1-4 A-đam, Sết, Ê-nót, Cai-nan, Ma-ha-la-le, Gia-rệt, Hê-nóc, Mê-tu-sê-la, Lê-méc, Nô-ê; Sem, Cham và Gia-phết.
5-9 Con trai của Gia-phết là:
Gô-me, Ma-gót, Mã-đại, Gia-van, Tu-banh, Mê-siết, và Ti-ra. Con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Đi-phát, và Tô-ga-ma. Con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim và Rô-đa-nim.
Con trai của Cham là:
Cúc, Ai Cập, Phút và Ca-na-an. Con trai của Cúc là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ma, và Sáp-tê-ca. Con trai của Ra-ê-ma là Sê-ba và Đê-đan.
10 Một con trai khác của Cúc là:
Vị anh hùng nổi danh Nim-rốt.
11,12 Dòng dõi Ai Cập gồm các đại tộc:
họ Lu-đim, họ A-na-mim, họ Lê-ha-bim, họ Náp-tu-him, họ Bát-ru-sim, họ Cách-lu-him (tổ phụ của người Phi-li-tin) và họ Cáp-tô-rim.
13-16 Ca-na-an sinh Si-đôn (trưởng nam),
Hết và các tộc trưởng các đại tộc Giê-bu, A-mô, Ghi-rê-ga, Hê-vi, A-réc, Si-nít, A-va, Xê-ma và Ha-ma.
17 Con trai của Sem là:
Ê-lam, A-su-rơ, A-bác-sát, Lút và A-ram; A-ram sinh: Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te, và Mách.
18 A-bác-sát sinh Sê-lách;
Sê-lách sinh Hê-be.
19 Hê-be sinh:
Phê-lét và Giốc-tan.
(Phê-lét nghĩa là ‘chia rẽ’ vì sinh vào lúc các dân tộc chia ra nhau thành từng nhóm ngôn ngữ khác nhau.)
20-23 Con trai của Giốc-tan là:
Ha-đô-ram, U-xa, Điệt-la, Ê-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp.
24-27 Con trai của Sem là: A-bác-sát. A-bác-sát sinh Sê-lách.
Sê-lách sinh Hê-be.
Hê-be sinh Phê-lét.
Phê-lét sinh Rê-hu.
Rê-hu sinh Sê-rúc.
Sê-rúc sinh Na-cơ.
Na-cơ sinh Tha-rê.
Tha-rê sinh Áp-ram cũng gọi là Áp-ra-ham.
28-31 Áp-ra-ham sinh Y-sác và ích-ma-ên. Con trai của ích-ma-ên là:
Nê-ba-giốt (trưởng nam), Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa, Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích và Kết-ma.
32 Bà Kê-tu-ra (hầu của Áp-ra-ham) cũng sinh năm con trai:
Xim-ram, Giốc-chen, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách.
Giốc-chen sinh Sê-ba và Đê-đan.
33 Con trai của Ma-đi-an là:
Ê-pha, Ê-he, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa.
34 Y-sác, con trai của Áp-ra-ham, sinh:
Ê-sau và Y-sơ-ra-ên.
35 Con trai của Ê-sau là:
Ê-li-pha, Rê-ên, Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra.
36 Con trai của Ê-li-pha là:
Thê-man, Ô-ma, Xê-phê, Ga-tham, Kê-nát, Thim-na và A-ma-léc.
37 Con trai của Ru-ên là:
Na-hát, Xê-ra, Sam-ma và Mích-xa.
38,39 Ngoài ra, Ê-sau còn sinh các con trai khác:
Lô-tân, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Đi-sôn, Ê-xe, và Đi-san, và một con gái là Thim-na.
Con trai của Lô-tân là:
Hô-ri và Hê-man.
40 Con trai của Sô-banh là:
Anh-van, Ma-na-hát, Ê-ban, Sê-phô, và Ô-nam.
Con trai của Xi-bê-ôn là:
Ai-gia và A-na.
Con trai của A-na là:
Đi-sôn.
41 Con trai của Đi-sôn là:
Hem-đan, ếch-ban, ích-ran, và Chê-ran.
42 Con trai của Ê-xe là:
Binh-han, Xa-van, và A-can.
Con trai của Đi-san là:
u-xơ và A-ran.
43 Đây là tên các vua nước Ê-đôm trị vì lúc Y-sơ-ra-ên chưa có vua:
Bê-la (con Phê-ô), đóng đô tại thành phố Đinh-ha-ba;
44 Giô-báp (con Xê-ra), ở Bốt-ra lên ngôi kế vị Bê-la;
45 Hu-sam (người xứ Thê-man) kế vị Giô-báp;
46 Ha-đát (con Bê-đa), người đã đánh tan quân đội Ma-đi-an ở đồng bằng Mô-áp, lên ngôi kế vị Hu-sam và đóng đô tại A-víp;
47 Sân-la, quê ở thành phố Ma-rê-ca, kế vị Ha-đát;
48 Sân-lơ, quê ở thành phố Rê-hô-bốt, kế vị Sâm-la;
49 Ba-anh Ha-nan (con Ách-bồ), kế vị Sân-la;
50 Ha-đát kế vị Ba-anh Ha-nan và đóng đô tại Phô. (Hoàng hậu tên là Mê-hê-ta-bên, con gái Mát-rê, cháu ngoại Mê-sa-háp.)
51-54 Khi Ha-đát băng hà, Ê-đôm có các trưởng tộc này:
Thim-na, Anh-va, Giê-tết, Ô-hô-li-ba-ma, Ê-la, Phi-nôn, Kê-na, Thê-man, Míp- xa, Mạc-đi, và I-ram.
1,2 Con trai của Y-sơ-ra-ên là:
Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-luân, Đan, Giô-sép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát, và A-se.
3 Giu-đa cưới vợ là Ba-sua, người Ca-na-an, sinh ba con trai là:
Hê rô, Hô-nan, và Sê-la. Nhưng Hê-rô gian ác đến nổi Chúa giết người đi.
4 Ta-ma, vợ góa của Hê-rô và Giu-đa có con sinh đôi là:
Phê-rết và Xê-ra.
Vậy Giu-đa được năm con trai.
5 Con trai của Phê-rết là:
Hết-rôn và Ha-mun.
6 Con trai của Xê-ra là:
Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-côn và Đa-ra.
7 Con trai của Cát-mi là:
A-can (người ăn cắp thánh vật và gây đại nạn cho Y-sơ-ra-ên).
8 Con trai của Ê-than là:
A-xa-ria.
9 Con trai của Hết-rôn là:
Giê-ra-mê-ên, Ram và Chế-lu-bai.
10 Ram sinh A-mi-na-đáp.
A-mi-na-đáp sinh Na-ách-son, là một lãnh tụ của Y-sơ-ra-ên.
11 Na-ách-son sinh Sanh-ma.
Sanh-ma sinh Bô-ô.
12 Bô-ô sinh Ô-bết.
Ô-bết sinh Gie-sê.
13-14 Con trai Gie-sê là:
Ê-li-áp (trưởng nam), con thứ nhì: A-bi-na-đáp, con thứ ba: Si-mê-a, con thứ tư: Nê-tha-nên, con thứ năm: Ra-đai,
15 con thứ sáu: Ô-xem, con thứ bảy: Đa-vít
16 và hai con gái tên Sê-ru-gia và A-bi-ga-in.
Sê-ru-gia sinh A-bi-sai, Giô-áp và A-xa-ên.
17 A-bi-ga-in lấy chồng là Giê-the, người ích-ma-ên, sinh A-ma-sa.
18 Khanh-lý (con Hết-rôn) cưới hai vợ tên A-xu-ba và Giê-ri-ốt.
A-xu-ba sinh Giê-sê, Sô-báp và ạt-đôn.
19 Sau khi A-xu-ba qua đời, Khanh-lý cưới Ê-phơ-rát, sinh Hu-rơ.
20 Hu-rơ sinh U-ri.
U-ri sinh Bê-xa-lên.
21 Hết-rôn được sáu mươi tuổi, cưới con gái của Ma-ki, sinh Sê-gúp. (Ma-ki là cha của Ga-la-át.)
22 Sê-gúp sinh Giai-rơ, là người cai trị hai mươi ba thành phố xứ Ga-la-át.
23 Nhưng Ghê-sua và A-ram chiếm đoạt các thành phố ấy, đồng thời cũng chiếm luôn thành phố Kê-nát và sáu mươi làng quanh thành phố này.
24 Sau khi Hết-rôn vừa qua đời, Khanh-lý liền cưới Ép-ra-ta, hầu của cha mình, và sinh A-su-rơ.
A-su-rơ sinh Thê-cô-a.
25 Con trai của Giê-ra-mê-ên (trưởng nam của Hết-rôn) là:
Ram (trưởng nam), Bu-na, Ô-ren, Ô-xem và A-hi-gia.
26 Giê-ru-mê-ên cưới thêm A-ta-ra và sinh Ô-nam.
27 Ram sinh:
Ma-ách, Gia-min và Ê-ke.
28 Ô-nam sinh:
Sam-mai và Gia-đa.
Sam-mai sinh Na-đáp và A-bi-su
29 A-bi-su cưới A-bi-hai và sinh:
ạc-ban và Mô-lít.
30 Na-đáp sinh Sê-le và Áp-ba-im. Nhưng Sê-le qua đời, không con.
31 Áp-ba-im sinh Di-si.
Di-si sinh Sê-san.
Sê-san sinh ạc-lai.
32 Gia-đa, em Sam-mai sinh:
Giê-the và Giô-na-than.
Giê-the qua đời, không con.
33 Giô-na-than sinh:
Phê-lết và Xa-xa.
34 Sê-san không có con trai, chỉ có con gái.
35 Sê-san gả con cho Gia-ra (người đầy tớ Ai Cập). Vợ chồng sinh được một con trai tên Át-tai.
36 Át-tai sinh Na-than;
Na-than sinh Xa-bát.
37 Xa-bát sinh ép-la;
ép-la sinh Ô-bết.
38 Ô-bết sinh Giê-hu;
Giê-hu sinh A-xa-ria.
39 A-xa-ria sinh Hê-lết;
Hê-lết sinh Ê-lê-a-sa.
40 Ê-lê-a-sa sinh Sít-mai;
Sít-mai sinh Sa-lum.
41 Sa-lum sinh Giê-ca-mia;
Giê-ca-mia sinh Ê-li-sa-ma.
42 Con trưởng nam của Khanh-lý (anh của Giê-ra-mê-ên) là Mê-sa.
Mê-sa sinh Xíp;
Xíp sinh Ma-rê-sa;
Ma-rê-sa sinh Hếp-rôn.
43 Hếp-rôn sinh: Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem và Sê-ma.
44 Sê-ma sinh Ra-cham;
Ra-cham sinh Giô-kê-am;
Rê-kem sinh Sam-mai.
45 Sam-mai sinh Ma-ôn;
Ma-ôn sinh Bết-xua.
46 Khanh-lý cưới thêm Ê-pha, sinh:
Ha-ran, Mô-xa và Ga-xe.
Ha-ran sinh Ga-xe.
47 Gia-đai sinh:
Rê-ghem, Giô-tham, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha, và Sa-áp.
48 Khanh-lý lại cưới Ma-a-ca và sinh:
Sê-be, Ti-ra-na,
49 Sa-áp, và Sê-va.
Sa-áp sinh Mách-ma-na.
Sê-va sinh Mạc-bê-na và Ghi-bê-a.
Khanh-lý còn có một con gái tên là ạc-sa.
50 Đó là dòng dõi của Khanh-lý. Hu-rơ, trưởng nam của Ép-ra-ta, sinh các con trai:
Sô-banh, là cha của Ki-ri-át Giê-a-rim.
51 Sanh-ma, là cha của Bê-liêm,
và Ha-rếp, là cha của Bết-ga-đe.
52 Sô-banh, ngoài Ki-ri-át Giê-a-rim, còn sinh thêm Ha-rô-e, là tổ phụ một nửa dân Mê-nu-hốt.
53 Gia đình Ki-ri-át Giê-a-rim gồm họ ít-rít, họ Phu-tít, họ Su-ma-tít, và họ Mích-ra-ít; cũng từ đó mà có họ Xô-ra-thít, và họ ết-tao-lít.
54 Sanh-ma sinh Bê-liêm, họ Nê-tô-pha, họ ạt-rốt Bết Giô-áp, nửa họ Ma-na-ha, và họ Xô-ri.
55 Họ của các thầy ký lục ở Gia-bết là họ Ti-ra-thít, họ Si-ma-tít, và họ Su-ca-tít. Đây là dân Kên dòng dõi của Ha-mát, tổ phụ nhà Rê-cáp.
1 Đây là tên các con trai Đa-vít sinh tại Hếp-rôn:
Am-nôn, trưởng nam (mẹ là A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên), thứ nhì là Đa-ni-ên (mẹ là A-bi-ga-in, người Cát-mên),
2 thứ ba là Áp-sa-lôm (mẹ là Ma-a-ca, con Thanh-mai, vua xứ Ghê-sua), thứ tư là A-đô-ni-gia (mẹ là Ha-ghít),
3 thứ năm là Sê-pha-tia (mẹ là A-bi-tan), thứ sáu là ích-rê-am (mẹ là éc-la).
4 Cả sáu con đều sinh tại Hếp-rôn, nơi Đa-vít cai trị bảy năm rưỡi. Sau đó, về Giê-ru-sa-lem, vua trị vì thêm ba mươi ba năm nữa.
5 Các con trai Đa-vít sinh tại Giê-ru-sa-lem là:
Sa-mua, Sô-báp, Na-than, và Sa-lô-môn (mẹ của cả bốn người là Bát-sê-ba, con Am-mi-ên).
6 Ngoài ra, Đa-vít còn có thêm chín con trai khác:
íp-ra, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết,
7 Nô-ga, Nê-phéc, Gia-phia,
8 Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa và Ê-li-phê-lết.
9 Đó là tên các con trai Đa-vít, chưa kể con trai do các phi tần. Đa-vít cũng có một con gái tên là Ta-ma.
10-14 Đây là dòng dõi của Sa-lô-môn:
Rô-bô-am, A-bi-gia, A-sa, Giê-hô-sa-phát, Giô-ram, A-cha-xia, Giô-ách, A-ma-xia, A-xa-ria, Giô-tham, A-cha, Ê-xê-chia, Ma-na-se, A-môn và Giô-si-a.
15 Con trai của Giô-si-a là:
Giô-ha-nan, Giê-hô-gia-kim, Sê-đê-kia và Sa-lum.
16 Con trai của Giê-hô-gia-kim là:
Giê-cô-nia và Sê-đê-kia.
17,18 Trong thời gian bị lưu đày, Giê-cô-nia sinh bảy con trai:
Sa-la-thiên, Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma và Nê-đa-bia.
19,20 Con trai của Phê-đa-gia là:
Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i.
Con trai của Xô-rô-ba-bên là:
Mê-su-lam, Ha-na-nia, Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia, Du-sáp Hê-sết, và con gái là Sê-lô- mít.
21,22 Con trai của Ha-na-nia là:
Phê-la-tia và Giê-sai.
Con trai của Giê-sai là Rê-pha-gia.
Con trai của Rê-pha-gia là ạc-nan.
Con trai của ạc-nan là Áp-đia.
Con trai của Áp-đia là Sê-ca-nia.
Con trai của Sê-ca-nia là Sê-ma-gia.
Sê-ma-gia có sáu con trai:
Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria và Sa-phát.
23 Nê-a-ria có ba con trai:
Ê-li-ô-ê-nai, Ê-xê-chia và A-ri-kham.
24 Ê-li-ô-ê-nai có bảy con trai:
Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp, Giô-ha-nan, Đê-la-gia và A-na-ni.
1 Con trai của Giu-đa là:
Phê-rết, Hết-rôn, Cát-mi, Hu-rơ và Sô-banh.
2 Rê-a-gia con trai của Sô-banh sinh Gia-hát. Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Họ được gọi là người Xô-ra-thít.
3,4 Ê-tam sinh:
Gít-ra-ên, Dít-ma, Di-ba,
Ha-sê-lê-bô-ni (con gái),
Phê-nu-ên (tổ phụ của Ghê-đô),
Ê-xe (tổ phụ của Hu-sa),
Con trai của Hu-rơ (trưởng nam của Ép-ra-ta, là cha của Bê-liêm).
5 A-su-rơ, cha của Thê-cô-a, cưới hai vợ là Hê-la và Na-a-ra.
6 Na-a-ra sinh A-hu-xam, Hê-phe, Thê-mê-ni, và A-hách-tha-ri.
7 Hê-la sinh Xê-rết, Xô-ha, và ết-nan.
8 Cốt sinh A-núp, Hát-xô-bê-ba, và họ A-ha-hên, con trai Ha-rum.
9 Gia-bê xuất sắc hơn các anh em mình. Mẹ người đặt tên Gia-bê vì nói rằng: ôTa sinh nó với nhiều đau đớn.’
10 Gia-bê cầu nguyện với Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên: ôXin Chúa ban phúc lành cho con, mở rộng biên cương, phù hộ con trong mọi công việc con làm, và giữ gìn con khỏi mọi điều ác, đừng để điều ác gây buồn thảm cho con!’ Chúa nhậm lời cầu nguyện của Gia-bê.
11 Kê-lép, em Su-ha, sinh Mê-hia;
Mê-hia sinh Ê-tôn.
12 Ê-tôn sinh Bết-ra-pha, Pha-sê-a và Tê-hi-na;
Tê-hi-na sinh I-na-hách.
13 Con trai của Kê-na là:
ốt-ni-ên và Sê-ra-gia.
Con trai của ốt-ni-ên là:
Ha-thát và Mê-ô-nô-thai.
14 Mê-ô-nô-thai sinh Óp-ra.
Sê-ra-gia sinh Giô-áp, tổ phụ của dân cư trũng thợ thủ công.
15 Con trai của Khanh-lý, cháu Giê-phu-nê là:
Y-ru, Ê-la, và Na-am.
Con trai của Ê-la là Kê-na.
16 Con trai của Giê-ha-lê-le là:
Xíp, Xi-pha, Thi-ria, và A-sê-rên.
17 Con trai của Ê-xơ-ra là:
Giê-the, Mê-rết, Ê-phe và Gia-long.
Mê-rết cưới Bi-thi-a, một công chúa Ai Cập, và sinh:
M-lâm, Sâm-mai, và ích-ba (cha của ết-tê-moa).
