngài đổi tên là Y-sơ-ra-ên.
35 Chúa Hằng Hữu đã kết ước với Y-sơ-ra-ên, theo đó họ không được thờ phụng, phục vụ, cúng tế các thần khác,
36 nhưng chỉ phụng sự thờ lạy và dâng lễ vật cho Chúa Hằng Hữu, Đấng đã đem họ ra khỏi Ai Cập với quyền năng và phép lạ;
37 họ phải tuân giữ điều răn, luật lệ và quy tắc của chính Ngài truyền cho, theo đó họ không được thờ thần khác.
38 Chúa Hằng Hữu đã cảnh cáo họ không được quên lãng giao ước này, không được thờ thần nào khác,
39 nhưng chỉ thờ một mình Chúa Hằng Hữu là Chân Thần mình. Chỉ như thế, họ mới được Chúa cứu khỏi quyền lực kẻ thù.
40 Nhưng những người ấy không nghe, cứ thờ lạy theo lối cũ.
41 Họ kính sợ Chúa Hằng Hữu, đồng thời cũng thờ thần tượng mình. Và cứ thế, đến nay con cháu họ vẫn theo đường lối ấy.
1 Vào năm thứ ba, đời Ô-sê con Ê-la vua Y-sơ-ra-ên, Ê-xê-chia con A-cha lên ngôi làm vua Giu-đa
2 lúc hai mươi lăm tuổi, và trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là A-bi con gái Xa-cha-ri.
3 Ê-xê-chia làm điều thiện trước mặt Chúa theo gương Đa-vít tổ tiên vua.
4 Vua phá hủy các miếu trên đồi, đập gãy các trụ thờ, đốn ngã các tượng A-sê-ra, bẻ nát con rắn đồng Mai-sen đã làm, vì lúc ấy, người Y-sơ-ra-ên đốt nhang thờ nó, gọi nó là Nê-hu-tan.
5 Ê-xê-chia hết lòng tin cậy Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, hơn bất cứ một vua Giu-đa nào khác, kể cả các vua đời trước lẫn đời sau.
6 Vua gần gũi gắn bó với Chúa, tuân giữ các điều răn Ngài truyền cho Mai-sen.
7 Vì thế, Chúa ở với vua, cho vua thành công trong mọi công việc. Một đằng, Ê-xê-chia chống nghịch vua A-sy-ri, không chịu thần phục nữa;
8 đằng khác, vua đi đánh quân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và vùng phụ cận, hủy phá các thành lũy kiên cố cho đến các vọng canh.
9 Việc Sanh-ma-na-se vua A-sy-ri vây thành Sa-ma-ri xảy ra vào năm thứ tư đời Ê-xê-chia, tức năm thứ bảy đời Ô-sê vua Y-sơ-ra-ên.
10 Ba năm sau, vào năm thứ sáu đời Ê-xê-chia (năm thứ chín đời Ô-sê), Sa-ma-ri thất thủ.
11 Đó là lúc vua A-sy-ri bắt người Y-sơ-ra-ên đem qua A-sy-ri, đày họ đến Cha-la, đến bờ sông Cha-bo ở Gô-xan và các thành trong nước Mã-đại.
12 Lý do vì họ không vâng lời Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế mình, vi phạm giao ước đã kết với Ngài, bất chấp luật lệ Mai-sen, tôi tớ Ngài.
13 Vào năm thứ mười bốn đời Ê-xê-chia, San-chê-ríp vua A-sy-ri đem quân đánh chiếm tất cả các thành kiên cố của Giu-đa.
14 Ê-xê-chia sai sứ đến La-ki nói với vua A-sy-ri: "Tôi có lỗi. Thỉnh cầu bệ hạ rút quân, tôi xin thực hiện mọi điều khoản bệ hạ đòi hỏi." Vua A-sy-ri đòi ba trăm ta-lâng bạc và ba mươi ta-lâng vàng.
15 Ê-xê-chia đem nạp tất cả số bạc trong Đền Thờ và trong kho hoàng gia.
16 Ê-xê-chia phải bóc vàng chính vua đã bọc cửa và trụ cửa Đền Thờ trước kia, để nạp cho vua A-sy-ri,
17 Tuy nhiên, vua A-sy-ri vẫn sai các tướng Tạt-tan, Ráp-sa-ri và Ráp-sa-kê từ La-ki kéo một đạo quân hùng mạnh đến Giê-ru-sa-lem. Họ đến đứng bên con đường đi sân thợ nện, cạnh bên cống ao trên,
18 đòi hội kiến với vua. Vua không tiếp, nhưng sai quản lý hoàng cung Ê-li-a-kim (em Hinh-kia), bí thư Sép-na và thái sử Giô-a con A-sáp ra gặp họ.
19 Ráp-sa-kê lên tiếng: "Các ngươi về nói lại với Ê-xê-chia những lời của đại đế A-sy-ri như sau: 'Ngươi mong chờ ai giúp đỡ?
20 Ngươi tưởng một lời hứa suông của người ngươi nhờ cậy cũng có giá trị như có đầy đủ binh mã, chiến lược trong tay để kháng cự với ta sao?
21 Ta biết lắm! Ngươi cậy thế Ai Cập chứ gì? Nhưng Ai Cập chỉ là một cây sậy bị dập! Ai nương tựa Pha-ra-ôn chỉ bị sậy dập đâm thủng tay mà thôi.
22 Có lẽ ngươi nói: Chúng tôi chỉ tin cậy nơi Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế chúng tôi. Thế thì, không phải chính ngươi đã phá dỡ bàn thờ Ngài trên các đồi, và bảo mọi người chỉ được thờ Ngài trước bàn thờ Giê-ru-sa-lem thôi hay sao?
