1 Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, được vững trên ngai vàng, vì Thượng Đế ở với vua và cho vua hùng mạnh.
2,3 Vua triệu tập các cấp chỉ huy hằng nghìn và hằng trăm quân, các quan án, các nhà lãnh đạo dân và các trưởng tộc tại Ga-ba-ôn. Vua đưa mọi người lên đồi, đến Đền Tạm của Thượng Đế mà Mai-sen, tôi tớ Chúa đã dựng trong sa mạc.
4 (Vua Đa-vít đã dời Rương Giao Ước của Thượng Đế từ Ki-ri-át Giê-a-rim về Giê-ru-sa-lem, đặt trong chiếc lều vua đã dựng.)
5 Trước Đền Tạm có bàn thờ đồng mà Bết-sa-lên, con U-ri, cháu Hu-rơ đã làm. Sa-lô-môn và cả đại hội đều đến đó.
6 Sa-lô-môn đến bàn thờ đồng tại Đền Tạm, dâng 1.000 lễ thiêu cho Thượng Đế.
7 Đêm ấy, Thượng Đế hiện đến với Sa-lô-môn và phán: "Con muốn xin điều gì, Ta cũng cho con."
8 Sa-lô-môn thưa: "Chúa đã tỏ lòng thương xót bao la đối với Đa-vít, cha con, và nay Chúa đặt con lên ngôi kế vị.
9 Thưa Chúa, xin hoàn thành lời hứa với Đa-vít, cha con, vì Chúa đã lập con làm vua dân tộc đông như cát biển này.
10 Xin Chúa ban cho con khôn ngoan tri thức để cai trị dân, vì ai đủ khả năng chăn dắt dân tộc vĩ đại của Chúa?"
11 Thượng Đế đáp: "Vì ước nguyện của con không phải là giàu sang, của cải, vinh dự, sống lâu hay sinh mạng kẻ thù, nhưng xin khôn ngoan và tri thức để cai trị dân ta,
12 nên Ta ban cho con khôn ngoan và tri thức như con cầu xin, cũng cho con giàu sang của cải, vinh dự đến nỗi trước con chẳng có vua nào bằng, và sau này cũng không ai dám sánh với con."
13 Sa-lô-môn từ Đền Tạm, trên đồi Ga-ba-ôn, trở về Giê-ru-sa-lem, cai trị Y-sơ-ra-ên.
14 Vua lập đoàn kỵ binh, gồm 1.400 xe ngựa và 12.000 kỵ binh đóng tại các thành để bảo vệ, và tại Giê-ru-sa-lem, gần bên vua.
15 Trong đời Sa-lô-môn, vàng bạc tại Giê-ru-sa-lem nhiều như đá cuội, và gỗ bá hương rẻ như gỗ sung!
16 Ngựa của Sa-lô-môn đều nhập khẩu từ Ai-cập; các nhà buôn sang Ai Cập mua từng đàn ngựa theo giá buôn.
17 Một chiếc xe ngựa từ Ai Cập nhập khẩu giá sáu trăm siếc lơ bạc và một con ngựa giá một trăm năm chục. Các con buôn này cũng bán xe và ngựa cho các vua Hết và Sy-ri theo giá đó.
1 Đã đến lúc Sa-lô-môn quyết định xây Đền Thờ cho Chúa và cung điện cho mình.
2 Vua tuyển 70.000 phu khuân vác, 80.000 thợ đẽo đá trên núi và 3.600 đốc công.
3 Sa-lô-môn sai sứ sang Hi-ram, vua Ty-rơ, nói: "Vua đã gửi gỗ bá hương để vua Đa-vít cha tôi xây cung điện, xin vua cũng cung cấp cho tôi như thế.
4 Tôi dự định xây cất Đền Thờ cho Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tôi, để dâng hương, bày bánh trần thiết, dâng lễ thiêu buổi sáng buổi chiều, lễ cuối tuần, ngày trăng mới, và những ngày lễ khác cho Chúa Hằng Hữu chúng tôi. Đó là những nghi lễ đời đời cho dân tộc chúng tôi.