18 ết-tê-moa cưới vợ người Do Thái, sinh:
Giê-rết, Hê-be, và Giê-ku-tiên. Họ là tổ phụ dân Ghê-đô, dân Sô-côi, và dân Xa-noa.
19 Hô-đia cưới em gái của Na-hum, sinh:
Kê-hi-la, người Gạc-mít,
và ết-tê-moa, người Ma-ca-thít.
20 Con trai của Si-môn là:
Am-nôn, Rin-na, Bên-ha-nan và Thi-long.
Con trai của Y-si là:
Giô-hết và Bên-giô-hết.
21,22 Con trai của Sê-la (con Giu-đa) là:
Ê-rơ (cha của Lê-ca),
La-a-đa (cha của Ma-rê-sa), gia đình thợ dệt vải gai ở vùng Bết Ách-bê-a;
Giô-kim, gia đình Cô-xê-ba;
Giô-ách, Sa-ráp (người cai trị xứ Mô-áp trước khi trở về Lê-hem).
Đó là các tên ghi trong gia phả rất cổ.
23 Các gia đình sau đây làm thợ gốm, trồng tỉa và làm vườn cho các vua:
24 Con trai của Si-mê-ôn là:
Nê-mu-ên, Gia-minh, Gia-ríp, Xê-ra, và Sau-lơ.
Sau-lơ sinh Sa-lum;
25 Sa-lum sinh Míp-sam;
Míp-sam sinh Mích-ma.
26 Mích-ma sinh Ham-mu-ên (cha của Xác-cua, ông nội của Si-mê-i).
27 Si-mê-i sinh mười sáu con trai và sáu con gái; nhưng anh em người không ai có gia đình đông đúc, số con cái đều dưới mức trung bình của các gia đình trong đại tộc Giu-đa.
28 Họ cư trú tại Biệt-sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa Su-anh,
29 Binh-ha, Ê-xem, Tô-lát,
30 Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiếc-lác,
31 Bết-ma-ca-bốt, Ha-xa-su-sim, Bết-bi-ri, và Sa-a-rim. Họ kiểm soát các thành phố ấy cho đến đời vua Đa-vít.
32,33 Dòng dõi họ cũng ở trong vùng Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san và các làng chung quanh, kéo dài cho đến Ba-anh (tài liệu này được ghi trong gia phả của họ).
34-39 Đây là tên các tộc trưởng của các tộc đã phát triển mạnh, và phải đi xa đến tận miền đông thung lũng Ghê-đô để tìm đồng cỏ cho bầy gia súc:
Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa (con A-ma-xia), Giô-ên và Giê-hu (con Giê-xơ-bia, cháu Sê-ra-gia, chắt A-si-ên).
Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia, Xi-xa (con Si-phi, cháu A-long, chắt Giê-đa-gia, chít Sim-ri con Sê-ma-gia).
40,41 Họ đã tìm được các đồng cỏ tốt để chăn nuôi; xứ ấy bình an và thanh tĩnh, nhưng đất đai vốn thuộc về dòng dõi của Cham. Đời vua Ê-xê-chia nước Giu-đa, các tộc trưởng này tấn công vào xứ ấy, phá đổ nhà cửa, nông trại, tàn sát dòng dõi Cham, và chiếm cứ cả xứ.
42 Về sau, 500 người thuộc nhóm các tộc trưởng người Si-mê-ôn này lại tiến lên núi Sê-i-rơ, dưới quyền lãnh đạo của Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia, và U-xi-ên, tất cả đều là con trai của Di-si.
43 Họ tiêu diệt số dân A-ma-léc còn sống sót, và định cư tại đó cho đến ngày nay.
1 Dù Ru-bên là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, nhưng vì ông làm nhơ bẩn giường cha mình, nên quyền con trưởng được giao cho Giô-sép. Tuy nhiên, gia phả vẫn không chép Giô-sép là con trưởng.
2 Về sau, Giu-đa trở nên cường thịnh nhất, vua chúa cũng từ ông mà ra, nhưng quyền con trưởng vẫn thuộc về Giô-sép.
3 Các con của Ru-bên là:
Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi.
4 Giô-ên có con là:
Sê-ma-gia; cháu là Gót; chắt là Si- mê-i.
5 Si-mê-i có con là:
Mi-ca; cháu là Rê-a-gia; chắt là Ba-anh.
6 Con Ba-anh là:
Bê-ê-ra, là một nhà lãnh đạo đại tộc Ru-bên, về sau bị Tiết-lát Phi-nê-se vua A-si-ri bắt đem đi đày.
7 Họ hàng của Bê-ê-ra cũng được ghi vào gia phả: Trưởng tộc Giê-i-ên, Xa-cha-ri và
8 Bê-la (là con của A-xa, cháu Sê-ma, chắt Giô-ên). Họ ở trong một miền từ A-rô-e cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn,
9 về phía đông, từ đầu sa mạc cho đến sông cái Phát-giang. Họ phải du cư vì trong đất Ga-la-át đã có quá nhiều gia súc.
10 Dưới đời Sau-lơ, họ chiến thắng dân Ha-ga, chiếm cứ lều trại của dân này tại các vùng phía đông Ga-la-át.
11 Sống cạnh người Ru-bên có người Gát ở từ Ba-san cho đến Sanh-ca.
12 Tại Ba-san có Giô-ên làm trưởng tộc, Sa-pham làm phụ tá, rồi đến Gia-nai và Sa-phát.
13 Trong vòng họ hàng của những người này còn có bảy nhà lãnh đạo:
Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia và Ê-be.
14 Tổ tiên của những người này từ đời Bu-xơ trở xuống, theo thứ tự:
Giác-đô, Giê-si-sai, Mi-ca-ên, Ga-la-át, Gia-rô-a, Hu-ri và A-bi-hai.
15 A-hi (con Áp-đi-ên, cháu Gu-ni) là một trưởng họ.
16 Họ này ở tại Ga-la-át thuộc Ba-san và các miền đồng cỏ Sa-rôn.
17 Tên của tất cả những người này được chép vào gia phả vào đời Giô-tham vua Giu-đa và đời Giê-rô-bô-am vua Y-sơ-ra-ên.
18 Đại tộc Ru-bên, Gát, và nửa đại tộc Ma-na-se có 44.760 chiến sĩ. Họ là những người có khả năng chiến đấu, tinh thần dũng cảm, được trang bị cung, kiếm và khiên đầy đủ.
19 Họ tranh chiến với các dân Ha-ga, Giê-tua, Na-phi và Nô-đáp.
20 Họ kêu cầu Thượng Đế và được Ngài giúp đỡ vì họ có lòng tin tưởng. Họ đánh bại dân Ha-ga và liên minh địch.
21 Họ bắt được 50.000 lạc đà, 250.000 cừu, 2.000 lừa và 100.000 người.
22 Địch bị giết vô số vì chính Thượng Đế đã ra tay. Vậy, người Ru-bên, Gát và Ma-na-se chiếm cứ đất địch, ở đó cho đến ngày bị đày.
23 Người của nửa đại tộc Ma-na-se ở từ Ba-san cho đến tận Ba-anh Hẹt-ôn, Sê-nia và núi Hẹt-môn. Họ đông vô số.
24 Người Ma-na-se có các tộc trưởng sau đây: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên, Ách-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via và Gia-đi-ên. Họ đều là những chiến sĩ dũng mãnh, những nhà lãnh đạo tiếng tăm.
25 Nhưng họ phạm tội cùng Thượng Đế của tổ tiên mình, thờ các thần của những thổ dân đã bị Thượng Đế tiêu diệt và lấy đất cho họ ở.
26 Vì thế, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên xui khiến vua A-ri-ri là Phun, cũng gọi là Tiếc-lát Phi-nê-se, đến đánh, bắt người Ru-bên, Gát và nửa đại tộc Ma-na-se đày sang Ha-la, Ha-bo, Ha-ra và bên sông Gô-xan. Họ còn ở đó cho đến nay.
1 Các con Lê-vi là:
Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.
2 Các con Kê-hát là:
Am-ram, Dít-sê-la, Hếp-rôn và U-xi-ên.
3 Các con Am-ram là:
A-rôn, Mai-sen và M-lâm.
Các con A-rôn là:
Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
4-15 Dòng dõi A-rôn, từ đời Ê-lê-a-sa trở xuống theo thứ tự sau:
Ê-lê-a-sa, Phi-nê-a, A-bi-sua, Bu-ki, U-xi, Xê-ra-hi-gia, Mê-ra-giốt, A-ma-ria, A-hi-túp, Xa-đốc. A-hi-ma-ách, A-xa-ria, Giô-ha-nan, A-xa-ria (giữ chức tế lễ trong Đền Thờ Sa-lô-môn vừa cất tại Giê-ru-sa-lem), A-ma-ria, A-hi-túp, Xa-đốc, Sa-lum, Hinh-kia, A-xa-ria, Sê-ra-gia và Giê-hô-xa-đác. Giê-hô-xa-đác bị Nê-bu-cát-nết-sa bắt đi đày cùng với những người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem khác. (Nê-bu-át-nết-sa chỉ là người được Chúa Hằng Hữu dùng.)
16 Như ta đã biết, các con Lê-vi là:
Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.
17 Các con Ghẹt-sôn là:
Líp-ni và Si-mê-i.
18 Các con Kê-hát là:
Am-ram, ích-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên.
19 Các con Mê-ra-ri là:
Mách-li và Mu-si.
Đó là gốc gác của các dòng họ nhà Lê-vi.
20,21 Về dòng Ghẹt-sôn, con cháu theo thứ tự:
Ghẹt-sôn, Líp-ni, Gia-hát, Xim-ma, Giô-a, Y-đô, Xê-ra và Giê-a-trai.
22-24 Về dòng Kê-hát, con cháu theo thứ tự:
Kê-hát, A-mi-na-đáp, Cô-rê, Át-si, Ên-ca-na, Ê-bi-a-sáp, Át-si, Ta-hát, U-ri-ên, U-xia và Sau-lơ.
25-27 Con cháu của Ên-ca-na:
A-ma-sai, A-hi-mốt, Ên-ca-na, Xô-phai, Na-hát, Ê-li-áp, Giê-rô-ham và Ên-ca-na.
28 Sa-mu-ên có con trưởng là Giô-ên, con thứ là A-bi-gia.
29,30 Về dòng Mê-ra-ri, con cháu theo thứ tự:
Mê-ra-ri, Mách-li, Líp-ni, Si-mê-i, U-xa, Si-mê-a, Ha-ghi-gia và A-sai-gia.
31 Vua Đa-vít chỉ định những người hướng dẫn việc ca hát trong Đền Tạm Chúa Hằng Hữu sau khi Rương Giao Ước được an vị tại đó.
32 Cho đến ngày Sa-lô-môn xây xong Đền Thờ ở Giê-ru-sa-lem, những người này tiếp tục công việc ca hát tại Đền Thờ.
33-38 Đây là tên của những người ấy và dòng họ của họ: Hê-man, một ca sĩ thuộc dòng Kê-hát. Tổ tiên của Hê-man theo thứ tự từ dưới lên như sau:
Giô ên, Sa-mu-ên, Ên-ca-na, Giê-rô-ham, Ê-li-ên, Thô-a, Xu-phơ, Ên- ca-na, Ma-hát, A-ma-sai, Ên-ca-na, Giô-ên, A-xa-ria, Xê-pha-nia, Ta-hát, Át-si, Ê-bi-a-sáp, Cô-rê, Dít-sê-na, Kê-hát, Lê-vi và Y-sơ-ra-ên.
39-43 Phụ tá cho Hê-man là A-sáp. Tổ tiên của A-sáp theo thứ tự từ dưới lên như sau:
Bê-rê-kia, Si-mê-a, Mi-ca-ên, Ba-sê-gia, Manh-ki-gia, ết-ni, Xê-ra, A-đa-gia, Ê-than, Xim-ma, Si-mê-i, Gia-hát, Ghẹt-sôn và Lê-vi.
44-47 Phụ tá thứ hai của Hê-man là Ê- than, người thuộc dòng Mê-ra-ri. Tổ tiên của Ê-than theo thứ tự từ dưới lên như sau:
Ki-si, Áp-đi, Ma-lúc, Ha-sa-bia, A-ma-xia, Hinh-kia, Am-si, Ba-ni, Sê-me, Mách-li, Mu-si, Mê-ra-ri và Lê-vi.
48 Các người Lê-vi khác, là anh em của họ, đều phục vụ trong Đền Tạm, nhà của Thượng Đế.
49 Nhưng chỉ có A-rôn và các con ông làm thầy tế lễ, lo việc dâng lễ thiêu, xông hương trên bàn thờ và mọi công việc khác trong Nơi Chí Thánh, cùng làm lễ chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên, theo đúng chỉ thị của Mai-sen, đầy tớ của Thượng Đế.
50-53 Đây là con cháu A-rôn, theo thứ tự từ trên xuống:
Ê-lê-a-sa, Phi-nê-a, A-bi-sua, Bu-ki, U-xi, Xê-ra-hi-gia, Mê-ra-giốt, A-ma-ria, A-hi-túp, Xa-đốc và A-hi-ma-ách.
54 Sau đây là sự phân phối các thành và đất đai cho các con cháu A-rôn theo lối bắt thăm:
55,56 Dòng Kê-hát nhận được thành Hếp-rôn và các đồng cỏ bao quanh thành này trong đất Giu-đa (trừ các đồng ruộng và hương thôn ngoại thành, là phần đã chỉ định cho Khanh-lý, con Giê-phu-nê).
57-59 Ngoài ra, họ còn có các thành trú ẩn với đồng cỏ bao quanh sau đây: Hếp-rôn, Líp-na, Gia-tia, ếch-tê-mô-a, Hi-lên, Đê-bia, A-san và Bết-sê-mết.
60 Trong đất Bên-gia-min, họ có mười ba thành với đồng cỏ bao quanh; ba thành chính là Ghê-ba, A-lê-mết và A-na-tốt.
61 Những người còn lại thuộc dòng Kê-hát nhận được mười thành trong đất của phân nửa đại tộc Ma-na-se.
62 Dòng Ghẹt-sôn nhận được mười ba thành trong đất Ba-san, thuộc các đại tộc Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li và Ma-na-se.
63 Dòng Mê-ra-ri nhận được mười hai thành trong đất của các đại tộc Ru-bên, Gát và Sa-bu-luân.
64,65 Vậy, người Y-sơ-ra-ên cấp cho con cháu Lê-vi thành và đồng cỏ bao quanh theo lối bắt thăm; trong số đó, chỉ có các thành thuộc đại tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min là được kể tên trên đây.
66-69 Đại tộc Ép-ra-im chia cho một số gia đình thuộc dòng Kê-hát các thành trú ẩn với đồng cỏ bao quanh sau đây:
Si-chem (trên cao nguyên Ép-ra-im), Ghê-xe, Giốc-mê-am, Bết-Hô-rôn, A-gia-lôn và Gát-Rim-môn.
70 Các gia đình này còn nhận được từ phân nửa đại tộc Ma-na-se hai thành với đồng cỏ bao quanh là A-ne và Bi-lê-am.
71 Phân nửa đại tộc Ma-na-se còn cấp cho dòng Ghẹt-sôn hai thành với đồng cỏ bao quanh là Gô-lan (thuộc Ba-san) và Ách-ta-rốt.
72,73 Đại tộc Y-sa-ca cấp cho họ các thành với đồng cỏ bao quanh sau:
Kê-đe, Đô-bê-rát, Ra-mốt và A-nem.
74,75 Đại tộc A-se cấp các thành Ma-sanh, Áp-đôn, Hu-cô, Rê-hốp với đồng cỏ bao quanh.
76 Đại tộc Nép-ta-li cấp các thành Kê-đe (thuộc Ga-li-lê), Ham-môn và Ki-ri-a-ta-im với đồng cỏ bao quanh.
77 Những người còn lại thuộc dòng Mê-ra-ri nhận được hai thành Ri-mô-nô và Tha-bô với đồng cỏ bao quanh từ đại tộc Sa-bu-luân.
78,79 Những người này còn nhận được từ đại tộc Ru-bên các thành:
Bết-se (thuộc sa mạc), Gia-xa, Kê-đê-mốt và Mê-phát với đồng cỏ bao quanh. Các thành này ở bên phía đông sông Giô-đan, đối diện Giê-ri-cô.
80,81 Họ nhận được từ đại tộc Gát các thành với đồng cỏ bao quanh sau: Ra-mốt (thuộc Ga-la-át), Ma-ha-na-im, Hết-bôn và Gia-xe.
1 Y-sa-ca có bốn người con:
Tô-la, Phu-va, Gióp và Sim-rôn.
2 Các con Tô-la là:
U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam và Sa-mu-ên. Thế hệ này gồm toàn những tay anh dũng, và đều trở thành trưởng họ của dòng Tô-la. Dưới thời vua Đa-vít, tổng số chiến sĩ trong dòng này lên đến 22.600.
3 Con U-xi là ích-ra-hia. Các con ích-ra-hia là:
Mi-ca-ên, Ô-ba- đia, Giô-ên và Di-si-gia. Cả năm cha con nhà này đều trở thành trưởng họ.
4 Các gia đình này có nhiều vợ, đông con, nên số con cháu họ gia nhập binh ngũ lên tới 36.000 người.
5 Còn nếu tính chung cả đại tộc Y-sa-ca, theo gia phả, tổng số chiến sĩ tính được 87.000.
6 Bên-gia-min có ba người con:
Bê-la, Bê-ke và Giê-đi-a-ên.
7 Các con Bê-la là:
ết-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt và Y-ri. Cả năm người này đều là trưởng họ. Theo gia phả, số chiến sĩ trong các họ này lên đến 22.034 người.
8 Các con Bê-ke là:
Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-se, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt và A-lê-mết.
9 Họ đều là trưởng họ, và theo gia phả, số con cháu họ làm chiến sĩ lên đến 20.200 người.
10 Con Giê-đi-a-ên là Binh-han.
Các con Binh-han là:
Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-na, Xê-than, Ta-rê-si và A-hi-sa-ha.
11 Họ đều là trưởng họ, có con cháu làm chiến sĩ, số lên tới 17.200 người.
12 Các con Y-ru là:
Súp-bim và Hốp-bim.
Con A-he là Hu-sim.
13 Nép-ta-li có bốn con:
Gia-xên, Giu-ni, I-sê và Si-lem. Họ là cháu nội của bà Bi-la.