23 Chủ ta, đại đế A-sy-ri, đánh cuộc với các ngươi: Nếu các ngươi còn đủ hai ngàn kỵ binh, thì chúng ta sẽ cấp cho hai ngàn con ngựa.
24 Đã không dám đánh cuộc, thì làm gì các ngươi kháng cự nổi một toán quân nhỏ nhất của chủ ta do một sĩ quan cấp úy chỉ huy! Thế thì, dù cho Ai Cập có viện trợ quân xa và kỵ binh, cũng chẳng nghĩa lý gì.
25 Hơn nữa, ngươi tưởng chúng ta tự ý đến đây đánh phá sao? Không, chính Chúa Hằng Hữu bảo chúng ta hủy diệt nước này.' "
26 Nghe đến đây, Ê-li-a-kim, Sép-na và Giô-a năn nỉ Ráp-sa-kê: "Xin ông làm ơn nói với chúng tôi bằng tiếng A-ram, chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói tiếng Hi-bá, vì sợ những người trên thành nghe được."
27 Nhưng Ráp-sa-kê trả lời: "Có phải chủ ta sai ta đến đây chỉ để nói riêng với chủ ngươi và các ngươi, chứ không nói với những người ngồi trên thành sao? Họ cũng chung số phận cùng các ngươi, sẽ phải ăn phân uống nước tiểu mình cả."
28 Nói xong, Ráp-sa-kê đứng dậy, la lớn lên bằng tiếng Hi-bá: "Lắng nghe đây lời đại đế A-sy-ri!
29 Đừng ai để cho Ê-xê-chia đánh lừa, vì hắn không cứu các ngươi khỏi tay ta được đâu.
30 Cũng đừng để cho Ê-xê-chia dụ các ngươi tin rằng Chúa Hằng Hữu sẽ giải cứu các ngươi và thành này khỏi quyền lực vua A-sy-ri.
31 Đừng nghe lời Ê-xê-chia, vì vua A-sy-ri có hứa: 'Nếu các ngươi cầu hòa và thần phục ta, thì ai nấy sẽ được ăn trái nho, trái vả vườn mình, uống nước giếng mình,
32 cho đến ngày ta đem các ngươi vào một xứ giống như xứ này, đầy đủ ngũ cốc, nho, ô-liu và mật ong. Các ngươi sẽ có bánh ăn, rượu uống, sống không thiếu thứ gì, lại còn khỏi vạ diệt vong.' Đừng tin lời Ê-xê-chia gạt gẫm, bảo rằng: 'Chúa sẽ giải cứu chúng ta.'
33 Thử nhìn các nước khác xem có thần nào cứu họ khỏi tay vua A-sy-ri được đâu.
34 Thần của các dân Ha-mát, ạt-bát, Sê-phạt-va-im, Hê-na và Y-va đã làm được gì? Các thần ấy có tiếp cứu Sa-ma-ri được không?
35 Có thần của nước nào đã cứu nước ấy khỏi tay ta chưa? Như thế làm sao Chúa Hằng Hữu cứu Giê-ru-sa-lem được?"
36 Một số thường dân nghe Ráp-sa-kê nói, nhưng giữ yên lặng, vì vua ra lệnh không ai được đối đáp với người A-sy-ri.
37 Quản lý hoàng cung Ê-li-a-kim, bí thư Sép-na và thái sử Giô-a xé áo, rồi trở về phúc trình cho Ê-xê-chia mọi lời của Ráp-sa-kê.
1 Nghe xong phúc trình, vua Ê-xê-chia xé áo, lấy vải bố quấn mình, đi lên Đền Thờ Chúa.
2 Vua bảo quản lý hoàng cung Ê-li-a-kim, bí thư Sép-na, và các thầy tế lễ mặc vải bố, đi gặp tiên tri Ê-sa con A-mốt,
3 trình bày lời này: "Ê-xê-chia nói: 'Hôm nay là ngày hoạn nạn, nhục nhã, xấu hổ. Cũng như bào thai đã đến ngày tháng mà mẹ không có đủ sức để sinh.
4 Chắc Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của ông, đã nghe những lời Ráp-sa-kê, tôi tớ của vua A-sy-ri, phỉ báng Thượng Đế Hằng Sống, và chắc Ngài sẽ trách phạt những người ấy. Xin ông cầu nguyện cho những người còn sống.' "
5,6 Ê-sa trả lời với mấy người được Ê-xê-chia sai đến gặp ông: "Các ông trở về tâu trình cho vua lời phán của Chúa: 'Đừng sợ những lời phạm thượng của tôi tớ vua A-sy-ri.
7 Ta sẽ hướng dẫn tư tưởng vua này để khi nghe tin đồn, vua ấy vội bỏ về để rồi bị giết trong đất mình.' "
8 Trên đường về, Ráp-sa-kê được tin vua A-sy-ri đã rời La-ki, nên đi thẳng đến Líp-na để gặp vua, khi vua đang vây đánh thành này.
9 Vua cũng được tin Tiệt-ha-ca vua Ê-thi-ô-bi đem quân đến tấn công, nên sai sứ đi nói với Ê-xê-chia:
10 "Đừng để Thượng Đế mà ngươi tin cậy lừa dối ngươi bằng cách hứa hẹn sẽ không để cho Giê-ru-sa-lem lọt vào tay ta.