5 Thượng Đế chúng tôi vô cùng siêu việt, cao cả hơn các thần, nên Đền Thờ tôi xây cất phải nguy nga tráng lệ.
6 Thật ra không ai có khả năng xây Đền Thờ Chúa. Nếu tầng trời bao la kia còn không đủ chỗ cho Ngài ngự, thì tôi là ai mà xây cất được Đền Thờ cho Chúa? Tôi chỉ mong xây cất được một ngôi Đền để dâng hương lên trước mặt Chúa mà thôi.
7 Vậy, xin vua chỉ định một chuyên viên vừa giỏi luyện kim để chế tạo khí cụ vàng bạc, đồng, sắt, vừa khéo dệt hàng đủ các màu sắc, vừa có tài điêu khắc để hợp tác với các chuyên viên đang phục vụ tôi tại kinh đô Giê-ru-sa-lem xứ Giu-đa, tức là những người mà Đa-vít, thân phụ tôi, đã tập họp.
8 Xin vua cũng cho đốn từ Li-ban các loại bá hương, tùng, bạch đàn hương để gửi cho tôi, vì vua có nhiều thợ gỗ chuyên môn hạ cây rừng Li-ban. Tuy nhiên các chuyên viên của tôi cũng sẽ cộng tác với họ
9 để hạ cây cho nhiều, vì Đền Thờ tôi dự định xây cất sẽ rất nguy nga tráng lệ.
10 Tôi sẽ cung cấp đầy đủ thực phẩm cho thợ gỗ của vua, tức là 4.800.000 lít lúa mạch, 480.000 lít rượu và 480.000 lít dầu."
11 Hi-ram, vua Ty-rơ, phúc đáp lời yêu cầu của Sa-lô-môn: "Chúa Hằng Hữu thật yêu thương dân Ngài, nên mới lập vua lên ngôi nước họ.
12 Đáng ca ngợi Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, là Đấng sáng tạo vũ trụ, vì Ngài đã ban cho vua Đa-vít một con trai khôn ngoan, dè dặt, thông minh, để kiến thiết một ngôi Đền cho Ngài và một cung điện cho nước nhà.
13 Bây giờ, tôi sai một người khéo léo, thông minh sáng suốt để phục vụ vua. Đó là Hu-ram A-bi,
14 mẹ là người đại tộc Đan, cha là người Ty-rơ, chuyên viên chế tạo các khí cụ bằng vàng, bạc, đồng, sắt, đá và gỗ, thạo nghề dệt hàng đủ các màu sắc, cũng thạo nghề điêu khắc nữa. Người ấy sẽ chế tạo đủ các dụng cụ tinh vi cho vua và hợp tác với các chuyên viên của bậc tiên vương là Đa-vít, chúa tôi.
15 Vậy, xin vua hãy cấp cho họ lúa miến, lúa mạch, dầu, và rượu như vua đã hứa.
16 Chúng tôi sẽ lãnh nhiệm vụ đốn gỗ núi Li-ban đủ số vua cần, rồi kết bè, thả ra biển, đưa đến Gia-phô. Khi ấy, vua sẽ cho chở về Giê-ru-sa-lem."
17 Sa-lô-môn bèn kiểm tra số ngoại kiều trong nuớc, căn cứ theo sổ sách làm từ thời vua Đa-vít: tổng số được 153.600 người.
18 Sa-lô-môn phân công cho 70.000 người khiêng gánh, 80.000 người lên núi đẽo đá và 3.600 đốc công để điều khiển mọi công tác.
1 Sa-lô-môn khởi công xây cất Đền Thờ Chúa Hằng Hữu tại Giê-ru-sa-lem trên đỉnh núi Mô-ri-a là nơi Ngài đã hiện ra gặp Đa-vít, cha vua, ngay tại khu đất mà Đa-vít đã chuẩn bị - tức là sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu.