14 Ma-na-se có với bà vợ lẽ người A-ram hai con: Ách-ri-ên và Ma-ki. Ma-ki là cha Ga-la-át.
15 Ma-ki cưới vợ là Ma-a-ca (em gái của Hốp-bim và Súp-bim). Vợ thứ là Xê-lô-phát chỉ sinh được con gái.
16 Ma-a-ca vợ Ma-ki sinh được một người con, đặt tên là Phê-rết. Em Phê-rết là Sê-rết; và hai con là U-lam và Ra-kim.
17 Con U-lam là Bê-đan. Đó là con cháu Ga-la-át (con Ma-ki, cháu Ma-na-se).
18 Ha-mô-lê-kết, em gái Ga-la-át sinh Y-sốt, A-bi-ê-xe và Mác-la.
19 Các con Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-kem, Li-khi và A-ni-am.
20,21 Các con Ép-ra-im là Su-tê-la, Bê-re, Ta-hát, Ê-lê-a-đa, Ta-hát, Xa-bát, Su-tê-la, Ê-xe và Ê-lê-át. Ê-xe và Ê-lê-át xuống đất Gát cướp súc vật, bị người địa phương đánh chết.
22 Ép-ra-im thương khóc con nhiều ngày, cho đến khi các anh em ông đến an ủi, ông mới nguôi.
23 Sau đó, vợ Ép-ra-im thụ thai, sinh một trai. Ép-ra-im đặt tên là Bê-ri-a, để đánh dấu gia biến vừa xảy ra.
24 Sê-ê-ra, con gái Ép-ra-im, là người xây Bết-hô-rôn thượng, Bết-hô-rôn hạ và U-xên-sê-ê-ra. 25- 27 Ép-ra-im còn có một người con nữa là Rê-pha; và con cháu Rê-pha theo thứ tự từ trên xuống như sau: Rê-pha, Rê-sép, Tê-la, Ta-han, La-đan, Am-mi-hút, Ê-li-sa-ma, Nun và Giô-suê. 28 Vùng đất con cháu Ép-ra-im chiếm cứ để sinh sống được giới hạn một mặt bởi Bê-tên và các thôn ấp phụ cận, Na-a-ran ở phía đông, Ghê-xe và các thôn ấp phụ cận ở phía tây, mặt khác bởi Si-chem và các thôn ấp phụ cận, chạy dài cho đến Ga-xa và các thôn ấp phụ cận. 29 Con cháu Ma-na-se ở trong các thành Bết-sê-an, Ta-nác, Mê-ghi-đô và Đô-rơ, kể cả các thôn ấp phụ cận các thành ấy. Đó là nơi con cháu Giô-sép (con Y-sơ-ra-ên) sống.
30 Các con A-se là:
Đim-na, I-sua, I-sui, Bê-ri-a và Sê-ra (con gái).
31 Các con Bê-ri-a là:
Hê-be và Manh-ki-ên.
Con Manh-ki-ên là Biếc-xa.
32 Con Hê-be gồm có:
Giáp-phơ-lết, Sô-me, Hô-tham và Su-a (con gái).
33 Con Giáp-phơ-lết gồm có:
Pha-sác, Binh-hanh và A-vát.
34 Con Sô-me gồm có:
A-hi, Rô-hê-ga, Hu-ba và A-ram.
35 Con Hê-lem gồm có:
Xô-pha, Dim-na, Sê-lết và A-manh.
36,37 Con Xô-pha gồm có:
Sua, Hạt-nê-phe, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra, Bết-se, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran và Bê-ê-ra.
38 Con Giê-the gồm có:
Giê-phu-nê, Phít-ba và A-ra.
39 Con U-la gồm có:
A-ra, Ha-ni-ên và Ri-xi-a.
40 Các con cháu A-se ấy đều làm trưởng họ, đồng thời là những chiến sĩ anh dũng, điều khiển tướng quân. Theo gia phả, con cháu A-se có đến 26.000 chiến sĩ.
1,2 Sau đây là các con của Bên-gia-min:
Bê-la con trưởng, Ách-bên thứ hai, A-ha-ra thứ ba, Nô-ha thứ tư, và Ra-pha thứ năm.
3-5 Các con Bê-la là:
Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, A-bi-sua, Na-a-man, A-hoa, Ghê-ra, Sê-phu-phan và Hu-ram.
6,7 Các con của Ê-hút đều làm trưởng họ trong gia đình Ghê-ba, nhưng về sau, họ bị bắt đày sang Ma-na-hát. Họ gồm có: Na-a-man, A-hi-gia và Ghê-ra (còn gọi là Hê-lam) là cha của U-xa và A-hi-hút.
8-10 Còn một người nữa là Sa-ha-ra-im, có vợ con ở trong xứ Mô-áp. Sau khi để hai vợ là Hu-sim và Ba-ra, ông cưới bà Hô-đe, bà này sinh được: Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam, Giê-út, Sô-kia và Mịt-ma. Các con của Sa-ha-ra-im này đều làm trưởng họ.
11 Bà Hu-sim cũng đã sinh được A-hi-túp và Ên-ba-anh.
12 Các con Ên-ba-anh là:
Ê-be, Mi-sê-am, Sê-mết (người xây thành Ô-nô, Lót và các thôn ấp phụ cận),
13 Bê-ri-a, Sê-ma (hai người này làm trưởng họ trong cộng đồng A-gia-lôn và có công đánh đuổi thổ dân ở đất Gát),
14 A-hi-ô, Sa-sác và Giê-rê-mốt.
15,16 Các con Bê-ri-a là:
Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe, Mi-ca-ên, Dít-pha và Giô-ha.
17,18 Các con Ên-ba-anh là:
Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, Gít-mê-rai, Gít-lia và Giô-báp.
19-21 Các con Si-mê-i là:
Gia-kim, Xiếc ri, Xáp-đi, Ê-li-ê-nai, Xi-lê-tai, Ê-li-ên, A-đa-gia, Bê-ra-gia và Sim-rát.
22-25 Các con Sa-sác là:
Dít-ban, Ê-be, Ê-li-ên, Áp-đôn, Xiếc
ri, Ha-nan, Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia, Gíp-đê-gia và Phê-nu-ên.
26,27 Các con Giê-rô-ham là:
Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-lia, Gia-rê-sia, Ê-li-gia và Xiếc-ri.
28 Họ đều làm trưởng họ và đều ở tại Giê-ru-sa-lem.
29 Ông tổ của thành Ga-ba-ôn là:
Giê-i-ên, có vợ là Ma-a-ca,
30-32 và các con: Áp-đôn (con trưởng), Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp, Ghê-đô, A-hi-ô, Xê-ke và Mích-lô là cha Si-mê-a. Các gia đình này ở cạnh nhau gần Giê-ru-sa-lem.
33 Nê-rơ là cha của Kích; Kích cha Sau-lơ. Các con Sau-lơ là Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp và ếch-ba-anh.
34 Giô-na-than là cha Mê-ri Ba-anh, Mê-ri Ba-anh là cha Mi-ca.
35 Các con Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a và A-cha.
36 A-hát là cha Giê-hô-a-đa, Giê-hô-a-đa cha A-lê-mết, Át-ma-vết và Xim-ri. Xim-ri cha Mô-sa;
37 Mô-sa cha Bi-nê-a; Bi-nê-a cha Ra-pha; Ra-pha cha Ê-lê-a-sa; Ê-lê-a-sa cha A-xên.
38 A-xên có sáu con: A-ri-kham, Bốc-ru, ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia và Ha-nan.
39 Ê-sết (em A-xên) có các con sau đây: U-lam con trưởng, Giê-úc thứ hai và Ê-li-phê-lết thứ ba.
40 Các con của U-lam đều là những chiến sĩ anh dũng, có tài bắn cung. Tổng số con và cháu nội của họ là một trăm năm mươi người.
1 Như thế, tên các con cháu Y-sơ-ra-ên đều được ghi vào gia phả, và gia phả lại được đăng ký vào bộ niên sử của các vua Y-sơ-ra-ên. Người Giu-đa bị đày sang Ba-by-luân vì họ không trung thành với Thượng Đế.
2 Những người đầu tiên trở về sinh sống trong đất mình là một số thường dân Y-sơ-ra-ên, cùng với một số thầy tế lễ, người Lê-vi và những người giúp việc trong Đền Thờ.
3 Cũng có một số người thuộc các đại tộc Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se trở về Giê-ru-sa-lem.
4 Trong số những người ấy có U-thai (con A-mi-hút, cháu Ôm-ri, chắt Im-ri, chít Ba-ni) thuộc tộc Phê-rết (con Giu-đa);
5 A-sai-gia (con trưởng của gia đình Si-lô-ni) và các con;
6 con cháu Xê-ra, gồm có Giê-u-ên và những người khác, cộng được sáu trăm chín mươi người;
7 những người thuộc đại tộc Bên-gia-min: Sa-lu (con Mê-su-lam, cháu Hô-đa- via, chắt A-sê-nu-a),
8 Gíp-nê-gia (con Giê-rô-ham), Ê-la (con U-xi, cháu Mi-cơ-ri), Mê-su-lam (con Sê-pha-tia, cháu Rê-u-ên, chắt Gíp-nê-gia).
9 Những người ấy đều làm trưởng họ. Có tất cả chín trăm năm mươi sáu người Bên-gia-min trở về.
10,11 Trong số các thầy tế lễ có Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, A-xa-ria (con Hinh-kia, cháu Mê-su-lam, chắt Xa-đốc, chít Mê-ra-giốt con A-hi-túp) là tổng giám thị Đền Thờ Thượng Đế.
12 Cũng có A-đa-gia (con Giê-rô-ham, cháu Pha-sua, chắt Manh-ki-gia), Ma-ê-sai (con A-đi-ên, cháu Gia-xê-ra, chắt Mê-su-lam, chú Mê-si-lê-mít con Y-mê).
13 Những người thân thuộc của các thầy tế lễ ấy làm trưởng họ, và những người khác, đều có khả năng phục vụ trong Đền Thờ Thượng Đế, tổng số 1.760 người.
14 Trong số những người Lê-vi trở về có Sê-ma-gia (con Ha-súp, cháu A-ri-kham, chắt Ha-sa-bia, thuộc dòng Mê-ra-ri),
15 Bát-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia (con Mi-ca, cháu Xiếc-ri, chắt A-sáp),
16 Ô-ba-đia (con Sê-ma-gia, cháu Ga-la, chắt Giê-đu-thun), Bê-rê-kia (con A-sa, cháu Ên-ca-na, người này sinh sống trong đất của người Nê-tô-pha-tít).
17 Những người canh cổng Đền Thờ gồm có Sa-lum (trưởng ban), A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và những người thân thuộc của họ.
18 Những người này phụ trách cửa đông của hoàng cung. Trước kia, họ canh cổng trại người Lê-vi.
19 Sa-lum là con của Cô-rê, cháu Ê-bi-a-sáp, chắt Cô-ra. Những người thân thuộc của ông trong dòng Cô-ra đều lo việc canh cổng Đền Thờ, cũng như tổ tiên họ trước kia canh cổng Đền Tạm.
20 Phi-nê-a, con Ê-lê-a-sa, là người đầu tiên trông coi việc này, và ông được Chúa Hằng Hữu phù hộ.
21 Kế đến, có Xa-cha-ri con Mê-sê-lê-mia điều khiển việc canh cổng Đền Tạm.
22 Lúc ấy, số người canh gác lên đến hai trăm mười hai người. Họ được Đa-vít và tiên tri Sa-mu-ên chỉ định làm chức vụ. Tên họ được chép vào gia phả theo từng hương thôn, nơi họ cư trú.
23 Và như thế, họ phục vụ Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, cha truyền con nối.
24 Họ canh gác bốn phía Đền Thờ, đông, tây, nam, bắc.
25 Anh em của họ trong làng thỉnh thoảng được cắt đến cộng tác với họ, theo từng phiên bảy ngày một.
26 Bốn người đứng đầu của họ, đều là người Lê-vi, còn có trách nhiệm canh giữ các phòng ốc và kho tàng Đền Thờ.
27 Vì có trách nhiệm nặng nề như thế, nên họ phải cư trú ngay bên ngoài Đền Thờ. Mỗi buổi sáng, họ phải mở cổng Đền.
28 Một số người có trách nhiệm giữ gìn các dụng cụ trong Đền; họ phải kiểm điểm mỗi khi các dụng cụ được mang ra dùng, rồi cất vào kho.
29 Người khác có trách nhiệm giữ gìn bàn ghế, dụng cụ thánh, bột mịn, rượu, dầu, nhang và hương liệu.
30 Việc pha chế hương liệu là công việc của một vài gia đình thầy tế lễ.
31 Ma-ti-thi (con trưởng của Sa-lum, dòng Cô-rê, người Lê-vi) lo việc làm bánh dẹp.
32 Có mấy người khác thuộc dòng Cô-rê phụ trách việc làm bánh trần thiết cho mỗi ngày Sa-bát.
33,34 Những người giữ nhiệm vụ ca hát đều là các trưởng họ trong đại tộc Lê-vi. Họ thi hành chức vụ ngày cũng như đêm, nên được miễn các công việc khác. Họ đều ở tại Giê-ru-sa-lem.
35 Giê-i-ên, ông tổ của dân thành Ga-ba-ôn có vợ là bà Ma-a-ca.
36,37 Các con họ là Áp-đôn (con trưởng), Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê rơ, Na-đáp, Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri và Mích-lô.
38 Mích-lô và con là Si-mê-am sống gần anh em họ hàng mình tại Giê-ru-sa-lem.
39 Nê-rơ là cha của Kích; Kích cha Sau-lơ. Các con Sau-lơ là Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp và ếch-ba-anh.
40 Con Giô-na-than là Mê-ri-ba-anh; con Mê-ri-ba-anh là Mi-ca.
41 Các con Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a và A-cha.
42 Con A-hát là Gia-ê-ra. Các con Gia-ê-ra là A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri. Con Xim-ri là Một-sa.
43 Một-sa là cha của Bi-nê-a; Bi-nê-a cha Rê-pha-gia; Rê-pha-gia cha Ê-lê-a-sa; Ê-lê-a-sa cha A-xên.
44 A-xên có sáu con: A-ri-kham, Bốc-ru, ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia và Ha-nan.
1 Khi quân Phi-li-tin tấn công Y-sơ-ra-ên, một số người Y-sơ-ra-ên bỏ chạy, một số khác bị giết trên núi Ghinh-bô-a.
2 Sau-lơ và các con bị người Phi-li-tin đuổi kịp. Ba con ông là Giô-na-than, A-bi-na-đáp và Manh-ki-sua bị giết chết.
3 Sau-lơ cũng bị địch tấn công dữ dội. Các xạ thủ bắn ông bị thương.
4 Ông bảo người cận vệ: “Rút kiếm đâm ta chết đi, đừng để quân vô tín kia đến hành hạ ta.’ Nhưng người cận vệ sợ quá, không dám vâng lời, nên Sau-lơ dựng kiếm của mình lên, rồi ngã sấp vào mũi kiếm.
5 Thấy vua chết như thế, người cận vệ cũng theo cách ấy tự sát.
6 Như vậy Sau-lơ và ba con đều chết, gia đình vua tiêu tan.
7 Người Y-sơ-ra-ên ở dưới thung lũng thấy quân mình thua chạy, Sau-lơ và các con tử trận, liền bỏ thành kéo nhau chạy trốn. Người Phi-li-tin chiếm thành và ở lại đó.
8 Hôm sau, người Phi-li-tin trở lại chiến trường để vơ vét đồ đạc của những người tử trận. Họ thấy xác Sau-lơ và các con nằm trên núi Ghinh-bô-a.
9 Họ bóc lột thây Sau-lơ, chém vua, lấy đầu và bộ giáp gửi đi khắp nơi trong đất Phi-li-tin để báo tin mừng. Dân mở tiệc chiến thắng trước các thần tượng mình.
10 Họ đặt bộ giáp của Sau-lơ trong miếu thần, và treo đầu vua trong đền Đa-gôn.
11 Khi người ở Gia-be Ga-la-át nghe những điều người Phi-li-tin làm cho Sau-lơ,
12 những chiến sĩ dũng cảm của họ lên đường, thu xác Sau-lơ và các con vua đem về Gia-be, chôn dưới cây sồi, rồi kiêng ăn bảy ngày để khóc vua.
13 Vậy, Sau-lơ chết vì không trung thành với Chúa Hằng Hữu, bất tuân lệnh Ngài. Ngoài ra, vua còn có tội cầu hỏi đồng bóng
14 chứ không cầu hỏi Chúa Hằng Hữu, nên bị giết; Chúa lấy nước trao cho Đa-vít, con của Gie-sê.
1 Y-sơ-ra-ên kéo đến Hếp-rôn, nói với Đa-vít: “Chúng tôi với ông là anh em ruột thịt.
2 Ngay lúc Sau-lơ còn làm vua, chính ông là người dẫn chúng tôi ra trận và đưa chúng tôi về. Lúc ấy, Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế ông, có bảo ông: ‘Ngươi sẽ chăn nuôi Y-sơ-ra-ên Ta, làm vua của họ.’
3 Sau khi các trưởng lão họp với Đa-vít tại Hếp-rôn lần ấy, Đa-vít kết ước với họ trước mặt Chúa Hằng Hữu, và họ xức dầu tôn Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên, đúng như lời Chúa Hằng Hữu bảo Sa-mu-ên nói trước.
4 Sau đó, Đa-vít cùng đi với dân lên Giê-ru-sa-lem (lúc ấy gọi là Giê-bu vì là đất của thổ dân Giê-bu).
5 Nhưng người ở Giê-bu chống cự, không chịu cho Đa-vít vào thành, nên Đa-vít chiếm đồn Si-ôn (về sau đổi tên là thành Đa-vít).
6 Ông bảo thuộc hạ: “Ai đánh giết thổ dân Giê-bu trước tiên sẽ được làm tư lệnh quân đội.’ Giô-áp con Sê-ru-gia là người đầu tiên tấn công địch, nên được phong tư lệnh.
7 Đa-vít ở trong đồn Si-ôn, vì thế nơi ấy được gọi là thành Đa-vít.
8 Ông xây thành lũy bắt đầu từ Mi-lô; còn Giô-áp lo sửa sang phần còn lại của thành.
9 Thế lực Đa-vít càng ngày càng tăng, vì Chúa Hằng Hữu Toàn Năng phù hộ vua.
10 Trong hàng thuộc hạ của Đa-vít có những anh hùng đứng đầu các dũng sĩ. Họ giúp vua chiếm được nước và, cùng với dân, họ phò vua lên ngôi, đúng như lời của Chúa Hằng Hữu phán về Y-sơ-ra-ên.