11 Ngươi đã nghe tiếng các vua A-sy-ri rằng đi đến đâu họ hủy phá tan tành đến đó. Phần ngươi sẽ thoát được sao?
12 Thần của các nước khác có cứu được ai đâu, vì cha ông ta đã tiêu diệt Giô-xan, Ha-ran, Rết-sép và Ê-đen ở Tê-la-sa.
13 Còn vua các nước Ha-mát, ạt-bát, Sê-phạt-va-im, Hê-na và Y-va bây giờ ở đâu?"
14 Ê-xê-chia nhận thư do sứ thần A-sy-ri giao tận tay. Đọc xong, vua vội lên Đền Thờ Chúa, trải thư ra trước mặt Chúa,
15 và cầu nguyện: "Lạy Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, Đấng ngồi trên ngai giữa các thiên thần. Chỉ có Chúa là Thượng Đế của các nước thế gian. Chính Chúa đã sáng tạo vũ trụ.
16 Lạy Chúa, xin lắng tai nghe. Lạy Chúa, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe lời của San-chê-ríp phỉ báng Thượng Đế Hằng Sống.
17 Lạy Chúa, các vua A-sy-ri quả có tàn phá đất đai của các quốc gia ấy,
18 và đốt thần của họ. Nhưng các thần tượng này chỉ là những sản phẩm bằng gỗ, bằng đá của tay loài người, chứ đâu phải chân thần, nên mới bị thiêu hủy.
19 Vì thế, bây giờ, lạy Chúa Hằng Hữu, Chân Thần của chúng con! Xin Chúa cứu giúp chúng con khỏi tay San-chê-ríp, để tất cả các nước khắp thế giới đều biết rằng chỉ có Chúa Hằng Hữu là Chân Thần!"
20 Ê-sa con A-mốt nhắn lời với Ê-xê-chia như sau: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, phán: 'Ta đã nghe lời con cầu nguyện về vụ San-chê-ríp vua A-sy-ri rồi.'
21 Và đây là lời Chúa Hằng Hữu phán về việc ấy: 'Các trinh nữ ở Si-ôn coi thường ngươi, các cô gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu, khinh bỉ.
22 Ngươi phỉ báng, nhục mạ ai, lên giọng, nhướng mắt với ai? Với Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên sao?
23 Ngươi dám sai sứ chế nhạo Chúa Hằng Hữu. Ngươi còn khoác lác: "Đem theo vô số ngựa xe, ta lên đỉnh núi cao, ta ngự chót núi Li-ban; ta đốn cây bách hương cao nhất, hạ cây trắc bá tốt nhất ở đó; ta vào chiếm nơi ở xa xôi, đám rừng rậm nhất của họ;
24 ta đào giếng, uống nuớc xứ người; ta dẫm nát, làm cạn khô các dòng sông Ai Cập."
25 Tất cả những điều này, Ta, Chúa Hằng Hữu, đã định trước, ngươi không biết sao? Ta đã quyết định từ xưa cho phép ngươi biến các thành lũy kiên cố thành đống gạch vụn,
26 dân các thành này không sức chống cự mà chỉ kinh hoàng, bối rối. Họ giống như cây cỏ ngoài đồng, trên nóc nhà, khô héo khi còn non.
27 Nơi ngươi ở, cách ngươi đi đứng ra vào, việc ngươi nổi giận với Ta (Ta biết cả).
28 Vì ngươi giận Ta, nên Ta lấy móc xỏ mũi ngươi, đặt khớp vào miệng ngươi, lôi đầu ngươi lại, bắt ngươi trở lại con đường ngươi đến.'
29 "Đây là dấu hiệu cho biết những lời này sẽ ứng nghiệm: Năm nay Giu-đa nuôi mình bằng hoa quả, thóc lúa tự mọc lên; sang năm họ sẽ thu hoạch hoa mầu sản xuất do hạt giống rơi rớt vào vụ gặt trước; nhưng đến năm thứ ba, họ sẽ gieo và gặt, trồng nho và ăn trái.
30 Trong đất Giu-đa, cây nào còn lại sẽ đâm rễ và kết quả.
31 Thành Giê-ru-sa-lem và núi Si-ôn sẽ là nơi xuất phát số người Giu-đa còn lại, Chúa Hằng Hữu sẽ sốt sắng thực hiện việc này."
32 Về vua A-sy-ri, Chúa phán: "Vua ấy sẽ không được vào thành này; không đến trước thành đắp lũy tấn công; không đeo khiên, bắn tên vào thành;
33 nhưng sẽ theo đường cũ, quay về nước.
34 Ta sẽ vì Danh Ta và vì Đa-vít tôi tớ Ta bảo vệ và cứu giúp thành này."
35 Ngay đêm ấy, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu giết chết 185.000 tướng sĩ A-sy-ri. Sáng hôm sau, người ta thấy xác chết nằm ngổn ngang.
36 San-chê-ríp vua A-sy-ri phải chạy trốn về Ni-ni-ve.
37 Một hôm, vua này đang cúng lạy thần Nít-róc trong miếu, thì hai con trai vua là A-tra-mê-léc và Sa-rê-xe đâm vua chết. Họ chạy đến đất A-ra-rát ẩn thân. Một con trai khác của San-chê-ríp là Ê-sạt-ha-đôn lên kế vị.
1 Vào lúc ấy, Ê-xê-chia mang bệnh nặng, gần chết. Tiên tri Ê-sa đến thăm, tâu với vua: "Chúa bảo bệ hạ lo thu xếp mọi việc, vì sẽ không qua khỏi."
2 Ê-xê-chia quay mặt vào tường cầu nguyện:
3 "Lạy Chúa Hằng Hữu, xin Chúa nhớ cho, con đã hết lòng trung thành với Chúa, làm điều ngay trước mặt Ngài." Rồi, vua khóc nức nở.