11 Họ gồm có: Gia-sô-bê-am người Hác-mô-ni, đứng đầu nhóm ôtam hùng.’ Ông múa thương đánh giết ba trăm người một lúc.
12 Người thứ hai thuộc nhóm ‘tam hùng’ là Ê-lê-a-sa, con Đô-đô, người A-hô-a.
13,14 Trong một trận chiến tranh với quân Phi-li-tin ở Pha-đa-mim, Ê-lê-a-sa chiến đấu bên cạnh Đa-vít. Lúc ấy, người Y-sơ-ra-ên bắt đầu chạy trốn. Nhưng ông đứng giữa một khoảnh ruộng lúa mạch cự địch, chém giết quân Phi-li-tin, và Chúa Hằng Hữu cho Y-sơ-ra-ên thắng lớn.
15 Trong nhóm ‘ba mươi dũng tướng’ có ba người đi xuống hang đá A-đu-lam để gặp Đa-vít. Lúc ấy, quân đội Phi-li-tin đóng ở thung lũng Rê-pha-im;
16 còn Đa-vít ở trong đồn. Lại có một tiền đồn Phi-li-tin ở Bết-lê-hem.
17 Đa-vít thèm nước giếng bên cổng thành Bết-lê-hem.
18 Ba người này băng đồn Phi-li-tin, múc nước giếng bên cổng thành Bết-lê-hem đem về cho Đa-vít. Nhưng Đa-vít không chịu uống, đổ nước ra dâng cho Chúa Hằng Hữu,
19 và nói: ‘Xin Thượng Đế ngăn cản, đừng cho tôi uống. Vì đây là máu của ba người này, họ đã liều mạng mình đi lấy nước này.
20 A-bi-sai, em Giô-áp, đứng đầu nhóm ‘ba mươi dũng tướng.’ Ông vung thương đâm chết ba trăm địch, nhờ thế danh tiếng ông chẳng kém gì ‘tam hùng.’
21 Ông đứng đầu và nổi tiếng nhất trong nhóm ‘ba mươi dũng tướng,’ nhưng không có chân trong nhóm ‘tam hùng.
22 Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa ở Cáp-xê-ên, một chiến sĩ anh dũng đã thực hiện nhiều việc lớn) giết hai người Mô-áp có sức mạnh như sư tử. Trong một ngày tuyết rơi, ông đánh chết một con sư tử dưới một cái hố.
23 Ông còn giết một người Ai Cập cao hai mét ba mươi, sử dụng một cây thương lớn như cái trục máy dệt. Lúc đánh người này, trong tay Bê-na-gia chỉ có một cây gậy. Ông giật thương từ tay người Ai Cập này, rồi lấy thương đó giết hắn.
24,25 Nhờ những chiến công này, Bê-na-gia rất có danh vọng trong nhóm ‘Ba mươi dũng tướng,’ và nổi tiếng ngang hàng với ‘tam hùng,’ nhưng ông vẫn không có chân trong nhóm ‘tam hùng.’ Đa-vít đặt ông chỉ huy đoàn vệ binh.
26 Kế đến là các dũng sĩ sau đây: A-sa-ên em Giô-áp, Ên-ca-nan con Đô-đô ở Bết-lê-hem,
27 Sa-mốt người Ha-rô, Hê-lết người Phê-lô,
28 Y-ra con Y-kết ở Thê-cô-a, A-bi-ê-xe ở A-na-tốt,
29 Si-bê-cai người Hu-sa, Y-lai người A-hô,
30 Ma-hai-rai ở Nê-tô-pha, Hê-lết con Ba-a-na ở Nê-tô-pha,
31 Y-tai con Ri-bai, một người Bên-gia-min ở Ghi-bê-a, Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn,
32 Hu-rai ở bên suối Ga-ách, A-bi-ên người A-ra-ba,
33 Ách-ma-vết ở Ba-hu-rum, Ê-li-ác-ba ở Sa-anh-bôn,
34 Bê-nê-ha-sem người Ghi-xô, Giô-na-than con Sa-ghê người Ha-ra,
35 A-hi-giam con Sa-ca người Ha-ra, Ê-li-phan con U-rơ,
36 Hê-pha ở Mê-kê-ra, A-hi-gia ở Pha-lô,
37 Hết-rô ở Cát-mên, Na-a-rai con ết-bai,
38 Giô-ên em của Na-than, Míp-ha con Ha-gơ-ri,
39 Xê-léc dân Am-môn, Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt là người cận vệ của Giô-áp,
40 Y-ra và Ga-rép đều ở Giê-the,
41 U-ri người Hết, Xa-bát con ạc-lai,
42 A-đi-na con Si-xa người Ru-bên, một lãnh tụ của đại tộc Ru-bên (ông có ba mươi thuộc hạ),
43 Ha-nan con Ma-a-ca, Giô-sa-phát ở Mê-then,
44 U-xia ở Ách-ta-rốt, Sa-ma và Giê-hi-ên con của Hô-tam ở A-rô-e,
45 Giê-đi-a-ên con Sim-ri, Giô-ha và người em ở Thi-sít,
46 Ê-li-ên ở Ma-ha-vim, Giê-ri-bai và Giô-sa-via con Ên-na-am, Gít-ma dân Mô-áp,
47 Ê-li-ên, Ô-bết và Gia-a-si-ên người Mết-sô-ba.
1 Sau đây là tên những người theo Đa-vít lúc ông đang lánh mình ở Xiếc-lác vì Sau-lơ (con của Kích) lùng bắt. Họ là những chiến sĩ anh dũng chiến đấu bên cạnh ông sau này.
2 Những người ấy toàn là tay thiện xạ, cầm cung và ná bằng tay trái cũng giỏi như tay phải. Họ đều là người Bên-gia-min, đồng tộc với Sau-lơ:
3 Người chỉ huy là A-hi-ê-xe, với em là Giô-ách con Sê-ma ở Ghi-bê-a, Giê-xi-ên và Phê-lết con Ách-ma-vết, Bê-rê-ca, Giê-hu ở A-na-tốt,
4 Gít-mai-gia ở Ga-ba-ôn (anh dũng ngang hàng hoặc còn hơn cả ‘ba mươi dũng tướng,’) Giê-rê-mi, Gia-ha-xi-ên, Giô-ha-nan, Giô-xa-bát ở Ghê-đê-ra,
5 Ê-lu-xai, Giê-ri-mốt, Bê-a-lia, Sê-ma-ri-a, Sê-pha-ti-a ở Ha-rốp,
6 Ên-ca-na, Di-si-gia, A-xa-rôn, Giô-ê-xe, Gia-sô-bê-am người Cô-ra,
7 Giô-ê-la và Xê-ba-đia con Giê-rô-ham ở Ghê-đô.
8 Cũng có những chiến sĩ từ đất Gát đến theo Đa-vít lúc ông đang ẩn náu giữa một vùng hoang vu. Họ là những người dũng cảm, thiện chiến, chuyên sử dụng khiên và thương, diện mạo như sư tử, nhanh nhẹn như nai rừng.
9-14 Họ là mười một sĩ quan trong quân đội. Những người cấp dưới chỉ huy hàng trăm, người cấp trên chỉ huy hàng ngàn. Người cao cấp nhất là Ê-xe, rồi đến mười người nữa theo thứ tự cấp bậc từ trên xuống là Ô-ba-đia, Ê-li-áp, Mích-ma-na, Giê-rê-mi, ạt-tai, Ê-li-ên, Giô-ha-nan, Ên-xa-bát, Giê-rê-mi và Mác-ba-nai.
15 Họ vượt sông Giô-đan vào giữa tháng giêng, lúc nước dâng ngập bờ, đánh chiếm các thung lũng miền đông và miền tây.
16 Có những người từ đại tộc Bên-gia-min và Giu-đa đến nơi Đa-vít ẩn náu để gặp ông.
17 Ông ra chào đón, bảo họ: ‘Nếu anh em đến với tình thân hữu để giúp tôi, tôi sẽ tận tình với anh em. Nhưng nếu có ai định tâm phản trắc, tiết lộ bí mật của tôi cho địch, mặc dù tôi không làm điều gì quấy với anh em, xin Thượng Đế của tổ tiên ta chứng giám và trừng phạt những kẻ ấy.’
18 Lúc ấy, Thánh Linh giáng trên A-ma-sai, người đứng đầu nhóm ‘ba mươi dũng tướng.’ Ông đáp lời:
‘Chúng tôi là người của Đa-vít,
Chúng tôi về phe con Gie-sê.
Cầu chúc ông và những kẻ tùy tùng
đều được bình an,
Vì Thượng Đế giúp đỡ ông.’
Đa-vít thu nhận họ làm sĩ quan trong quân đội mình.
19 Lại có những người Ma-na-se bỏ hàng ngũ Y-sơ-ra-ên theo Đa-vít khi ông cùng với người Phi-li-tin đi đánh Sau-lơ. (Nhưng về sau, các nhà lãnh đạo Phi-li-tin hội thảo, rồi bảo Đa-vít quay về, vì lo sợ Đa-vít trở mặt theo Sau-lơ, đột ngột tấn công họ.)
20 Những người Ma-na-se theo Đa-vít lúc ông trên đường về Xiếc-lác gồm có: Át-na, Giô-xa-bát, Giê-đi-a-ên, Mi-ca-ên, Giô-xa-bát, Ê-li-hu và Xi-lê-thai, toàn là những sĩ quan chỉ huy hàng ngàn quân Ma-na-se.
21 Họ là những chiến sĩ anh dũng, nên đã giúp Đa-vít dẹp bọn giặc cướp.
22 Và cứ thế, ngày nào cũng có người theo Đa-vít, cho đến khi ông có một quân đội hùng mạnh như quân của Thượng Đế.
23 Sau đây là các đơn vị chiến đấu tập họp quanh Đa-vít tại Hếp-rôn, vì tin tưởng vương quốc của Sau-lơ sẽ về tay Đa-vít, theo lời Chúa Hằng Hữu đã báo trước.
24 Từ đại tộc Giu-đa có 6.800 người vũ trang bằng khiên và thương.
25 Từ đại tộc Si-mê-ôn có 7.100 chiến sĩ dũng cảm.
26 Từ đại tộc Lê-vi có 4.600 người.
27 Cũng có đạo quân của Giê-hô-gia-đa con cháu A-rôn, gồm 3.700 quân.
28 Lại có Xa-đốc, một thanh niên anh dũng, và 22 người khác trong gia đình ông đều là những sĩ quan chỉ huy quân Lê-vi.
29 Từ đại tộc Bên-gia-min, họ hàng của Sau-lơ, có 3.000 người. Tuy nhiên, cho đến lúc ấy, đa số người Bên-gia-min vẫn trung thành với Sau-lơ.
30 Từ đại tộc Ép-ra-im, 20.800 chiến sĩ dũng cảm, là những người có tiếng trong gia tộc.
31 Từ nửa đại tộc Ma-na-se có 18.000 chiến sĩ. Họ theo Đa-vít để ủng hộ ông lên ngôi làm vua.
32 Từ đại tộc Y-sa-ca, có 200 nhà lãnh đạo biết thời cơ, am hiểu đường tiến thoái của dân. Họ điều khiển những anh em đồng tộc.
33 Từ đại tộc Sa-bu-luân, có 50.000 binh sĩ thiện chiến, được vũ trang thật đầy đủ. Họ hết dạ trung thành với Đa-vít.
34 Từ đại tộc Nép-ta-li có 1.000 sĩ quan và 37.000 binh sĩ vũ trang bằng khiên và thương.
35 Từ đại tộc Đan, có 28.600 quân thiện chiến.
36 Từ đại tộc A-se có 40.000 quân thiện chiến.
37 Từ bên kia sông Giô-đan (đại tộc Ru-bên, đại tộc Gát và phân nửa đại tộc Ma-na-se) có 120.000 chiến sĩ được vũ trang thật đầy đủ.
38 Tất cả những chiến sĩ này kéo đến Hếp-rôn theo đội ngũ, nhất tâm phò Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên. Đồng thời, lòng dân nghiêng về Đa-vít.
39 Họ ở lại với Đa-vít ba ngày. Cuộc họp mặt này được chuẩn bị trước, và ai nấy ăn uống no nê vui vẻ.
40 Từ những miền lân cận cũng như những nơi xa xôi tận đất Y-sa-ca, Sa-bu-luân và Nép-ta-li, người ta dùng lừa, lạc đà, la và bò chở lương thực đến, gồm bột mì, bánh trái vả, nho, rượu, dầu, và cả bò và cừu vô số. Niềm hân hoan lan tràn khắp Y-sơ-ra-ên.
1 Đa-vít hội ý với các tướng lãnh, rồi truyền bảo đoàn dân đang tập họp:
2 ’Xét vì đồng bào muốn tôi lên ngôi báu, và xét vì Chúa là Chân Thần chúng ta cũng đã chấp thuận, chúng ta hãy cử sứ giả đi triệu tập dân khắp đất nước Y-sơ-ra-ên, kể cả các thầy tế lễ và người Lê-vi, để mời họ đến hiệp với chúng ta
3 rước Rương Giao Ước của Chân Thần về đây với chúng ta. Vì chúng ta đã bỏ bê Rương ấy dưới triều vua Sau-lơ.’
4 Toàn dân chúng đồng thanh tán thành đề nghị ấy, vì ai cũng thấy là việc nên làm.
5 Vậy, Đa-vít triệu tập dân khắp đất nước về dự lễ rước Rương Giao Ước của Thượng Đế từ Ki-ri-át Giê-a-rim lên thủ đô.
6 Đa-vít và toàn dân kéo đến Ba-a-la (tức Ki-ri-át Giê-a-rim) trong xứ Giu-đa để rước Rương Giao Ước của Thượng Đế, là Đấng đang ngự trên các thiên thần.
7 Người ta đem Rương Giao Ước ra khỏi nhà A-bi-na-đáp trên một chiếc xe mới. U-xa và A-hi-ô dắt bò kéo xe.
8 Đa-vít và dân nhảy múa trước mặt Chúa cách vô cùng hân hoan, ca hát, gảy thụ cầm, thất huyền cầm, đánh trống nhỏ, chập chỏa và thổi kèn.
9 Khi đám rước đến sân đạp lúa của Ki-đôn, U-xa đưa tay nắm giữ Rương Giao Ước vì bò trượt bước.
10 Cơn phẫn nộ của Chúa nổi phừng cùng U-xa và giết ông chết tại chỗ vì ông đã chạm đến Rương Giao Ước; vì vậy, U-xa chết trước mặt Chúa.
11 Đa-vít buồn phiền vì Chúa đã hình phạt U-xa, nên gọi địa điểm này là Phê-rết U-xa. Ngày nay vẫn còn dùng tên ấy.
12 Đa-vít sợ Chúa và tự hỏi: ‘Làm sao ta rước Rương của Chúa về nhà ta được?’
13 Rốt cuộc, vua quyết định rước Rương Giao Ước về nhà của Ô-bết Ê-đôm, người Ghi-tít, thay vì đem về thành Đa-vít.
14 Rương Giao Ước ở lại với gia đình Ô-bết Ê-đôm ba tháng. Chúa Hằng Hữu ban phước cho nhà Ô-bết Ê-đôm và mọi người, mọi vật thuộc về ông.
1 Hi-ram, vua Ty-rơ, sai sứ giả đem một đoàn thợ nề, thợ mộc, chở theo nhiều gỗ bá hương để giúp xây cất một cung điện cho vua Đa-vít.
2 Đa-vít nhận thấy Chúa đã lập mình làm vua nước Y-sơ-ra-ên và làm cho vương quốc cường thịnh chính là để đem lại niềm hân hoan cho dân Chúa.
3 Sau khi đóng đô tại Giê-ru-sa-lem, Đa-vít cưới thêm một số vợ và sinh thêm nhiều con trai, con gái.
4-7 Đây là tên các con trai Đa-vít sinh tại Giê-ru-sa-lem:
Sa-mua, Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, I-ba, Ê-li-sua, Ên-phê-lết, Nô-ga, Nê-phát, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Bê-ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.
8 Nghe tin Đa-vít đã lên ngôi làm vua nước Y-sơ-ra-ên, quân Phi-li-tin kéo toàn lực tấn công để bắt Đa-vít. Hay được tin đó, Đa-vít lập tức đem quân nghênh chiến.
9 Thấy quân Phi-li-tin đang tiến kích thung lũng Rê-pha-im,
10 Đa-vít cầu hỏi Chúa: ‘Nếu con xuất quân tấn công, Chúa có cho con chiến thắng địch không?’ Chúa đáp: ‘Con cứ tấn công, ta sẽ cho con chiến thắng!’
11 Vậy, Đa-vít tấn công và tiêu diệt quân đội Phi-li-tin, nên ông hân hoan ca ngợi Chúa: ‘Thượng Đế đã dùng ta quét sạch địch quân như nước phá vỡ bờ đê.’ Đa-vít gọi địa điểm này là Ba-anh Phê-ra-xim (chỗ nước phá vỡ bờ).
12 Quân Y-sơ-ra-ên thu được nhiều thần tượng mà quân Phi-li-tin bỏ lại; Đa-vít ra lệnh đem đốt sạch.
13 Phi-li-tin lại đem quân đánh vào thung lũng ấy một lần nữa.
14 Đa-vít lại cầu hỏi Chúa. Chúa bảo: ‘Con hãy đi bọc quanh rừng dâu mà tấn công.
15 Khi nào con nghe tiếng chân bước trên các ngọn dâu, con hãy xung phong vì Thượng Đế sẽ dẫn đường cho con và tiêu diệt địch quân.’
16 Đa-vít vâng lời Chúa, và đánh tan quân đội Phi-li-tin từ Ghi-bê-ôn đến Ghê-xe.
17 Đa-vít nổi danh khắp nơi và Chúa khiến tất cả các quốc gia đều kính sợ người.
1 Đa-vít xây cung điện trong thành phố Đa-vít, và chuẩn bị một Đền Tạm mới để rước Rương Giao Ước của Thượng Đế.
2 Vua ra lệnh: ‘Khi di chuyển Rương vào Đền Tạm, không ai được khiêng vác ngoại trừ người Lê-vi, vì Thượng Đế đã chọn họ làm việc ấy; họ sẽ phục vụ Chúa từ đời này sang đời khác!’
3 Đa-vít triệu tập toàn dân về Giê-ru-sa-lem để rước Rương của Chúa vào Đền Tạm mới.
4-10 Đây là số các thầy tế lễ và người Lê-vi hiện diện:
120 người thuộc tộc Kê-hát, dưới quyền lãnh đạo của U-ri-ên;
220 người thuộc tộc Mê-ra-ri, dưới quyền lãnh đạo của A-sa-gia;
130 người thuộc tộc Ghẹt-sôn, dưới quyền lãnh đạo của Giô-ên;
200 người thuộc tộc Ê-li-sa-phan, dưới quyền lãnh đạo của Sê- ma-gia;
80 người thuộc tộc Hếp-rôn, dưới quyền lãnh đạo của Ê-li-ên; và
112 người thuộc tộc U-xi-ên, dưới quyền lãnh đạo của A-mi-na-đáp.
11 Đa-vít triệu tập hai thầy tế lễ tối cao là Xa-đốc và A-bia-tha, các trưởng tộc người Lê-vi là U-ri-ên, A-sa-gia, Giô-ên, Sê-ma-gia, Ê-li-ên, và A-mi-na-đáp, mà hiểu dụ:
12 ’Các ngươi là cấp lãnh đạo người Lê-vi! Bây giờ, hãy dọn mình thánh sạch với các anh em mình, để được xứng đáng khiêng Rương của Chúa Hằng Hữu Chân Thần của Y-sơ-ra-ên đến nơi ta đã chuẩn bị.
13 Lần trước, vì các ngươi không làm như vậy và vì chúng ta không vâng giữ các mệnh lệnh Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của chúng ta, đã truyền dạy, nên Ngài đã nổi thịnh nộ với chúng ta.’
14 Vậy, các thầy tế lễ và người Lê-vi làm lễ tẩy uế, dọn mình thánh sạch để dời Rương của Chúa Hằng Hữu, Chân Thần của Y-sơ-ra-ên.
15 Các người Lê-vi dùng đòn khiêng Rương trên vai mình, đúng như lời Chúa dặn Mai-sen dạy bảo dân Ngài.
16 Vua Đa-vít ra lệnh cho các nhà lãnh đạo người Lê-vi tổ chức các ca đoàn và dàn nhạc. Các ca sĩ và các nhạc công hân hoan ca hát và cử nhạc vang lừng bằng thất huyền cầm, thụ cầm và chập chỏa,
17 dưới quyền điều khiển của các nhạc trưởng Hê-man con Giô-ên, A-sáp con Bê-rê-kia và Ê-than con Cư-sai thuộc tộc Mê-ra-ri.
18 Đây là tên các phụ tá nhạc trưởng:
Xa-cha-ri, Gia-a-xiên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hiên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia, Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lê, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên là những người canh cửa.
19 Hê-man, A-sáp và Ê-than đánh chập chỏa.
20 Xa-cha-ri, A-xiên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hiên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-xê-gia và Bê-na-gia làm ban hát tám người có đệm thụ cầm.
21 Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lê, Mích-nê-gia, Ô-bết Ê-đôm, Giê-hiên, và A-xa-xia gảy thụ cầm.
22 Kê-na-nia, trưởng tộc người Lê-vi, vì có tài âm nhạc nên được cử điều khiển ca đoàn.
23 Bê-rê-kia và Ên-ca-na canh gác Rương Giao Ước.
24 Các thầy tế lễ Sê-ba-nia, Giô-sa-phát, Nê-tha-nên, A-ma-sai, Xa-cha-ri, Bê-na-gia, và Ê-li-ê-se làm đội kèn đi đầu đám rước. Ô-bết Ê-đôm và Giê-hi-gia cũng canh gác Rương Giao Ước.
25 Vậy, vua Đa-vít, cùng các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên và các tướng lãnh, đi lên nhà của Ô-bết Ê-đôm rước Rương Giao Ước cách vui mừng.
26 Vì Chúa phù hộ những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của Ngài, nên người ta dâng bảy con bò đực và bảy con chiên đực.
27 Đa-vít, các người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước, ca đoàn và nhạc trưởng Kê-na-nia đều mặc áo dài vải gai mịn. Đa-vít cũng mặc chiếc áo choàng bằng vải gai.
28 Vậy, các cấp lãnh đạo Y-sơ-ra-ên rước Rương Giao Ước về Giê-ru-sa-lem với tiếng tung hô mừng rỡ, với điệu kèn và tù và, với chập chỏa vang rền, với thụ cầm và thất huyền cầm réo rắt.
29 Khi Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu vào thành phố Đa-vít, hoàng hậu Mỵ-canh (con gái Sau-lơ) nhìn qua cửa sổ thấy vua Đa-vít nhảy múa vui mừng thì khinh bỉ vua trong lòng.
1 Họ đem Rương của Chúa vào đặt trong trại mà Đa-vít đã dựng lên, rồi dâng các tế lễ thiêu và tế lễ bình an trước mặt Thượng Đế.
2 Dâng tế lễ xong, Đa-vít nhân Danh Chúa chúc phước lành cho dân,
3 và phân phát cho toàn dân nam nữ mỗi người một ổ bánh mì, một miếng thịt và một chiếc bánh nho.
4 Đa-vít cử một số người Lê-vi phục vụ trước Rương của Chúa để cầu nguyện, cảm tạ, và ca ngợi Chúa là Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên:
5 A-sáp, trưởng ban; Xa-cha-ri, phó trưởng ban; Giê-yên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hiên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-yên là các nhạc công thụ cầm và thất huyền cầm. A-sáp đánh chũm chọe;
6 hai thầy tế lễ Bê-na-gia và Gia-ha-xiên thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước.
7 Hôm ấy, Đa-vít bắt đầu dùng ca đoàn thầy tế lễ hát xướng cảm tạ Chúa. A-sáp làm nhạc trưởng của ca đoàn.
8 Đây là bài ca đầu tiên:
Ôi, hãy cảm tạ, kêu cầu Danh Chúa,
Hãy thuật lại cho các dân tộc khắp thế gian
Về những công việc vĩ đại Ngài thực hiện.
9 Hãy hát xướng, ca ngợi Chân Thần,
Kể hết các thành tích kỳ diệu của Ngài.
Tất cả những người tìm kiếm Chúa, hãy hân hoan!
10 Hãy lấy Danh Thánh Ngài làm vinh,
11 Hãy tìm kiếm Chúa và thần năng lực,
Hãy tìm kiếm mặt Ngài mãi mãi.
12,13 Hỡi các đầy tớ Chúa, hậu tự Áp-ra-ham,
Các dòng dõi được chọn của Gia-cốp!
Hãy ghi nhớ những công trình vĩ đại,
Các việc kỳ diệu Chúa hoàn thành,
Và lời phán xét vô cùng cao cả.
14,15 Ngài là Chúa Tể, Chân Thần,
Chúa lưu ý giao ước Ngài mãi mãi,
Ngài phán xét khắp cả nhân gian,
Nhớ Lời Ngài truyền phán suốt muôn năm,
16 Nhớ giao ước Ngài lập với Áp-ra-ham,
Cùng lời Ngài thề hứa với Y-sác.
17 Gia-cốp được Ngài ban
Một giao ước đời đời.
18 ’Ta sẽ cho ngươi đất Ca-na-an
Làm phần cơ nghiệp.’
19 Khi họ còn là một thiểu số,
Một nhóm người không đáng kể
Đang kiều ngụ trong xứ ngoại bang,
20 Lưu lạc giữa các dân tộc
Từ nước này qua nước khác, lang thang.
21 Chúa không cho ai được ra tay áp bức,
Ngài quở trách các vua để bênh vực tuyển dân,
22 ’Đừng động đến những người Ta xức dầu,
Đừng làm hại các tiên tri Ta chọn!’
23 Thế giới hỡi, hãy hát mừng Thiên Chúa,
Ngày lại ngày, hãy thuật lại cứu ân
24 Hãy tuyên dương vinh hiển Ngài giữa các nước,
Công bố việc diệu kỳ Ngài cho mọi dân.
25 Vì Đấng Hằng Hữu thật là vĩ đại,
Ngài đáng kính sợ ca ngợi hơn các thần.
26 Vì thần của các dân chỉ là thần tượng,
Còn Đấng sáng tạo vũ trụ là Chân Thần.
Nơi Chúa ngự đầy uy nghi quyền lực.
27 Trước mặt Chúa, rực rỡ vinh quang,
28 Hỡi các khối dân tộc, hãy tôn vinh
Chúa Tự Hữu Hằng Hữu Toàn Năng.
29 Hãy tôn vinh Chúa cho xứng đáng,
Đem lễ vật cung hiến trước mặt Ngài.
Hãy quỳ lạy khi đức thánh khiết Ngài chiếu rạng.
30 Hỡi cả thế giới, hãy run rẩy trước Chân Thần!
Địa cầu vẫn vững bền, không sụp đổ.
31 Các tầng trời, cũng hãy hân hoan!
Nhân gian hãy vui mừng, hớn hở.
Tất cả các dân, hãy tung hô rằng:
‘Chúa Hằng Hữu ngự trị khắp vũ trụ và thế nhân!’
32 Các đại dương và cá biển hãy gầm thét,
Các đồng ruộng hãy liên hoan,
33 Các cây cối trên rừng thẳm,
Hãy hát mừng trước mặt Ngài,
Vì Chúa ngự đến xét xử thế gian.
34 Ô! Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài chí thiện,
Lòng từ ái Chúa tồn tại muôn năm.
35 Hãy kêu xin Ngài: ‘Lạy Thần Cứu Độ,
Từ các quốc gia khắp thế gian,
Xin cứu vớt, tập họp, và giải thoát.
Để chúng con ghi ân cảm tạ
Và được vinh dự ca ngợi Thánh Danh.
36 Y-sơ-ra-ên nhận Chúa là Chân Thần
Ngài đáng chúc tụng đời đời mãi mãi!’
Tất cả dân đều đồng thanh đáp: ‘Thành tâm sở nguyện!’ và ca tụng Chúa.
37 Vua Đa-vít chỉ định A-sáp và các anh em người giữ nhiệm vụ coi sóc Rương Giao Ước của Chúa, để chia phiên phục vụ hằng ngày.
38 Ô-bết-ê-đôm (con Giê-đu-thun), Hô-sa và ba anh em người được cắt canh gác cửa Đền Tạm.
39 Thầy tế lễ tối cao Xa-đốc và đoàn thể các thầy tế lễ phục vụ tại Đền Tạm của Chúa Hằng Hữu, tại đỉnh núi Ga-ba-ôn.
40 Mỗi buổi sáng và buổi chiều, họ dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ cho Chúa, đúng theo luật lệ Ngài đã truyền dạy Y-sơ-ra-ên.
41 Ban hợp xướng do Hê-man và Giê-đu-thun điều khiển, gồm các ca sĩ chọn lọc để ca hát tụng ngợi Chúa Hằng Hữu, vì lòng thương xót Ngài còn đến đời đời.
42 Hê-man và Giê-đu-thun cũng thổi kèn và đánh chập chỏa, hòa tấu với dàn nhạc cử các bài thánh ca của Chúa. Các con trai của Giê-đu-thun giữ nhiệm vụ gác cửa.
43 Xong buổi lễ, dân chia tay, mỗi người trở về nhà mình. Còn Đa-vít cũng về cung để chúc phước lành cho hoàng tộc.
1 Sau khi Đa-vít vào Àcung điện mới xây, vua bàn với tiên tri Na-than: ‘Này, ta đang ở trong cung bằng gỗ bá hương, còn Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu lại để ngoài trại!’
2 Na-than tâu: ‘Xin bệ hạ cứ thực thi mọi điều mình dự định, vì Thượng Đế ở với bệ hạ!’
3 Nhưng ngay tối hôm ấy, có lời Thượng Đế phán với Na-than rằng:
4 ’Con hãy đi bảo đầy tớ Ta là Đa-vít: Chúa Hằng Hữu phán: Con sẽ không xây cất Đền Thờ cho Ta ngự đâu!
5 Vì từ khi ta đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập đến ngày nay, Ta không ngự trong Đền Thờ nào cả, nhưng Ta đi từ trại này qua trại khác, từ Đền Tạm nọ tới Đền Tạm kia.
6 Khi Ta qua lại giữa Y-sơ-ra-ên, có bao giờ ta bảo các quan án quốc gia Y-sơ-ra-ên, những người Ta ủy thác nhiệm vuc nuôi dân Ta, rằng: ‘Tại sao ngươi không làm nhà bằng gỗ bá hương cho Ta?’
7 Bây giờ con hãy bảo Đa-vít, đầy tớ Ta: ‘Chúa Hằng Hữu Toàn Năng phán: Ta đã đem con ra khỏi nhà con, từ địa vị chăn cừu; Ta lập con làm vua Y-sơ-ra-ên Ta;
8 Ta đã ở với con trong mọi nơi con đi; Ta đã tiêu diệt tất cả các thù nghịch con trước mặt con; Ta đã làm cho con nổi danh trên thế giới.
9 Ta sẽ chuẩn bị một chỗ ở cho Y-sơ-ra-ên Ta. Họ an cư lạc nghiệp, không còn bị quấy rối nữa. Các dân tộc gian ác sẽ không còn chinh phục họ như ngày xưa,
10 từ ngày Ta lập các quan án để lãnh đạo Y-sơ-ra-ên Ta. Ta sẽ khắc phục tất cả các thù nghịch con. Ta tuyên bố rằng Chúa Hằng Hữu sẽ xây dựng cho con thành một triều đại.
11 Khi con lâm chung để trở về với tổ phụ, Ta sẽ đặt một con trai con trên ngai con. Ta sẽ tăng cường vương quốc nó.
12 Nó sẽ xây cất cho Ta một Đền Thờ và Ta sẽ cho dòng dõi nó làm vua đời đời.
13 Ta sẽ làm Cha nó; nó sẽ làm con Ta. Ta sẽ chẳng bao giờ chấm dứt lòng thương xót nó như Ta đã làm cho Sau-lơ.
14 Ta sẽ đặt nó trong Nhà Ta và trong vương quốc Ta cho đến đời đời. Ngai nước nó sẽ vững lập đời đời!’
15 Na-than thuật cho Đa-vít đúng từng lời Chúa phán trong khải tượng này.
16 Vua Đa-vít liền vào, ngồi trước mặt Chúa và cầu nguyện: ‘Lạy Chúa Hằng Hữu, con là ai, gia đình con là gì mà Chúa đưa con lên địa vị này?
17 Vì tất cả những việc vĩ đại Chúa đã làm cho con còn là quá nhỏ so với những việc Chúa hứa sẽ thực hiện trong tương lai. Lạy Chúa là Chân Thần, bây giờ Chúa lại hứa cho dòng dõi con được làm vua trong tương lai! Chúa làm như con là một bậc vĩ nhân vậy!
18 Con còn biết nói gì đây? Chúa biết con chỉ là kẻ vô cùng hèn hạ, thế mà Chúa lại tôn trọng con!
19 Lạy Chúa, Chúa hứa cho con những điều kỳ diệu đó chỉ vì Chúa muốn tỏ lòng nhân từ với con, theo lòng nhân từ vô biên của Ngài.
20 Lạy Chúa, chẳng ai giống như Ngài. Chẳng có thần nào so sánh được với Chúa! Thật ra, chúng con chưa bao giờ nghe nói có thần nào nhân ái như Chúa cả!
21 Hơn nữa, khắp thế giới có dân tộc nào giống Y-sơ-ra-ên đâu! Chúa đã tạo nên một dân tộc độc đáo, rồi cứu chuộc họ ra khỏi Ai Cập, để họ làm dân Chúa. Chúa đã được lừng Danh khắp thế giới khi Chúa làm những phép lạ vĩ đại và đáng sợ để đuổi các dân tộc khác trước mặt dân Ngài.
22 Chúa đã tuyên bố rằng Y-sơ-ra-ên thuộc về Chúa mãi mãi, và Chúa là Thần của họ.
23 Lạy Chúa, bây giờ con xin nhận lời Chúa hứa cho con và dòng dõi con trị vì dân tộc này mãi mãi.
24 Nguyện chính việc này đem lại vinh quang đời đời cho Chúa vì mọi người đều biết rõ Chúa luôn luôn giữ lời hứa. Người ta sẽ ca tụng Chúa rằng: ‘Chúa Toàn Năng thật là Thần của Y-sơ-ra-ên!’ Và Y-sơ-ra-ên sẽ được dòng dõi con trị vì mãi mãi.
25 Vì thế, con đánh bạo cầu nguyện với Chúa.
26 Lạy Chúa, Chúa là Chân Thần, và bây giờ Chúa đã ban cho con lời hứa quí báu này!
27 Nguyện Chúa ban phúc lành cho gia đình con và dòng dõi con đời đời, vì lạy Chúa, khi nào Chúa ban phúc lành, thì phúc lành đó thật là vĩnh cửu!’
1 Sau đó, Đa-vít chiến thắng và khắc phục Phi-li-tin, chiếm đóng Gát và các thành phụ cận.
2 Vua cũng chiến thắng dân Mô-áp, bắt dân ấy phục dịch và triều cống.
3 Đa-vít chiếm đóng nước của Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, cho đến tận Ha-mát, đúng vào thời kỳ vua ấy đem quân đi chinh phục thung lũng Phát-giang.
4 Đa-vít bắt được 1.000 chiến xa, 7.000 kỵ binh và 20.000 bộ binh. Đa-vít cho cắt nhượng ngựa, làm tê liệt tất cả đàn ngựa kéo chiến xa, chỉ giữ lại đủ cho một trăm chiến xa mà thôi.
5 Khi quân đội Sy-ri kéo đến tiếp viện cho Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, Đa-vít giết 22.000 lính Sy-ri,
6 rồi đặt một đoàn quân trú phòng tại Đa-mách, thủ đô nước Sy-ri. Vậy, dân Sy-ri cũng phải triều cống cho Đa-vít. Bất luận Đa-vít đi đến đâu, Chúa cũng cho vua chiến thắng.
7 Đa-vít thu lấy các áo giáp bằng vàng của các tướng sĩ của Ha-đa-rê-xe, và đem về Giê-ru-sa-lem,
8 luôn với một số lượng đồng rất lớn thu tại các thành phố Tiếp-hát và Cung của vua Ha-đa-đê-xe. (Về sau Sa-lô-môn nấu số đồng này để kiến thiết Đền Thờ, như chế tạo cái hồ nước, các cột trụ và các dụng cụ dâng sinh tế trên bàn thờ.)