4 Trước khi Ê-sa ra khỏi hoàng cung, Chúa Hằng Hữu phán bảo ông:
5 "Quay lại, nói với Ê-xê-chia, vua của dân Ta, như sau: 'Thượng Đế Hằng Hữu của Đa-vít, ông tổ của con, đã nghe lời con cầu nguyện và đã thấy nước mắt con. Ta sẽ chữa con khỏi bệnh. Ba ngày nữa, con sẽ lên Đền Thờ Ta.
6 Ta sẽ cho con sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ cứu con và thành này khỏi tay vua A-sy-ri. Vì Danh Ta và vì Đa-vít, tôi tớ Ta, Ta sẽ bảo vệ thành này.' "
7 Ê-sa bảo người ta lấy một cái bánh trái vả đem đắp lên mụt nhọt của Ê-xê-chia, thì vua lành bệnh.
8 Ê-xê-chia hỏi Ê-sa: "Có điều gì chứng tỏ Chúa sẽ chữa lành cho tôi, và ba ngày nữa tôi được lên Đền Thờ Ngài?"
9 Ê-sai đáp: "Có. Chúa sẽ làm điều này để chứng tỏ Ngài sắp thực hiện lời hứa. Bệ hạ muốn bóng mặt trời tới mười khắc hay lui mười khắc trên đồng hồ mặt trời?"
10 Ê-xê-chia đáp: "Bóng mặt trời tới thì có gì là lạ. Xin cho nó lui mười khắc."
11 Tiên tri Ê-sa kêu xin Chúa, và Ngài cho bóng mặt trời lùi lại mười khắc trên đồng hồ mặt trời A-cha.
12 Nghe tin vua Giu-đa khỏi bệnh, Bê-rô-đác Ba-la-đan con trai Ba-la-đan vua Ba-by-luân sai sứ thần mang thư và lễ vật đến chúc mừng Ê-xê-chia.
13 Ê-xê-chia nồng nhiệt đón tiếp, và đưa họ đi xem các kho tàng chứa vàng, bạc, hương liệu, dầu quý, vũ khí và mọi thứ khác, không chừa một thứ nào cả.
14 Tiên tri Ê-sa đến, hỏi Ê-xê-chia: "Những người này từ đâu đến? Họ nói gì với bệ hạ?" Ê-xê-chia trả lời: "Họ đến từ một nước xa xăm là Ba-by-luân."
15 Ê-sa hỏi tiếp: "Bệ hạ cho họ xem những gì trong cung?" Ê-xê-chia đáp: "Tất cả. Chẳng có thứ gì trong kho mà ta không cho họ xem."
16 Đến đây Ê-sa nói: "Xin bệ hạ lắng nghe lời Chúa Hằng Hữu:
17 'Sẽ đến lúc mọi vật trong cung bệ hạ phải bị chở sang Ba-by-luân, kể cả những vật tích lũy từ đời các tiên vương đến nay, không sót một món.
18 Một số hoàng tử sẽ bị bắt đi làm thái giám cho vua Ba-by-luân.' "
19 Ê-xê-chia nói: "Lời của Chúa do tiên tri thuật là lời lành." Vì vua tự nghĩ: "ít ra trong đời ta cũng được hòa bình an ổn."
20 Các việc khác của Ê-xê-chia, thế lực của vua, việc xây hồ chứa nước, lập hệ thống dẫn nước vào kinh thành, đều được chép trong sách sử ký các vua Giu-đa.
21 Ê-xê-chia an giấc với tổ tiên, và Ma-na-se con trai vua lên kế vị.
1 Ma-na-se được mười hai tuổi lúc lên ngôi, và cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Hép-si-ba.
2 Ma-na-se làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu, theo con đường tội lỗi của các thổ dân đã bị Chúa đuổi ra khỏi đất này để lấy đất cho người Y-sơ-ra-ên ở.
3 Vua dựng lại các miếu trên đồi đã bị Ê-xê-chia cha mình phá hủy; xây bàn thờ Ba-anh, dựng tượng A-sê-ra như A-háp vua Y-sơ-ra-ên đã làm, và thờ tất cả các tinh tú trên trời.
4,5 Vua xây bàn thờ các tinh tú trong hai hành lang Đền Thờ, đặt bàn thờ tà thần trong Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem, là thành được Chúa chọn để mang Danh Ngài.
6 Vua đem con mình thiêu sống tế thần; học coi bói, coi điềm, nghe lời đồng bóng, phù thủy. Vua làm điều cực ác, chọc giận Chúa.
7 Ma-na-se còn chạm tượng A-sê-ra, đem vào đặt trong Đền Thờ, bất tuân lời Chúa đã phán với Đa-vít và Sa-lô-môn: "Đền Thờ này và thành Giê-ru-sa-lem là nơi được Ta chọn để mang Danh Ta mãi mãi.
8 Nếu người Y-sơ-ra-ên tuân theo lệnh Ta, tức các luật lệ Mai-sen đã truyền cho họ, thì Ta sẽ không bắt họ phải bị lưu lạc nữa;
9 nhưng họ không nghe lời Ta." Ngoài ra, Ma-na-se còn xúi giục họ làm nhiều điều ác hơn cả các thổ dân ở đây trước kia, là các dân đã làm ác nên bị Chúa tiêu diệt và lấy đất này cho dân Y-sơ-ra-ên ở.
10 Vì thế Chúa Hằng Hữu phán qua các đầy tớ Ngài rằng:
11 "Vì Ma-na-se vua Giu-đa đã làm những điều đáng ghê tởm này, là những điều thất nhơn ác đức còn hơn cả thổ dân Am-môn trước kia, và xúi dân Giu-đa thờ thần tượng,
12 nên Ta, Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, sẽ giáng họa trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, khiến cho ai nghe tin này cũng phải bàng hoàng.