9 Khi Thu, vua Ha-mát, được tin Đa-vít đã đánh tan tất cả quân đội của Ha-đa-đê-xe, vua Xô-ba,
10 liền sai hoàng tử Ha-đô-ram đến yết kiến Đa-vít để chúc mừng và dâng lễ vật bằng vàng, bạc và đồng vì Ha-đa-rê-xe vốn là kẻ thù địch của Thu.
11 Đa-vít thánh hóa cho Chúa tất cả bạc vàng đã thu được trong tất cả các nước: Ê-đôm, Mô-áp, Am-môn, Phi-li-tin, và A-ma-léc.
12 A-bi-sai (con Xê-ru-gia) đã tiêu diệt 18.000 quân Ê-đôm tại trũng Muối,
13 và đặt các căn cứ quân sự trong xứ Ê-đôm, nên toàn dân Ê-đôm phải phục vụ Đa-vít. Chúa Hằng Hữu cho Đa-vít toàn thắng khắp nơi.
14 Đa-vít trị vì trên cả nước Y-sơ-ra-ên cách công minh.
15 Giô-áp (con Xê-ru-gia) giữ chức tổng tư lệnh quân đội. Giô sa-phát (con A-hi-lục) làm ngự sử.
16 Xa-đốc (con A-hi-túp) và A-bi-me-léc (con A-bia-tha) hành chức tế lễ tối cao. Sa-vê-sa làm tổng thư ký.
17 Bê-na-gia (con Giê-hô-gia-đa) chỉ huy lữ đoàn cận vệ người Kê-rết và Phê-lết. Các hoàng tử đều phụ tá cho vua.
1 Sau đó, Na-hách, vua nước Am-môn, qua đời. Hoàng tử Ha-nun lên ngôi kế vị.
2 Đa-vít nói: ‘Ta muốn đền ơn cho Na-hách bằng cách yểm trợ Ha-nun, con trai người.’ Đa-vít cử các sứ thần đến phân ưu với vua Ha-nun. Các sứ thần qua nước Am-môn, xin yết kiến Ha-nun để phân ưu.
3 Nhưng các quan lớn trong triều đình Am-môn tỏ ý nghi ngờ thiện chí của Đa-vít: ‘Vua tưởng Đa-vít thật lòng tôn kính tiên đế nên sai sứ thần đến phân ưu sao? Thật ra nó sai sứ thần đi do thám để tiêu diệt đất nước ta!’
4 Ha-nun ra lệnh bắt các sứ thần của Đa-vít, cạo râu, và cắt phân nửa áo của họ, rồi trục xuất.
5 Được tin báo, Đa-vít cho người đi đón các sứ thần đang bị tủi nhục và bảo họ tạm trú tại Giê-ri-cô cho đến ngày râu mọc lại, rồi mới trở về.
6 Dân Am-môn ý thức rằng Đa-vít kinh tởm họ, nên sai đem 1.000 ta lâng bạc qua xứ Lưỡng Hà, đến tận A-ram Ma-a-ca và Xô-ba, để thuê chiến xa và kỵ binh.
7 Họ thuê được 32.000 chiến xa do dân Ma-a-ca điều khiển, đặt dưới quyền chỉ huy của vua nước Ma-a-ca. Đoàn chiến xa kéo qua đóng tại trước Mê-đê-ba. Đồng thời, quân đội Am-môn từ tất cả các thành phố đều tập họp, sẵn sàng tác chiến.
8 Hay được tin đó, vua Đa-vít ra lệnh cho tướng Giô-áp đem toàn lực quân đội gồm các chiến sĩ can đảm ra chống đánh quân thù.
9 Bộ đội Am-môn xuất quân, bày binh bố trận trước cổng thành, còn quân đồng minh bố trí giữa cánh đồng.
10 Tướng Giô-áp nhận thấy địch định bao vây quân Y-sơ-ra-ên, liền chia quân làm hai, đem các đội chủ lực chống đánh quân Sy-ri,
11 còn lực lượng kia đặt dưới quyền chỉ huy của tướng A-bi-sai, em mình, để đối phó với quân Am-môn.
12 Giô-áp bảo A-bi-sai: ‘Nếu quân Sy-ri mạnh hơn anh, em sẽ chia quân yểm trợ anh. Nếu quân Am-môn áp đảo em, anh sẽ chia quân yểm trợ em.
13 Hãy vững chí kiên tâm như đại trượng phu chiến đấu vì dân vì nước để bảo vệ các thành của Thượng Đế ta. Cầu Chúa thực hiện ý định của Ngài.’
14 Giô-áp đem quân xung phong vào quân Sy-ri; địch bỏ chạy tán loạn.
15 Thấy quân Sy-ri đã thua chạy, quân Am-môn cũng khiếp đảm tháo lui trước khí thế quân sĩ A-bi-sai và rút về thành phố họ. Tướng Giô-áp bèn kéo quân về thủ đô.
16 Sau cuộc thất trận ấy, quân đội Sy-ri sai người đi cầu viện các lực lượng Sy-ri đóng ở tả ngạn Phát-giang, đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Sô-phác, thuộc quân đội của Ha-đa-rê-xe.
17 Hay được tin đó, vua Đa-vít liền động viên toàn quốc, đem quân vượt qua sông Giô-đan để chống đánh quân Sy-ri. Bị quân đội của Đa-vít chận đánh, quân Sy-ri xung phong tấn công,
18 nhưng bị đánh tan, mỗi đơn vị chạy một ngả. Bảy ngàn lính cưỡi chiến xa cùng bốn mươi ngàn bộ binh tử trận. Tướng Sô-phác, tổng tư lệnh quân đội Sy-ri, cũng bỏ mạng tại chiến trường.
19 Sau cuộc đại bại, triều đình của vua Ha-đa-rê-xe xin lập hòa ước với Đa-vít và phục dịch vua. Từ đó, dân tộc Sy-ri không còn muốn xuất quân cứu viện Am-môn nữa.
1 Vào mùa Xuân, lúc các vua kéo quân đi chinh chiến, tướng Giô-áp đem quân tấn công tàn phá Am-môn, và bao vây thủ đô Ráp-ba, trong khi vua Đa-vít còn ở lại Giê-ru-sa-lem. Giô-áp công hãm Ráp-ba và hủy phá thành phố.
2 Đa-vít lấy vương miện trên đầu vua Am-môn mà đội; vương miện này nặng một ta lâng vàng, cẩn nhiều châu ngọc. Chiến lợi phẩm rất nhiều.
3 Dân chúng Ráp-ba bị cực hình xử tử bằng cưa, rìu hoặc bừa sắt. Dân chúng các thành phố khác trong xứ Am-môn cũng cùng chung số phận. Xong cuộc viễn chinh, Đa-vít kéo quân về thủ đô Giê-ru-sa-lem.
4 Sau đó, chiến tranh lại bùng nổ tại Ghê-xe với Phi-li-tin. Si-bê-cai, người Hu-sa giết được một người khổng lồ của Phi-li-tin tên là Síp-bai nên Phi-li-tin chịu hàng phục.
5 Trong một cuộc chiến với Phi-li-tin, Ên-ha-nan (con Giai-rơ) giết được Lác-mi (em Gô-li-át), quê thành phố Gát; cán dáo của người khổng lồ này lớn bằng cây trục lớn của máy dệt.
6 Chiến sự lại sôi động tại thành phố Gát. Địch có một danh tướng khổng lồ, tay chân đều có sáu ngón.
7 Tướng Phi-li-tin này nhục mạ Y-sơ-ra-ên, nhưng rốt cuộc bị Giô-na-than (con Si-mê-a, cháu Đa-vít) hạ thủ.
8 Đó là ba người khổng lồ tại Gát, xứ Phi-li-tin, trước sau đều tử trận dưới tay Đa-vít và các tướng tá của vua.
1 Quỷ vương Sa-tan muốn phá hoại Y-sơ-ra-ên, nên xúi Đa-vít kiểm tra dân số.
2 Đa-vít ra lệnh cho Giô-áp và các đại thần: ‘Hãy đi kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên từ Bê-e-sê-ba cho đến Đan, rồi đem bảng thống kê về cho ta biết dân số toàn quốc.’
3 Giô-áp tâu: ‘Cầu Chúa Hằng Hữu tăng dân số dân gấp trăm lần! Tất cả dân không phải là đầy tớ bệ hạ sao? Tại sao bệ hạ muốn kiểm tra dân số? Tại sao bệ hạ gây cho Y-sơ-ra-ên mắc tội?’
4 Tuy nhiên, vua bác bỏ lời can gián của Giô-áp, nên Giô-áp ra đi khắp đất nước Y-sơ-ra-ên, thi hành phận sự rồi quay về Giê-ru-sa-lem.
5 Giô-áp đệ trình bảng thống kê dân số toàn quốc lên nhà vua: Y-sơ-ra-ên được 1.100.000 chiến sĩ. Giu-đa được 470.000 chiến sĩ.
6 Tuy nhiên, Giô-áp không kiểm ra dân số hai đại tộc Lê-vi và Bên-gia-min vì ông không ưa lệnh của nhà vua.
7 Dưới mắt Thượng Đế, kiểm tra dân số trong trường hợp này là một tội ác, nên Ngài hình phạt Y-sơ-ra-ên.
8 Đa-vít thưa với Chúa: ‘Con đã phạm tội nặng quá, vì con làm việc này. Bây giờ, con xin Chúa bỏ qua tội ác của tôi tớ Chúa, vì con đã hành động cách điên dại!’
9 Chúa Hằng Hữu liền bảo Gát, người tiên kiến của Đa-vít:
10 ’Con hãy đi bảo Đa-vít rằng, Chúa Hằng Hữu phán: Ta cho con chọn một trong ba điều; Ta sẽ thi hành điều con chọn!’
11 Gát yết kiến vua Đa-vít, tâu rằng: ‘Chúa Hằng Hữu phán: Hãy chọn một trong ba điều:
12 ba năm đói kém, ba tháng bị địch quân đánh bại bằng lưỡi kiếm, hoặc ba ngày bị lưỡi kiếm của Chúa Hằng Hữu hình phạt, tức là ba ngày dịch hạch trong đất nước, và thiên sứ Chúa Hằng Hữu phá hoại suốt cả lãnh thổ Y-sơ-ra-ên. Vậy, bệ hạ chọn điều nào, xin cho tôi biết để về thưa lại cho Đấng đã sai tôi!’
13 Đa-vít đáp lời Gát: ‘Ta gặp hoạn nạn lớn. Nhưng bây giờ, ta xin nạp mình vào tay Chúa Hằng Hữu, vì lòng thương xót của Ngài thật vĩ đại, xin đừng để ta sa vào tay loài người!’
14 Chúa Hằng Hữu sai trận dịch hình phạt Y-sơ-ra-ên làm 70.000 người nam thiệt mạng.
15 Thượng Đế sai một thiên sứ đến Giê-ru-sa-lem để hủy diệt. Nhưng khi thiên sứ đang ra tay hành hại, Chúa Hằng Hữu thấy, liền đổi ý về tai họa nên Ngài ra lệnh cho thiên sứ: ‘Đủ rồi! Hãy ngưng tay!’ Lúc ấy, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đang đứng tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu.
16 Đa-vít ngước mắt nhìn, bỗng thấy thiên sứ Chúa Hằng Hữu đang đứng giữa không trung, tuốt gươm cầm sẵn, tay vươn ra trên Giê-ru-sa-lem. Đa-vít và các trưởng lão đều sấp mặt xuống đất, lấy áo tang phủ trên đầu.
17 Đa-vít thưa với Chúa: ‘Con chính là người đã bảo kiểm tra dân số. Vâng, chính con đã phạm tội, thật đã làm việc ác. Còn đàn chiên này có làm gì đâu? Lạy Chúa Hằng Hữu, là Chân Thần của con, con nài xin Chúa hãy đưa tay đánh phạt con và nhà cha con, nhưng xin đừng để dân Chúa bị tai họa!’
18 Thiên sứ của Chúa liền sai Gát đi bảo Đa-vít: ‘Quả thật, Đa-vít sẽ lên đây xây dựng một bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu.’
19 Vậy, Đa-vít vâng lời Chúa mà Gát đã nhân Danh Ngài truyền lại, và đi lên địa điểm này.
20 Ọt-nan xây lại, chợt thấy thiên sứ. Bốn con trai của Ọt-nan đang ở bên cạnh liền đi trốn.
21 Lúc ấy, Ọt-nan nhìn thấy vua liền ra khỏi sân đạp lúa, rạp mình cúi chào.
22 Đa-vít bảo Ọt-nan: ‘Ngươi hãy nhường cho ta khu sân đạp lúa này, ta sẽ trả đúng giá tiền, để ta xây một bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu ngõ hầu Ngài ngưng tai họa cho dân.’
23 Ọt-nan đáp: ‘Muôn tâu, xin bệ hạ cứ lấy sân đạp lúa này mà sử dụng theo ý muốn. Tôi cũng xin hiến thêm các con bò dùng làm tế lễ thiêu, các dụng cụ đập lúa làm củi, cùng lúa mì để dâng lễ chay. Tôi xin hiến dâng tất cả.’
24 Nhưng vua Đa-vít bảo Ọt-nan: ‘Không đâu! Ta chỉ muốn mua đúng giá, vì ta không muốn lấy của cải của ngươi, hoặc các tế lễ mà ta không trả tiền, để dâng lên Chúa Hằng Hữu.’
25 Đa-vít trả cho Ọt-nan sáu trăm lạng vàng để mua miếng đất.
26 Rồi Đa-vít xây một bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu, dâng tế lễ thiêu và tế lễ bình an, và kêu cầu Chúa Hằng Hữu. Chúa liền đáp lời vua bằng cách giáng lửa từ trời xuống bàn thờ dâng tế lễ thiêu.
27 Chúa ra lệnh cho thiên sứ thu gươm vào vỏ.
28 Bấy giờ, khi nhận thấy Chúa đã nhậm lời mình tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu, Đa-vít liền tiếp tục dâng tế lễ tại đó.
29 Trong khi đó, Đền Tạm của Chúa mà Mai-sen đã làm tại sa mạc và bàn thờ dâng tế lễ thiêu vẫn còn để trên nơi cao tại Ghi-bê-ôn.
30 Nhưng Đa-vít không thể đi đến đó để tìm kiếm Thượng Đế, vì vua khiếp sợ thanh kiếm của thiên sứ Chúa Hằng Hữu.
1 Đa-vít tuyên bố: ‘Đây là Nhà của Thượng Đế và đây là bàn thờ để Y-sơ-ra-ên dâng tế lễ thiêu!’
2 Vua ra lệnh tập họp các ngoại kiều đang ở trong đất nước Y-sơ-ra-ên, và cắt đặt các thợ nề để chẻ đá xây cất Đền Thờ Thượng Đế.
3 Đa-vít tồn trữ đủ thứ vật liệu: Một số lượng sắt dồi dào để làm đinh, bản lề;rất nhiều đồng không ai cân hết được;
4 gỗ bá hương nhiều vô kể mà dân Si-đôn và Ty-rơ chở đến cho Đa-vít cách dư dật,...
5 Đa-vít thưa với Chúa: ‘Sa-lô-môn, con trai con, hãy còn thơ dại, mà Đền Thờ xây cất cho Chúa phải vĩ đại, nguy nga, đẹp đẽ nhất trong đất nước. Vậy, con xin Chúa cho phép con chuẩn bị cho công trình kiến thiết này!’ Vậy, Đa-vít tồn trữ vật liệu thật dồi dào trước ngày qua đời.
6 Đa-vít cho gọi con trai là Sa-lô-môn đến và truyền bảo Sa-lô-môn xây cất Đền Thờ cho Chúa Hằng Hữu, Chân Thần của Y-sơ-ra-ên.
7 Đa-vít bảo Sa-lô-môn: ‘Con ạ! Cha dự định xây cất một Đền Thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu
8 nhưng Chúa bảo cha: ‘Ngươi đã làm máu chảy nhiều trong các cuộc chiến tranh lớn, vì thế, ngươi không được cất Đền Thờ cho Danh Ta.
9 Nhưng con trai ruột ngươi sẽ là người hiếu hòa, Ta sẽ cho nó hưởng thái bình. Các nước thù nghịch xung quanh sẽ không tấn công vào nước nó; tên nó là Sa-lô-môn. Ta sẽ cho Y-sơ-ra-ên hưởng thái bình suốt đời nó.
10 Chính nó sẽ xây cất Đền Thờ cho Danh Ta. Ta sẽ nhận nó làm con. Ta sẽ củng cố ngôi nước nó mãi mãi.’
11 Con ơi, bây giờ cầu xin Chúa Hằng Hữu ở cùng con và giúp con thành công. Con sẽ xây cất Đền Thờ Thượng Đế Hằng Hữu của con, đúng như lời Ngài phán dặn.
12 Cầu Chúa ban cho con đủ khôn ngoan sáng suốt, giúp con lãnh đạo quốc dân, để con vâng giữ luật Chúa.
13 Nếu con cẩn thận tuân hành luật pháp và mệnh lệnh Chúa đã truyền cho Y-sơ-ra-ên qua Mai-sen, thì con sẽ thành công rực rỡ. Con hãy kiên tâm vững chí! Đừng sợ sệt kinh hãi.
14 Cha đã chịu biết bao gian khổ để thu trữ cho việc xây cất Đền Chúa 3.450 tấn vàng và 34.500 tấn bạc, vô số đồng, sắt, với một số lớn gỗ và đá; nhưng con cũng cần đóng góp thêm.
15 ’Hơn nữa, con có đầy đủ nhân công, thợ đá, thợ nề, thợ mộc, và người chuyên môn đủ các ngành,
16 và vô số vàng, bạc, đồng, sắt. Hãy bắt tay vào việc thì Chúa Hằng Hữu sẽ ở cùng con!’
17 Vua Đa-vít cũng dặn các quan lớn trong triều hết lòng ủng hộ Sa-lô-môn, con mình:
18 ’Thượng Đế Hằng Hữu ở với các ngươi, ban cho các ngươi sự thái bình với các nước lân bang. Tất cả các dân tộc trong nước đều suy phục ta, toàn quốc đều phục Chúa và dân Ngài.
19 Vậy, bây giờ hãy hết lòng, hết ý tìm cầu Thượng Đế Hằng Hữu của các ngươi. Hãy vùng dậy, kiến thiết Đền Thánh cho Chúa, để rước Rương Giao Ước của Ngài, và các dụng cụ đã chế sẵn, vào Đền Thờ Ngài.’
1 Khi đã già yếu vì cao tuổi, Đa-vít lập hoàng thái tử Sa-lô-môn lên ngôi làm vua nước Y-sơ-ra-ên.
2 Vua triệu tập các lãnh tụ của Y-sơ-ra-ên, cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi.
3 Người ta kiểm tra dân số Lê-vi từ ba mươi tuổi trở lên được 38.000 người.
4 Trong số ấy, 24.000 chia nhau quản lý công việc trong Đền Tạm của Chúa, 6.000 làm quan chức và quan án,
5 4.000 thuộc đội tuần cảnh Đền Tạm, và 4.000 nhạc công trong dàn nhạc ca ngợi Chúa, sử dụng đủ các nhạc khí mà Đa-vít đã chế tạo để dùng vào việc thờ phượng.
6 Đa-vít chia dân Lê-vi làm ba đại đoàn, theo tên ba con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri:
7 Đại đoàn Ghẹt-sôn chia làm hai đoàn mang tên La-ê-đan và Si-mê-i (con của Lê-vi).
8 Đoàn La-ê-đan chia làm sáu ban mang tên các con trai của La-ê-đan: Giê-hiên (trưởng ban), Xê-tham, Giô-ên,
9 Sê-lô-mít, Hà-xiên, và Hà-ran. Ba người sau này cũng được gọi là con Si-mê-i.
10,11 Đoàn Si-mê-i chia làm bốn ban mang tên các con trai của Si-mê-i: Gia-hát, Xi-xa, Giê-úc và Bê-ri-a.
Gia-hát làm trưởng ban; Xi-xa làm phó. Nhưng Giê-úc và Bê-ri-a ít con cháu nên trong sổ bộ hai gia đình được kể là một.
12 Con trai Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hộp-rôn và U-xiên.
13 Con trai Am-ram là A-rôn và Mai-sen. A-rôn và dòng dõi mình được biệt riêng ra cho Chúa để sử dụng các vật chí thánh và vĩnh viễn dâng hương, phục vụ Chúa Hằng Hữu và nhân Danh Ngài mà chúc phước lành cho dân.
14 Trong khi đó, các con trai của Mai-sen, người của Chân Thần, đều được liệt kê trong sổ bộ đại tộc Lê-vi.
15 Hai con trai của Mai-sen là Ghẹt-sôn và Ê-li-ê-xe.
16 Con trai của Ghẹt- sôn là Sê-bu-ên, trưởng tộc.
17 Con trai của Ê-li-ê-xe là Rê-ha-bia, trưởng tộc. Tuy Ê-li-ê-xe chỉ có một con trai đó, nhưng người này sinh rất nhiều con.
18 Con trai của Dít-sê-ha là Sê-lô-mít, trưởng tộc.
19 Con trai của Hếp-rôn là Giê-ri-gia (trưởng tộc); A-ma-ria, Gia-ha-xi-ên, và Giê-ca-mê-am.
20 Con trai của U-xiên là Mi-ca (trưởng tộc) và Di-si-gia.
21 Con trai của Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si. Con trai của Mác-li là Ê-lê-a-sa và Kích.
22 Ê-lê-a-sa không có con trai, chỉ sinh toàn con gái. Các cô này kết hôn với các con trai của Kích.
23 Ba con trai của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-rê-mốt.
24 Dòng họ Lê-vi chia từng tộc do các trưởng tộc cầm đầu. Mọi người từ hai mươi tuổi trở lên đều phục vụ trong Đền Thờ Chúa.
25 Đa-vít nhận định: ‘Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên đã cho dân Ngài hưởng thái bình, còn Ngài ngự tại Giê-ru-sa-lem mãi mãi.
26 Như thế, người Lê-vi không cần khuân vác Đền Tạm và các dụng cụ trong Đền Tạm nữa.’ (
27 Người ta kiểm tra dân số người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên đúng theo lệnh Đa-vít ban hành trước khi qua đời).
28 Nhiệm vụ người Lê-vi là phục vụ trong Đền Thờ Chúa bên cạnh các thầy tế lễ (dòng A-rôn), canh gác hành lang và phòng ốc trong Đền Thờ, lau chùi các dụng cụ thánh cho sạch sẽ, coi sóc các công tác trong Đền Chúa,
29 chuẩn bị bánh trần thiết, bột mịn tế lễ chay, bánh không men, các thức lễ vật nướng trên vỉ, các hương liệu để pha với dầu tế và các dụng cụ đo lường.
30 Mỗi ngày hai lần, họ phải đứng trong Đền Thờ để cảm tạ và ca ngợi Chúa Hằng Hữu.
31 Còn ngày lễ cuối tuần, ngày đầu tháng và các ngày lễ lớn, họ phải phụ giúp việc dâng tế lễ thiêu liên tục trước mặt Chúa, đúng theo luật lệ.
32 Họ cũng chịu trách nhiệm giữ an ninh trật tự tại Lều Hội Kiến và Nơi Thánh cùng phụ giúp các thầy tế lễ phục vụ trong Đền Thờ Chúa.
1 Con cháu A-rôn được phân chia ra ban, toán như sau: A-rôn vốn có bốn con trai: Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
2 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu chết trước cha mình, và không có con, nên Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma giữ chức tế lễ.
3 Xa-đốc, dòng dõi Ê-lê-a-sa và A-hi-mê-léc, dòng dõi Y-tha-ma, giúp Đa-vít phân chia con cháu A-rôn làm nhiều toán phục dịch.
4 Vì dòng Ê-lê-a-sa có nhiều trưởng toán hơn dòng Y-tha-ma nên họ phân chia dòng Ê-lê-a-sa làm mười sáu toán, và dòng Y-tha-ma tám toán.
5 Họ bắt thăm phân công cho các toán, hết toán này đến toán khác, vì các viên chức danh tiếng, các viên chức phục dịch Đền Thờ đều thuộc trong con cháu Ê-lê-a-sa và con cháu Y-tha-ma.
6 Sê-ma-gia, con trai Na-tha-nên, người Lê-vi làm thư ký ghi chép trước mặt vua và các vị lãnh đạo, thầy tế lễ Xa-đốc, A-hi-mê-léc con trai A-bia-tha, các trưởng toán tế lễ và người Lê-vi. Họ bắt thăm cứ hai toán cho dòng Ê-lê-a-sa, thì một toán cho dòng Y-tha-ma.
7 Thăm thứ nhất về Giê-hô-gia-ríp.
Thăm thứ hai về Giê-đa-gia.
8 Thăm thứ ba về Ha-rim.
Thăm thứ tư về Sê-ô-rim.
9 Thăm thứ năm về Manh-kia.
Thăm thứ sáu về Mia-min.
10 Thăm thứ bảy về Ha-cốt.
Thăm thứ tám về A-hi-gia.
11 Thăm thứ chín về Giê-sua.
Thăm thứ mười về Sê-ca-nia.
12 Thăm thứ mười một về Ê-li-a-síp.
Thăm thứ mười hai về Gia-kim.
13 Thăm thứ mười ba về Húp-ba.
Thăm thứ mười bốn về Giê-sê-báp.
14 Thăm thứ mười lăm về Binh-ga.
Thăm thứ mười sáu về Y-mê.
15 Thăm thứ mười bảy về Hê-xia.
Thăm thứ mười tám về Phi-xết.
16 Thăm thứ mười chín về Phê-ta-hia.
Thăm thứ hai mươi về Ê-xê-chi-ên.
17 Thăm thứ hai mươi mốt về Gia-kim.
Thăm thứ hai mươi hai về Ga-mun.
18 Thăm thứ hai mươi ba về Đê-la-gia.
Thăm thứ hai mươi bốn về Ma-a-xia.
19 Mỗi toán lãnh phận sự phục dịch trong Đền Thờ như A-rôn, tổ phụ họ đã quy định, theo mạng lệnh Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên. Các Dòng Dõi Khác của Đại Tộc Lê-vi
20 Sau đây là các dòng dõi khác của Lê-vi:
Con cháu Am-ram có Su-ba-ên, con cháu Su-ba-ên có Giê-đia.
21 Con cháu Rê-ha-bia có Di-si-gia làm trưởng toán.
22 Con cháu Dít-sê-ha có Sê-lô-mốt, con cháu Sê-lô-mốt có Gia-hát.
23 Con cháu Hếp-rôn có Giê-ri-gia, con trưởng, A-ma-ria, thứ hai, Gia-ha-xiên, thứ ba, Gia-ca-mê-am, thứ tư.
24 Con cháu U-xi-ên có Mi-ca, con cháu Mi-ca có Sa-mia.
25 Em Mi-ca là Dít-hi-gia. Con cháu Dít-hi-gia có Xa-cha-ri.
26 Con cháu Mê-ra-ri có Mác-li và Mu-si.
Con cháu Gia-a-xi-gia có Bê-nô.
27 Con cháu Mê-ra-ri, theo dòng Gia-a-xi-gia, có Bê-nô, Sô-ham, Xác-cua, Y-bê-ri.
28 Con cháu Mác-li là Ê-lê-a-sa, người này không có con trai.
29 Con cháu của Kích có Giê-rác-mê-ên.
30 Con cháu Mu-si có Mác-li, Ê-đe và Giê-ri-mốt.
Đó là dòng dõi Lê-vi, theo nhiều dòng họ.
31 Cũng như dòng dõi A-rôn, các trưởng toán dòng lớn và dòng nhỏ đều được phân công theo lối bắt thăm trước mặt vua Đa-vít, Xa-đốc, A-hi-mê-léc, các trưởng toán tế lễ và người Lê-vi.
1 Đa-vít và các viên chức phục dịch Đền Thờ cũng cắt cử người nói tiên tri bằng tam thập lục cầm, thụ cầm và chập chỏa. Họ là con cháu A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun. Danh tính và chức vụ của họ như sau:
2 Dưới quyền điều khiển của A-sáp là các con trai ông Xác-cua, Giô-sép, Nê-tha-nia và A-sa-rê-la. A-sáp nói tiên tri theo lệnh vua.
3 Dưới quyền điều khiển của Giê-đu-thun là các con trai ông: Ghê-đa-lia, Xê-ri, Ê-sai, Ha-sa-bia, Ma-ti-thia và Si-mê-i. Họ dùng tam thập lục cầm nói tiên tri, tạ ơn và ca ngợi Chúa Hằng Hữu.
4 Dưới quyền điều khiển của Hê-man là các con trai ông: Búc-ki-gia, Ma-tha-ma, U-xi-ên, Sê-ba-ên, Giê-ri-mốt, Ha-na-nia, Ha-na-ni, Ê-li-a-tha, Ghi-đanh-thi, Rô-mam-ti, Ê-xe, Giốt-bê-ca-sa, Ma-lô-thi, Hô-thia và Ma-ha-xi-ốt.
5 Họ đều là con trai Hê-man, tiên kiến của vua. Thượng Đế đã ban đặc ân cho Hê-man; ông được mười bốn con trai và ba con gái.
6 Dưới sự điều khiển của cha mình, các ca sĩ ấy lập thành ba ca đoàn: A-sáp, Giê-đu-thun và Hê-man, để ca hát trong Đền Thờ Chúa với các nhạc khí đờn sắt, đàn cầm và chập chỏa, và phục dịch trong Đền Thờ Chúa theo sự phân công của vua.
7 Họ luôn luôn tập luyện với nhau dưới quyền điều khiển của các nhạc sư, để ca ngợi Chúa, tổng số được 288 người.
8 Họ đều bắt thăm chia phiên phục vụ, không phân biệt tuổi tác hay thầy trò.
9 Giô-sép (họ A-sáp) bắt được thăm thứ nhất.
Ghê-đa-lia bắt được thăm thứ hai.
(Anh em và con trai Ghê-đa-lia - 12 người)
10 Xác-cua bắt được thăm thứ ba.
(Anh em và con trai Xác-cua - 12 người)
11 Dít-sê-ri bắt được thăm thứ tư.
(Anh em và con trai Dít-sê-ri - 12 người)
12 Nê-tha-nia bắt được thăm thứ năm.
(Anh em và con trai Nê-tha-nia - 12 người)
13 Búc-ki-gia bắt được thăm thứ sáu.
(Anh em và con trai Búc-ki-gia - 12 người)
14 Giê-sa-rê-la bắt được thăm thứ bảy.
(Anh em và con trai Giê-sa-rê-la - 12 người)
15 Ê-sa bắt được thăm thứ tám.
(Anh em và con trai Ê-sa - 12 người)
16 Ma-tha-nia bắt được thăm thứ chín.
(Anh em và con trai Ma-tha-nia - 12 người)
17 Si-mê-i bắt được thăm thứ mười.
(Anh em và con trai Si-mê-i - 12 người)
18 A-xa-rên bắt được thăm thứ mười một.
(Anh em và con trai A-xa-rên - 12 người)
19 Ha-sa-bia bắt được thăm thứ mười hai.
(Anh em và con trai Ha-sa-bia - 12 người)
20 Sa-ba-ên bắt được thăm thứ mười ba.
(Anh em và con trai Sa-ba-ên - 12 người)
21 Ma-ti-thia bắt được thăm thứ mười bốn.
(Anh em và con trai Ma-ti-thia - 12 người)
22 Giê-rê-mốt bắt được thăm thứ mười lăm.
(Anh em và con trai Giê-rê-mốt - 12 người)
23 Ha-na-nia bắt được thăm thứ mười sáu.
(Anh em và con trai Ha-na-nia - 12 người)
24 Giốt-bê-ca-sa bắt được thăm thứ mười bảy.
(Anh em và con trai Giốt-bê-ca-sa - 12 người)
25 Ha-na-ni bắt được thăm thứ mười tám.
(Anh em và con trai Ha-na-ni - 12 người)
26 Ma-lê-thi bắt được thăm thứ mười chín.
(Anh em và con trai Ma-lê-thi - 12 người)
27 Ê-li-gia-đa bắt được thăm thứ hai mươi.
(Anh em và con trai Ê-li-gia-đa - 12 người)
28 Hô-thi bắt được thăm thứ hai mươi mốt.
(Anh em và con trai Hô-thi - 12 người)
29 Ghi-đan-thi bắt được thăm thứ hai mươi hai.
(Anh em và con trai Ghi-đan-thi - 12 người)
30 Ma-ha-xi-ốt bắt được thăm thứ hai mươi ba; ban này gồm 12 người đều là anh em và con trai của Ma-ha-xi-ốt.
31 Rôm-am Ti-ê-xe bắt được thăm thứ hai mươi bốn; ban này gồm 12 người đều là anh em và con trai của Rô-mam Ti-ê-xe.
1 Số người giữ cửa được chia làm các ban:
Mê-sê-lê-mia (con Cô-rê, cháu A-sáp) trưởng ban dòng Cô-rê,
2 gồm bảy con trai là: Xa-cha-ri, Giê-đi-a-ên, Xê-ba-đia, Giát-niên,
3 Ê-lam, Giô-ha-nan và Ê-li-ô-nai.
4 Ban Ô-bết Ê-đôm gồm tám con trai là: Sê-ma-gia, Giê-hô-sa-bát, Giô-a, Sa-ca, Nê-ta-nên,
5 A-miên, Y-sa-ca và Phu-lê-thai, vì Thượng Đế ban phúc lành cho Ô-bết Ê-đôm.
6 Riêng Sê-ma-gia có nhiều con trai làm chỉ huy trưởng và là dũng sĩ:
7 Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát và anh em họ là Ê-li-hu và Sê-ma-kia.
8 Dòng họ Ô-bết Ê-đôm kể trên đều là dũng sĩ thông thạo việc canh gác Đền Thờ, cộng được sáu mươi hai người.
9 Anh em và con trai của Mê-sê-lê-mia gồm mười tám người cũng đều là dũng sĩ.
10,11 Ban Hê-sa (dòng Mê-ra-ri) do Sim-ri làm trưởng ban (dù Sim-ri không phải là trưởng nam, nhưng được cha lập làm trưởng nam) gồm mười ba người; kể cả ba ông anh của Sim-ri (Hinh-kia, Tê-ba-lia, và Xa-cha-ri) và con trai của Sim-ri.
12 Các ban canh gác Đền Thờ này do các trưởng ban điều khiển, thay phiên phục vụ trong Đền Thờ Chúa.
13 Tất cả lớn nhỏ đều bắt thăm theo tộc mình để canh gác các cổng Đền Thờ:
14 Sê-lê-mia bắt thăm được Cổng Đông; Xa-cha-ri (con Sê-lê-mia) một mưu sĩ khôn ngoan, bắt thăm được Cổng Bắc;
15 Ô-bết Ê-đôm bắt thăm được Cổng Nam; còn các kho tàng lại về phần các con trai người;
16 Súp-bim và Hô-sa bắt thăm được Cổng Tây và cổng Sê-lê-kết, gần con đường lên dốc, hai toán canh gác đối mặt nhau.
17 Mỗi ngày Cổng Đông có sáu người Lê-vi canh gác; Cổng Bắc bốn người; Cổng Nam bốn người; và các kho tàng mỗi cửa hai người.
18 Tại Bạt-ba về phía tây, có hai người; còn đường dốc có bốn người.
19 Đó là các ban gác cổng, đều là dòng dõi Cô-rê và Mê-ra-ri.
20 Trong người Lê-vi, có A-hi-gia làm quản lý các kho báu của Đền Thờ Thượng Đế và kho tàng các phẩm vật thánh.
21 Trong họ La-ê-đan, thuộc dòng Ghẹt-sôn, có Giê-hi Ê-li làm trưởng tộc.
22 Xê- tham và Giô-ên (con trai của Giê-hi Ê-li) canh giữ kho tàng của Đền Thờ Chúa.
23 Trong họ Am-ram, họ Dít-sê-ha, họ Hếp-rôn và họ U-xiên,
24 có Sê-bu-ên (con Ghẹt-sôn, cháu nội Mai-sen) làm quản lý các kho báu.
25 Các người kế nghiệp, thuộc họ Ê-li-ê-xe, gồm có: Rê-ha-bia (con Ê-li-ê-xe), Ê-sa (con Rê-ha-bia), Giô-ram (con Ê-sa), Xiếc-ri (con Giô-ram) và Sê-lô-mít (con Xiếc-ri).
26 Sê-lô-mít và các đồng nghiệp quản lý kho tàng các phẩm vật mà vua Đa-vít, các trưởng tộc và các tướng lãnh dâng hiến cho Chúa.