13 Ta sẽ lấy dây đo Sa-ma-ri và dây dò nhà A-háp giăng trên Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ quét sạch Giê-ru-sa-lem như một người chùi sạch cái đĩa, rồi úp nó xuống.
14 Ta sẽ từ bỏ những người còn lại, mặc dù họ vốn thuộc về Ta, và giao họ cho quân thù. Họ trở thành miếng mồi, và chiến lợi phẩm của địch.
15 Vì họ làm điều ác trước mặt Ta, chọc Ta giận từ ngày tổ tiên họ được đem ra khỏi Ai Cập đến nay."
16 Ngoài tội xúi giục Giu-đa thờ thần tượng, Ma-na-se còn giết nhiều người vô tội, làm cho máu họ tràn ngập Giê-ru-sa-lem.
17 Các việc khác của Ma-na-se, tội lỗi vua làm, đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
18 Ma-na-se chết, và được chôn trong ngự uyển U-sa. Con Ma-na-se là A-môn lên kế vị.
19 A-môn lên ngôi lúc hai mươi tuổi, và cai trị hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Mê-su-lê-mết con Ha-rút ở Giô-ba.
20 Vua làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu cũng như Ma-na-se cha mình.
21 Vua theo đúng đường lối cha mình, thờ các thần tượng cha mình đã thờ;
22 bỏ Thượng Đế Hằng Hữu của tổ tiên mình, không theo đường lối của Ngài.
23 Các tôi tớ A-môn làm phản, giết A-môn ngay trong cung vua.
24 Nhưng nhân dân nổi lên giết hết những người phản loạn, rồi lập Giô-si-a con A-môn lên làm vua.
25 Các việc khác của A-môn đều được chép trong sách lịch sử của các vua Giu-đa.
26 A-môn được chôn trong mộ tại vườn U-xa. Giô-si-a lên kế vị.
1 Lúc lên làm vua, Giô-si-a chỉ mới tám tuổi, và làm vua ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ Giô-si-a là Giê-đi-đa, con của A-đa-gia ở Bô-cát.
2 Vua làm điều thiện trước mặt Chúa, noi gương Đa-vít tổ tiên mình không sai lạc.
3,4 Năm thứ mười tám đời Giô-si-a, vua sai bí thư Sa-phan (con A-xa-lia, cháu Mê-su-lam) đến Đền Thờ Chúa, chỉ thị cho thầy tế lễ tối cao Hinh-kia: "Kiểm điểm số bạc nhân dân đem lên Đền Thờ dâng cho Chúa;
5,6 rồi đem bạc này giao cho các giám thị Đền Thờ để họ mướn thợ mộc, thợ hồ, cùng mua gỗ và đá sửa chữa Đền.
7 Vì các giám thị là những người trung thực, nên đừng buộc họ giữ sổ sách chi tiêu."
8 Một ngày nọ, thầy tế lễ tối cao Hinh-kia báo cho bí thư Sa-phan hay: "Tôi tìm được quyển kinh luật trong Đền Thờ Chúa rồi!" Nói xong, ông trao sách cho Sa-phan. Sa-phan lấy đọc.
9 Khi trở về, Sa-phan phúc trình với vua như sau: "Chúng tôi đã thu thập số bạc, đem giao cho các giám thị Đền Thờ như lời bệ hạ dặn."
10 Ông nói tiếp: "Thầy tế lễ Hinh-kia có đưa cho tôi quyển sách này." Và ông đọc cho vua nghe.
11 Nghe xong, vua xé rách áo mình;
12 rồi ra lệnh cho thầy tế lễ Hinh-kia, bí thư Sa-phan, A-hi-cam con Sa-phan, Ách-bô con Mi-ca-gia, và A-sa-gia tôi tớ mình như sau:
13 "Xin các ông vì tôi, vì nhân dân, vì đất nước Giu-đa, đi cầu hỏi Chúa Hằng Hữu về những lời chép trong sách mới tìm được này. Chắc Ngài giận chúng ta lắm, vì từ đời tổ tiên ta đến nay, sách luật này đã không được tôn trọng."
14 Vậy, thầy tế lễ Hinh-kia cùng đi với Sa-phan, A-hi-cam, Ách-bô và A-sa-gia đến quận nhì thành Giê-ru-sa-lem tìm nữ tiên tri Hun-đa vợ Sa-lum (người giữ áo lễ, con Tiếc-va, cháu Hạt-ha) để trình bày sự việc.
15,16 Bà truyền lại cho họ lời của Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên như sau: "Hãy nói với người sai các ngươi đến đây: 'Ta sẽ giáng họa trên đất và dân này, đúng theo điều được ghi trong sách luật.
17 Vì nhân dân đã từ bỏ Ta, đốt nhang cho các thần khác, chọc Ta giận, và Ta sẽ giận đất này không nguôi.
18,19 Riêng phần ngươi, vì ngươi có lòng hối hận, hành động khiêm nhu trước mặt Chúa khi nghe đọc lời Ta nói về đất này sẽ bị bỏ hoang và nguyền rủa, ngươi đã xé rách áo mình, khóc lóc trước mặt Ta, nên Ta nghe lời cầu nguyện ngươi.
20 Ta sẽ cho ngươi qua đời trong lúc còn hòa bình, và không thấy tai họa Ta giáng xuống đất này.' " Họ trình lại những lời này cho vua.
1 Vua triệu tập tất cả trưởng lão trong toàn quốc và kinh thành Giê-ru-sa-lem lại.
2 Họ theo vua lên Đền Thờ Chúa với các thầy tế lễ, tiên tri và nhân dân, cả lớn lẫn bé. Vua đọc cho họ nghe quyển sách luật vừa tìm được trong Đền Thờ.