27 Họ biệt riêng ra thánh các chiến lợi phẩm để bảo trì Đền Thờ.
28 Tất cả các phẩm vật do nhà tiên kiến Sa-mu-ên, vua Sau-lơ (con của Kích), tướng Áp-ne (con Nê-rơ), tướng Giô-áp (con Xê-ru-gia) và bất luận ai dâng hiến đều đặt dưới quyền quản lý của Sê-lô-mít và các đồng nghiệp.
29 Trong họ Dít-sê-ha, có Kê-na-nia và các con trai người được cử làm quan án và viên chức đặc trách về ngoại vụ của nước Y-sơ-ra-ên.
30 Ha-sa-bia (thuộc họ Hếp-rôn) và các cấp lãnh đạo đều là các dũng sĩ, gồm 1.700 nhân viên, phân công cai trị Y-sơ-ra-ên vùng hữu ngạn sông Giô-đan, quản nhiệm công vụ của Chúa và phục vụ vua.
31 Giê-ri-gia là trưởng tộc Hếp-rôn. Năm thứ bốn mươi triều Đa-vít, họ Hếp-rôn trong xứ Ga-la-át được kiểm tra dân số theo từng đại tộc, được 2.700 người, đều là dũng sĩ giữ chức trưởng tộc. Vua cử họ cai trị các đại tộc Ru-bên, Gát và nửa đại tộc Ma-na-se đặc trách các công vụ của Chúa và phục vụ vua.
1 Quân đội Y-sơ-ra-ên gồm mười hai quân đoàn, mỗi quân đoàn có 24.000 người, gồm cả sĩ quan, tham mưu và binh sĩ. Các đơn vị này luân phiên phục vụ mỗi năm một tháng. Đây là danh sách các tướng lãnh chỉ huy quân đoàn:
2,3 Tư lệnh quân đoàn I là tướng Gia-sô Bê-am (con của Xáp-đi-ên dòng họ Phê-rết) chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng giêng.
4 Tư lệnh quân đoàn II là tướng Đô Đai (quê ở An-hô-ha), chỉ huy 24.000 binh sĩ phục vụ vào tháng hai. Tham mưu trưởng là tướng Mích-lô.
5 Tư lệnh quân đoàn III là tướng Bê-na-gia (con thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa), chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng ba.
6 Tướng Bê-na-gia từng chỉ huy ba mươi sĩ quan nổi danh là anh hùng của quân đội. A-mi-xa-đáp (con Bê-na-gia) cũng tùng ngũ trong quân đoàn IIỊ
7 Tư lệnh quân đoàn IV là tướng A-sa-ên (em đại tướng Giô-áp) chỉ huy 24.000 binh sĩ phục vụ vào tháng tư. Sau khi A-sa-ên bị ám sát, Xê-ba-đia (con A-sa-ên) được cử làm tư lệnh thay thế cha mình.
8 Tư lệnh quân đoàn V là tướng Sa-mê-hút (quê ở ích-la) chỉ huy 24.000 binh sĩ phục vụ vào tháng năm.
9 Tư lệnh quân đoàn VI là tướng Y-ra (con Y-khê, quê ở Thê-qua) chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng sáu.
10 Tư lệnh quân đoàn VII là tướng Hà-lê (quê ở Pha-long, xứ Ép-ra-im) chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng bảy.
11 Tư lệnh quân đoàn VIII là tướng Si-bê-cai (quê ở Hu-sa, dòng dõi Xê-rát) chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng tám.
12 Tư lệnh quân đoàn IX là tướng A-bi-ê-xe (quê ở A-na-tốt, xứ Bên-gia-min) chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng chín.
13 Tư lệnh quân đoàn X là tướng Ma-ha-rai (quê ở Nê-tô-pha, dòng dõi Xê-rách) chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng mười.
14 Tư lệnh quân đoàn XI là tướng Bê-na-gia (quê ở Phi-ra-thôn, người Ép-ra-im), chỉ huy 24.000 binh sĩ, phục vụ vào tháng mười một.
15 Tư lệnh quân đoàn XII là tướng Hiên- đai (quê ở Nê-tô-pha, dòng dõi của quan án ốt-Ni-ên) chỉ huy 24.000 binh sĩ phục vụ vào tháng chạp.
16-17 Đây là danh sách các nhà lãnh đạo của các đại tộc Y-sơ-ra- ên:
Ê-li-ê-se (con Xiếc-ri) lãnh đạo đại tộc Ru-bên;
Sê-pha-tia (con Ma-a-ca) lãnh đạo đại tộc Si-mê-ôn;
Hà-sa-bia (con Kê-mu-ên) lãnh đạo đại tộc Lê-vi, trong khi thầy tế lễ tối cao Xa-đốc lãnh đạo các thầy tế lễ (dòng dõi A-rôn);
18 Ê-li-hu (anh vua Đa-vít) lãnh đạo đại tộc Giu-đa;
Ôm-ri (con Mi-ca-ên) lãnh đạo đại tộc Y-sa-ca;
19 Dít-ma-hia (con Ô-ba-đia) lãnh đạo đại tộc Sa-bu-luân;
Giê-ri-mốt (con A-ri-ên) lãnh đạo đại tộc Nép-ta-li;
20 Ô-sê (con A-xa-ria) lãnh đạo đại tộc Ép-ra-im;
Giô-ên (con Phê-đa-gia) lãnh đạo nửa đại tộc Ma-na-se ở phía tây;
21 Ghi-đô (con Xa-cha-ri) lãnh đạo nửa đại tộc Ma-na-se ở phía đông (tức là xứ Ga-la-át);
Gia-a-xiên (con Áp-ne) lãnh đạo đại tộc Bên-gia-min;
22 A-xa-rên (con Giê-rô-ham) lãnh đạo đại tộc Đan.
Đó là những nhà lãnh đạo các đại tộc của Y-sơ-ra-ên.
23 Vua Đa-vít không kiểm tra dân số dưới hai mươi tuổi vì Chúa Hằng Hữu đã hứa sẽ tăng gia dân số Y-sơ-ra-ên đông như sao trên trời.
24 Giô-áp (con Xê-ru-gia) đã bắt đầu kiểm tra dân số ấy nhưng không hoàn tất được, vì do cuộc kiểm tra này mà Chúa phẫn nộ và hình phạt Y-sơ-ra-ên. Dân số ấy không được cộng chung vào bảng thống kê trong bộ lịch sử triều vua Đa-vít.
25 Ách-ma-vết (con A-đi-ên), bộ trưởng ngân khố hoàng gia;
Giô-na-than (con U-xi-gia), bộ trưởng thực phẩm, đặc trách các trung tâm dự trữ thực phẩm trong các thành phố, làng xã và các căn cứ quân sự;
26 ết-ri (con Kê-lúp), bộ trưởng canh nông;
27 Sim-ri (quê ở Ra-ma), giám đốc các vườn nho;
Sáp-đi (quê ở Sê-pham), giám đốc kho rượu nho;
28 Ba-anh Ha-nan (quê ở Ghê-đe), giám đốc các vườn ô-liu và các vườn sung;
Giô-ách, giám đốc các kho dầu.
29 Sít-trai (quê ở Sa-rôn), giám đốc các sở chăn nuôi ở Sa-rôn;
Sa-phát (con Át-lai), giám đốc các sở chăn nuôi trong các thung lũng;
30 Ô-binh (người Á-rập), quản lý các đàn lạc đà;
Giê-đia (quê ở Mê-rô-nốt), quản lý các đàn lừa;
Gia-xít (người Ha-ga-rít), quản lý các đàn cừu.
31 Đó là thành phần các cấp lãnh đạo hành chánh của vua Đa-vít.
32 Ngoài ra, còn có:
Giô-na-than (cậu của Đa-vít), là hiền triết và ngự sử, cùng với Giê-hiên (con Hác-mô-ni), đặc trách dạy các hoàng tử;
33 A-hi-tô-phe, làm quân sư, có Giê-hô-gia-đa (con Binh-Gia) và A-bia-tha phụ tá.
Hu-sai (người ạt-kích, cố vấn đặc biệt của vua) và Giô-áp, là tổng tư lệnh quân đội hoàng gia Y-sơ-ra-ên.
1 Đa-vít hội họp tại Giê-ru-sa-lem tất cả các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên: các đại tộc trưởng, các tướng chỉ huy quân đoàn, các cấp chỉ huy quân đội, các bộ trưởng, các viên chức cao cấp cai quản tài sản và gia súc hoàng gia, và tất cả những người uy quyền trong nước.
2 Vua đứng dậy hiểu dụ: ‘Các khanh và toàn dân! Ta ước muốn xây cất Đền Thờ làm nơi an nghỉ cho Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu, nơi ở của Thượng Đế chúng ta. Ta đã chuẩn bị đầy đủ vật liệu.
3 Nhưng Thượng Đế bảo ta: ‘Con không được xây Đền Thờ cho Ta, vì con là chiến sĩ, từng làm đổ máu người.’
4 ’Tuy nhiên, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên đã chọn ta trong gia đình cha ta, cho ta làm vua Y-sơ-ra-ên, triều đại ta sẽ trị vì mãi mãi. Vì Ngài đã chọn đại tộc Giu-đa; trong đại tộc ấy lại chọn gia đình cha ta. Trong các con trai cha ta, Ngài vui chọn ta, lập làm vua Y-sơ-ra-ên.
5 Trong các con trai ta (Chúa cho ta rất đông con) Ngài chọn Sa-lô-môn kế vị ta trên ngôi báu.
6 Ngài bảo ta: ‘Sa-lô-môn, con trai con sẽ xây Đền Thờ Ta, vì Ta đã chọn nó làm con Ta, và Ta làm Cha nó.
7 Nếu nó cứ tiếp tục vâng giữ điều răn và luật lệ như ngày nay, Ta sẽ cho nước nó vững bền mãi mãi.’
8 Vua quay lại bảo Sa-lô-môn: ‘Bây giờ, trước các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, là dân của Thượng Đế, và trước mặt Thượng Đế chúng ta, ta khuyên con cẩn thận vâng giữ mọi điều răn của Chúa Hằng Hữu, nhờ đó con tiếp tục trị vì đất nước này và truyền ngôi lại cho con cháu mãi mãi.
9 Sa-lô-môn, con hãy nhận biết Thượng Đế của tổ phụ, hết lòng hết ý thờ phượng, phục vụ Ngài, vì Ngài thấy rõ mỗi tấm lòng và biết hết mọi ý tưởng. Nếu tìm kiếm Chúa, con sẽ gặp Ngài, nếu từ bỏ Chúa, Ngài sẽ xa lìa con mãi mãi.
10 Vậy, con hãy cẩn thận, vì Chúa đã chọn con để xây Đền Thánh của Ngài. Hãy mạnh dạn tuân hành mạng lệnh Ngài.’
11 Đa-vít trao cho Sa-lô-môn sơ đồ Đền Thờ và các cơ sở phụ cận, gồm ngân khố, các phòng tầng trên, phòng bên trong và Nơi Chí Thánh để Nắp Chuộc Tội.
12 Vua cũng trao Sa-lô-môn sơ đồ về hành lang Đền Thờ, các phòng bên ngoài, kho Đền Thờ, và kho chứa các vật dâng hiến, đó là các sơ đồ Thánh Linh cho Đa-vít biết.
13 Vua cũng ban huấn thị về việc phân công cho các thầy tế lễ và người Lê-vi, về việc phục dịch Đền Thờ, và về tất cả vật dụng phục dịch.
14 Vua cho cân đủ số lượng vàng và bạc để chế các vật dụng đó:
15 vàng để làm chân đèn và đèn, bạc để làm chân đèn và đèn, tùy theo cách xử dụng mỗi chân đèn.
16 Vua cho cân vàng để chế các bàn để bánh trần thiết, cân bạc để chế các bàn bằng bạc.
17 Vua cân vàng ròng để làm nĩa, chậu và ly; cân vàng để làm chén vàng; và cân bạc làm chén bạc.
18 Vua cũng cân vàng tinh chế để làm bàn thờ xông hương, làm xe với các chê-ru-bim có cánh xòe ra trên Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu.
19 Đa-vít bảo Sa-lô-môn: ‘Tất cả các sơ đồ này, chính tay Chúa Hằng Hữu đã ghi lại cho ta.’
20 Vua tiếp: ‘Hãy mạnh dạn can đảm thực hiện chương trình. Đừng sợ hãi, sờn lòng, vì Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của cha ở với con. Ngài chẳng lìa con, chẳng bỏ con cho đến khi hoàn tất việc xây cất Đền Thờ.
21 Các toán thầy tế lễ và người Lê-vi sẽ thực hiện mọi việc cho Đền Thờ. Những người chuyên môn tài giỏi sẽ vui lòng giúp con kiến thiết, các vị lãnh đạo và toàn dân sẽ tuân hành mạng lệnh con.’
1 Vua Đa-vít bảo toàn thể đại hội: ‘Sa-lô-môn, con trai ta mà Thượng Đế đã chọn, hãy còn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, nhưng công việc thật to tát. Vì đây không phải cất nhà cho người, nhưng xây Đền Thờ Thượng Đế.
2 Ta đã cố gắng hết sức thu thập vật liệu cần thiết, nào vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, rất nhiều ngọc mã não, ngọc khảm, ngọc chiếu sáng, ngọc đủ màu, các thứ đá quý và cẩm thạch.
3 Do lòng sốt sắng của ta đối với Đền Thờ Thượng Đế, ngoài vật liệu đã chuẩn bị, ta dâng vào Đền Thờ Thượng Đế vàng bạc riêng của ta,
4 gồm 100 tấn vàng ô-phia, 240 tấn bạc tinh chế để lát tường Đền Thờ.
5 Vàng bạc này còn dùng để chế dụng cụ bằng vàng và bạc, cũng để trang hoàng. Bây giờ, ai là người tự nguyện hiến của, dâng mình cho Chúa?’
6 Lúc ấy, các cấp lãnh đạo đại tộc và chi tộc, các cấp chỉ huy quân đội và các cấp lãnh đạo chính quyền tự nguyện
7 dâng vào Đền Thờ 172.5 tấn vàng, 10.000 đồng ngoại tệ, 345 tấn bạc, 621 tấn đồng, 3.450 tấn sắt.
8 Họ cũng dâng nhiều ngọc và đá quý vào ngân khố Đền Thờ, do Giê-hi-ên, dòng dõi Ghẹt-sôn thu giữ.
9 Mọi người đều vui mừng vì đã tự nguyện và hết lòng dâng hiến. Vua Đa-vít cũng rất hân hoan.
10 Trước mặt toàn thể đại hội, Đa-vít dâng lời ca tụng Chúa: ‘Ca ngợi Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, tổ tiên chúng con, đời đời mãi mãi.
11 Lạy Chúa, sự cao trọng, quyền năng, vinh quang, chiến thắng, uy nghi đều thuộc về Ngài. Mọi vật trên trời dưới đất đều là của Ngài. Thưa Chúa, đây là Nước của Ngài. Chúng con ca tụng Ngài là Chúa Tể muôn vật.
12 Giàu có, vinh dự đều đến từ Chúa. Chúa quản trị cả muôn loài, tay Chúa ban phát quyền năng, sức mạnh, Chúa cho tất cả được cao trọng, hùng cường.
13 Lạy Thượng Đế chúng con! Chúng con xin cảm tạ và khen ngợi Danh vinh quang của Ngài.
14 Nhưng con là ai, dân tộc con là gì mà chúng con dám tự nguyện dâng tài vật cho Chúa? Mọi vật đều thuộc về Chúa, chúng con chỉ dâng cho Ngài vật sở hữu của Ngài.
15 Chúng con chỉ là kẻ tạm trú, là khách lạ trên mảnh đất này như tổ tiên chúng con khi trước. Những ngày chúng con sống trên đất như bóng câu qua cửa, không lâu dài được.
16 Thưa Chúa, tất cả những vật liệu chúng con gom góp để xây Đền Thờ cho Danh Thánh Chúa đều đến từ Chúa. Tất cả đều là của Ngài.
17 Thưa Thượng Đế, con biết Chúa dò xét lòng người, vui mừng tìm thấy người ngay thật. Con chân thành tự nguyện dâng hiến các vật này, cũng nhìn thấy dân Chúa vui vẻ tự nguyện dâng cho Ngài.
18 ‘Lạy Thượng Đế của Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên, tổ phụ chúng con, xin hãy giữ cho dân Chúa luôn luôn có ý hướng, tư tưởng tốt đẹp như thế, và lòng họ luôn luôn yêu mến Chúa.
19 Cũng cho Sa-lô-môn, con trai con có lòng chính trực để vâng giữ trọn vẹn điều răn, luật lệ Chúa, và xây cất ngôi Đền mà con đã sắm sửa vật liệu.’
20 Đa-vít kêu gọi cả đại hội: ‘Hãy ca ngợi Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế chúng ta.’ Mọi người đều ca ngợi Chúa, cúi đầu thờ lạy Thượng Đế và cúi chào vua.
21 Hôm sau, họ dâng 1.000 con bò đực, 1.000 con cừu đực và 1.000 con cừu con làm tế lễ thiêu. Họ cũng dâng lễ quán và các lễ vật khác cho Y-sơ-ra-ên.
22 Hôm ấy, họ ăn uống vui vẻ trước mặt Chúa. Lần thứ hai, họ lập Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, làm vua. Trước mặt Chúa, họ xức dầu tôn ông làm nguyên thủ, và Xa-đốc làm thầy tế lễ tối cao.
23 Như thế, Thượng Đế đặt Sa-lô-môn lên ngôi vua, kế vị Đa-vít. Vua được thịnh vượng và toàn Y-sơ-ra-ên đều thuận phục vua.
24 Các lãnh tụ, các cấp chỉ huy quân đội và các con trai Đa-vít đều trung thành với vua Sa-lô-môn.
25 Thượng Đế cho ông được tôn trọng giữa dân, được giàu mạnh và vinh dự hơn cả vua cha.
26,27 Đa-vít, con trai Gie-sê, làm vua Y-sơ-ra-ên bốn mươi năm: bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem.
28 Vua qua đời lúc về già, đầy giàu sang, vinh dự; con trai là Sa-lô-môn kế vị.
29 Sự nghiệp của Đa-vít, từ đầu đến cuối, đều được chép trong các sách lịch sử của tiên tri Sa-mu-ên, tiên tri Na-than và tiên tri Gát.
30 Các sách này ghi chép các chính sách, miêu tả sự hùng cường, và tường thuật các diễn biến và sinh hoạt dưới triều đại Đa-vít trong nước Y-sơ-ra-ên và các nước láng giềng.