3 Vua đứng bên trụ cột, hứa nguyện trung thành với Chúa, hết lòng tuân giữ điều răn, luật lệ chép trong sách. Toàn dân cũng hứa nguyện như thế.
4 Vua ra lệnh cho thầy tế lễ tối cao Hinh-kia, các thầy tế lễ, và những người coi giữ Đền lấy tất cả những vật dùng cho việc cúng tế Ba-anh, A-sê-ra và các tinh tú trên trời đem ra đồng Kít-rôn, bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem, thiêu hủy hết, rồi lấy tro bỏ tại Bê-tên.
5 Vua cũng phế bỏ chức tế lễ cho các tà thần do các vua đời trước lập lên để lo việc cúng tế, đốt nhang trong các miếu trên đồi, khắp nước Giu-đa và chung quanh Giê-ru-sa-lem, là những người đã đốt nhang cho Ba-anh, mặt trời, mặt trăng, và các tinh tú.
6 Vua sai đem tượng A-sê-ra trong Đền Thờ Chúa ra bên suối Kít-rôn (ngoài thành Giê-ru-sa-lem) thiêu hủy, nghiền nát, rồi đem tro bỏ trên mồ thường dân.
7 Giô-si-a phá các nhà chứa đĩ đực trong khuôn viên Đền Thờ, là nơi các phụ nữ đã dệt áo cho thần A-sê-ra.
8 Vua tập trung các thầy tế lễ tà thần từ khắp nơi trong nước lại một chỗ, triệt hạ các miếu trên đồi, nơi trước kia họ đã từng đốt nhang, từ Ghê-ba cho đến Bê-e-sê-ba. Vua cũng phá hủy các miếu nơi cổng ra vào dinh Giô-suê, tổng trấn Giê-ru-sa-lem. Dinh này ở bên trái cổng thành, nếu nhìn từ bên ngoài vào.
9 Tuy các thầy tế lễ của các miếu trên đồi không được đến gần bàn thờ của Chúa tại Giê-ru-sa-lem, nhưng họ được ăn bánh không men với các anh em mình.
10 Giô-si-a phá hủy bàn thờ Tô-phết tại thung lũng Con Trai Hi-nôm, để không ai còn thiêu sống con trai mình làm của lễ tế thần Mô-lóc nữa.
11 Vua bỏ đi các tượng ngựa dựng gần cổng Đền Thờ, trước dinh của thái giám Nê-than Mê-léc; còn các xe ngựa vua cũng đốt hết. Tượng ngựa và các xe này được các vua Giu-đa đời trước dâng cho thần mặt trời.
12 Vua phá các bàn thờ các vua đời trước xây trên nóc lầu A-cha; còn các bàn thờ Ma-na-se đã xây trong hai hành lang Đền Thờ Chúa vua cũng đập tan nát rồi đem bụi đổ xuống suối Kít-rôn.
13 Vua cũng phá hủy các miếu trên đồi về phía đông Giê-ru-sa-lem và phía nam đồi Tham Nhũng. Các miếu này được vua Sa-lô-môn cất để thờ Át-tạt-tê, Kê-mốt, Minh-côm, là các thần đáng tởm của người Si-đôn, Mô-áp và Am-môn,
14 Vua nghiền nát các trụ thờ, đốn ngã tượng A-sê-ra, lấy xương người chết bỏ đầy các nơi này.
15 Giô-si-a phá tan bàn thờ và miếu trên đồi Bê-tên do Giê-rô-bô-am con Nê-bát, là người đã xúi Y-sơ-ra-ên phạm tội, xây lên. Vua nghiền tượng đá nát ra như cám, còn tượng A-sê-ra vua đốt đi.
16 Khi Giô-si-a nhìn quanh thấy trên đồi có những nấm mồ, liền sai người đào lấy xương, đem đốt trên bàn thờ để làm cho nó ô uế, đúng như lời Chúa Hằng Hữu dùng sứ giả loan báo trước.
17 Vua hỏi: "Đằng kia có cái bia gì thế?" Những người ở thành này đáp: "Đó là mộ người của Thượng Đế, từ Giu-đa đến, nói tiên tri về những việc vua vừa mới làm cho bàn thờ Bê-tên này."
18 Vua ra lệnh: "Không ai được đụng đến mộ ấy." Vì thế không ai đụng đến mồ này cũng như mồ của tiên tri già ở Sa-ma-ri.
19 Ngoài ra, Giô-si-a còn phá hủy các miếu trên đồi tại các thành thuộc xứ Sa-ma-ri mà các vua Y-sơ-ra-ên trước kia đã xây cất và chọc Chúa giận. Cũng như các miếu tại Bê-tên, các miếu ấy bị Giô-si-a phá tan tành.
20 Vua bắt các thầy tế lễ tà thần phục vụ tại các miếu này và đem giết hết trên bàn thờ của họ. Ngoài ra, vua còn lấy xương người chết đốt trên bàn thờ. Xong việc, vua trở về Giê-ru-sa-lem.
21 Vua truyền cho toàn dân phải giữ lễ Vượt Qua theo đúng lệnh của Chúa Hằng Hữu được chép trong Sách Giao Ước.
22 Từ đời các thẩm phán cũng như dưới đời các vua Y-sơ-ra-ên và vua Giu-đa từ trước đến nay mới có một lễ Vượt Qua cử hành long trọng như thế.
23 Lễ Vượt Qua này được cử hành tại Giê-ru-sa-lem vào năm thứ mười tám đời vua Giô-si-a.
24 Ngoài ra, Giô-si-a còn trừ diệt những bọn đồng bóng, phù thủy, cấm thờ các thần trong nhà, tất cả các thần tượng khác trong thành Giê-ru-sa-lem, và cả nước Giu-đa. Vua triệt để thi hành từng điều khoản chép trong Sách Luật thầy tế lễ Hinh-kia đã tìm thấy trong Đền Thờ Chúa.
25 Những đời vua trước cũng như các đời vua sau, không một vua nào hết lòng, hết tâm hồn, hết sức, hướng về Chúa Hằng Hữu và triệt để tuân hành luật Mai-sen như Giô-si-a.
26 Tuy nhiên, vì tội lỗi của Ma-na-se đã khiêu khích Chúa quá độ, nên Ngài vẫn không nguôi cơn phẫn nộ.
27 Ngài phán: "Ta sẽ đuổi Giu-đa đi khỏi mặt Ta, như Ta đã đuổi Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ loại bỏ Giê-ru-sa-lem Ta đã chọn, loại bỏ cả Đền Thờ Ta đã phán: 'Danh Ta sẽ ở đó. ' "
28 Các việc khác của Giô-si-a đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
29 Lúc ấy, Nê-cô vua Ai Cập đi đánh vua A-sy-ri tại Phát-giang. Vua Giô-si-a đến gặp vua Ai Cập. Nhưng khi vừa trông thấy, Nê-cô liền giết chết Giô-si-a tại chỗ.
30 Các bầy tôi chở thây Giô-si-a từ Mê-ghi-đô về Giê-ru-sa-lem, và chôn trong ngôi mộ của vua. Nhân dân tôn Giô-a-cha con Giô-si-a lên làm vua kế vị.
31 Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi lúc lên ngôi, và cai trị ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Ha-mu-ta con Giê-rê-mi ở Líp-na.
32 Vua làm điều ác trước mặt Chúa giống như các vua đời trước.
33 Nê-cô vua Ai Cập bắt Giô-a-cha giam tại Ríp-ba thuộc đất Ha-mát, không cho làm vua tại Giê-ru-sa-lem, và bắt Giu-đa phải nạp cống một trăm ta-lâng bạc và một ta-lâng vàng.
34 Nê-cô lập một người con khác của Giô-si-a là Ê-lê-a-kim lên làm vua, và đổi tên ra Giê-hô-gia-kim. Nê-cô cũng đem Giô-a-cha về Ai Cập, và giam giữ cho đến chết.
35 Giê-hô-gia-kim đánh thuế dân, lấy vàng, bạc, nạp cho Nê-cô vua Ai Cập.
36 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi lúc lên ngôi, và cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Xê-bu-đa con Phê-đa-gia ở Ru-ma.
37 Vua làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu như các vua đời trước đã làm.
1 Lúc ấy, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-luân đem quân đến đánh Giu-đa. Sau ba năm chịu thần phục, Giê-hô-gia-kim nổi lên chống lại Ba-by-luân.
2 Chúa khiến các nước Canh-đê, Sy-ri, Mô-áp và Am-môn đem quân đến tàn phá Giu-đa theo lời Ngài đã dùng các tiên tri tôi tớ Ngài phán trước.
3 Hiển nhiên việc Giu-đa gặp tai họa là do Chúa xếp đặt. Ngài muốn đuổi họ đi khỏi mặt Ngài, vì tội lỗi ngập trời của Ma-na-se,
4 người đã làm cho Giê-ru-sa-lem đầy dẫy máu vô tội, đến độ Chúa không dung thứ được nữa.
5 Các việc khác của Giê-hô-gia-kim đều được chép trong sách lịch sử các vua Giu-đa.
6 Giê-hô-gia-kim an giấc với tổ tiên, và Giê-hô-gia-kin con vua lên kế vị.
7 Từ khi vua Ba-by-luân chiếm cả vùng, từ suối Ai Cập cho đến Phát-giang, là vùng trước kia thuộc Ai Cập, vua Ai Cập không còn lai vãng đến đất Giu-đa nữa.
8 Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi lúc lên ngôi, cai trị ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Nê-hu-ta con Ên-na-than ở Giê-ru-sa-lem.
9 Vua làm điều ác trước mặt Chúa, như các vua đời trước.
10 Khi quân Ba-by-luân do Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-luân đích thân chỉ huy kéo đến vây Giê-ru-sa-lem,
11,12 Giê-hô-gia-kin đem mẹ, tôi tớ, hoàng tộc, và các thái giám ra đầu hàng. Vua Ba-by-luân bắt Giê-hô-gia-kin sau khi lên ngôi được tám năm.
13 Người Ba-by-luân chở về nước tất cả bảo vật của Đền Thờ và hoàng cung. Họ bóc hết vàng bọc các dụng cụ trong Đền Thờ từ đời Sa-lô-môn. Những việc này xảy ra đúng như lời Chúa phán trước.
14-16 Họ bắt mười ngàn người ở Giê-ru-sa-lem đem về Ba-by-luân. Giê-hô-gia-kin cũng bị bắt đi cùng với thái hậu, hoàng hậu và các thái giám và hoàng tộc. Trong số mười ngàn này, có bảy ngàn lính thiện chiến và một ngàn thợ đủ loại, kể cả thợ rèn. Họ chỉ để những người nghèo khổ ở lại.
17 Vua Ba-by-luân đặt Ma-tha-nia chú của Giê-hô-gia-kin lên làm vua và đổi tên là Sê-đê-kia.
18 Sê-đê-kia được mười tám tuổi lúc lên ngôi, và cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Ha-mu-ta con Giê-rê-mi ở Líp-na.
19 Vua làm điều ác trước mặt Chúa như Giê-hô-gia-kin đã làm.
20 Như thế, Chúa giận người Giu-đa và dân thành Giê-ru-sa-lem đến độ phải đuổi họ đi khỏi mặt Ngài.
Sau đó, Sê-đê-kia nổi lên chống Ba-by-luân.
1 Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-luân huy động toàn lực kéo đến vây Giê-ru-sa-lem vào ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín đời Sê-đê-kia. Quân Ba-by-luân đắp lũy quanh thành để công hãm.
2 Thành bị vây mãi cho đến năm thứ mười một đời Sê-đê-kia,
3 vào ngày mồng chín tháng tư, lương thực trong thành đã cạn sạch, nạn đói rất trầm trọng.
4,5 Tối hôm ấy, vua Giu-đa và quân lính đục thủng vách tường, trốn thoát ra cửa nằm giữa hai vách thành cạnh vườn ngự uyển, rồi chạy về hướng A-ra-ba. Một số quân Canh-đê đang vây thành đuổi theo và bắt kịp vua Giu-đa tại đồng bằng Giê-ri-cô. Quân Giu-đa bỏ vua, chạy tán loạn.
6 Sê-đê-kia bị bắt giải về Ríp-la để chịu xét xử trước mặt vua Ba-by-luân.
7 Người Ba-by-luân đem các con Sê-đê-kia ra giết ngay trước mặt vua, rồi móc mắt vua và xiềng vua lại, giải về Ba-by-luân.
8 Ngày mồng bảy tháng năm, năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-luân, Nê-bu-xa-ra-đan, là tư lệnh vệ binh Ba-by-luân, đến Giê-ru-sa-lem.
9 Viên tướng này đốt Đền Thờ của Chúa, cung điện, và các dinh thự ở Giê-ru-sa-lem;
10 rồi ra lệnh cho quân đội phá đổ bức tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem.
11 Nê-bu-xa-ra-đan bắt những người còn lại trong thành Giê-ru-sa-lem và những người đào ngũ đã đầu hàng vua Ba-by-luân trước kia đem đi đày.
12 Chỉ một số ít những người nghèo khổ nhất được để lại để trồng nho, làm ruộng.
13 Người Canh-đê triệt hạ các trụ đồng, cái hồ đựng nước và chân hồ, lấy đồng đem về Ba-by-lôn.
14 Họ lấy nồi, xuổng, kéo cắt tim đèn, muỗng và tất cả những dụng cụ bằng đồng khác trong Đền Thờ,
15 kể cả cái đĩa đựng than hồng và bát chén. Những món gì bằng vàng, bằng bạc, đều bị viên tư lệnh vệ binh tóm thu cả.
16 Không ai tính nổi số đồng họ lấy từ hai cây trụ, cái hồ và chân hồ trong Đền Thờ làm từ đời Sa-lô-môn.
17 Về chiều cao của trụ, mỗi trụ cao đến chín mét. Bên trên trụ có đầu trụ cũng bằng đồng, cao một mét rưỡi. Quanh đầu trụ có lưới kết quả lựu đồng.
18 Viên tư lệnh vệ binh bắt thầy tế lễ tối cao Sê-ra-gia, phó tế Sê-pha-nia, ba người canh cửa Đền Thờ,
19 một sĩ quan chỉ huy quân đội Giu-đa, năm hội viên tư vấn triều đình, bí thư của tư lệnh quân đội phụ trách chức vụ chiêu mộ quân lính trong nước, và sáu mươi thường dân tìm thấy trong thành,
20,21 giải họ đến cho vua Ba-by-luân tại Ríp-la, thuộc Ha-mác. Vua Ba-by-luân giết họ tại đó. Như vậy người Giu-đa bị đày ra khỏi nước.
22 Nê-bu-cát-nết-sa bổ nhiệm Ghê-đa-lia con A-hi-cam cháu Sa-phan làm thống đốc cai trị những người còn lại trong nước Giu-đa.
23 Nghe tin vua Ba-by-luân phong Ghê-đa-lia làm thống đốc, các sĩ quan chỉ huy quân đội kháng chiến dẫn anh em binh sĩ đến Mích-ba gặp Ghê-đa-lia. Nhóm này gồm có Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, Giô-ha-nan con Ka-rê-át, Sê-ra-gia con Tan-hu-mết ở Nê-tô-phát, và Gia-a-xa-nia con Ma-ca-thít.
24 Ghê-đa-lia thề với nhóm sĩ quan và binh sĩ ấy như sau: "Anh em đừng sợ những viên chức người Canh-đê. Nếu anh em bằng lòng phục vụ vua Ba-by-luân, anh em sẽ được ở lại trong nước bình an vô sự."
25 Nhưng bảy tháng sau, Ích-ma-ên con Nê-tha-nia cháu Ê-li-sa-na, người thuộc hoàng tộc, dẫn theo mười người đến Mích-ba giết Ghê-đa-lia và tất cả những người Canh-đê, cùng với người Do Thái đang ở với Ghê-đa-lia.
26 Sau đó, các sĩ quan này cùng với mọi người Giu-đa khác sang Ai Cập tị nạn, vì sợ người Canh-đê.
27 Vừa lên ngôi làm vua Ba-by-luân, Ê-vinh-mê-rô-đác tha Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi ngục. Việc này xảy ra vào ngày hai mươi bảy tháng mười hai, năm thứ ba mươi bảy, tính từ lúc vua Giu-đa bị bắt.
28 Vua Ba-by-luân nói lời hòa nhã với Giê-hô-gia-kin, và cất nhắc người lên hàng cao trọng hơn các vua khác cũng đang bị giam giữ ở Ba-by-luân với Giê-hô-gia-kin.
29,30 Từ hôm ấy, Giê-hô-gia-kin không còn phải mặc áo tù nữa, nhưng mỗi ngày được ăn uống tại bàn của vua, mỗi ngày được vua phát cho một món phụ cấp, và cứ thế cho đến khi Giê-hô-gia-kin qua đời.