2 Ngày mồng hai tháng hai năm thứ tư triều Sa-lô-môn, công cuộc kiến thiết Đền Thờ bắt đầu.
3 Nền Đền Thờ dài ba mươi mét, rộng mười mét.
4 Hiên cửa phía trước dài mười mét tức là bằng chiều rộng của Đền Thờ, mái cao 60 mét bên trong bọc vàng ròng.
5 Vách Đền làm bằng gỗ bá hương, bọc vàng có chạm hình nổi cây chà là và dây xích.
6 Nền Đền lát đá quý thật lộng lẫy. Vàng Sê-phạt-va-im
7 được sử dụng để bọc Đền Thờ, rui, ngạch cửa, vách và cửa. Hình thiên thần được chạm trên vách.
8 Nơi Chí Thánh dài mười mét, rộng mười mét, được bọc bằng vàng ròng cân nặng sáu trăm ta-lâng.
9 Đinh bằng vàng cân nặng năm mươi siếc lơ. Các phòng cao cũng được bọc bằng vàng.
10 Hai thiên thầnb được điêu khắc bằng gỗ, rồi bọc vàng, đặt trong Nơi Chí Thánh.
11,12 Bốn cánh thiên thầna dài mười mét. Mỗi cánh dài hai mét năm mươi, đặt liền nhau suốt chiều rộng của Nơi Chí Thánh.
13 Cánh thiên thần đều dang ra. Hai thiên thần đứng thẳng hướng mặt về Nơi Thánh.
14 Một bức màn bằng chỉ gai thật mịn màu xanh, tím, đỏ được dệt rất tỉ mỉ, trên mặt thêu hình thiên thần.
15 Mặt tiền, người xây hai trụ cao mười bảy mét năm mươi. Trên đỉnh lại xây đầu trụ cao hai mét năm mươi.
16 Người cũng chế tạo giây xích theo hình giây trong Nơi Chí Thánh, để mắc lên đỉnh trụ, và một trăm trái lựu gắn vào giây xích.
17 Hai trụ được xây dựng ở mặt tiền Đền Thờ, trụ bên phải tên là Gia-kinh, trụ bên trái tên là Bô-ách.
1 Người chế tạo một bàn thờ bằng đồng vuông vức, mỗi bề mười mét, cao năm mét,
2 đúc một cái hồ bằng đồng tròn, đường kính năm mét, sâu hai mét năm mươi, và đánh một sợi dây dài mười lăm mét quấn quanh hồ đồng.
3 Vòng quanh chân hồ có các hình bò điêu khắc sắp thành hai hàng, cứ mỗi thước có mười con, đúc luôn một lần với hồ.
4 Hồ kê trên mười hai chân hình con bò, ba con hướng về phía bắc, ba con hướng về phía tây, ba con hướng về phía nam, và ba con hướng về phía đông, thân sau đều quay vào trong.
5 Hồ dày một gang tay, mép hồ giống mép chén, theo hình hoa huệ nở, dung tích được 72.000 lít.
6 Người cũng làm mười cái thùng, đặt năm cái bên phải và năm cái bên trái, để rửa các phần tế lễ thiêu. Còn các thầy tế lễ được tắm rửa trong hồ.
7 Người chế tạo mười giá đèn bằng vàng theo kiểu đã ấn định, rồi đặt trong Đền Thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái.
8 Người đóng mười cái bàn, đặt trong Đền Thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái, và đúc một trăm chậu bằng vàng.
9 Người xây hành lang các thầy tế lễ, một sân rộng, trổ cửa ra sân, và bọc đồng các cánh cửa.
10 Người đặt cái hồ đồng bên phải của Đền Thờ.
11 Hu-ram cũng chế tạo những bình đựng tro, và chậu, và hoàn tất các công tác trong Đền Thờ Thượng Đế theo lời yêu cầu của Sa-lô-môn:
12 Hai trụ và bầu trụ, hai đầu trụ đặt trên đỉnh, hai tấm lưới bọc hai bầu của đầu trụ,
13 bốn trăm trái lựu gắn vào hai tấm lưới, mỗi tấm có hai hàng trái lựu, 14 cái táng và thùng đặt trên táng, 15 hồ bằng đồng và mười hai chân hình bò, 16 các bình đựng tro, vá, nĩa, và các đồ phụ tùng.
Theo lời yêu cầu của Sa-lô-môn, Hu-ram A-bi chế tạo các dụng cụ thờ phượng đó bằng đồng mặt láng bóng. 17 Sa-lô-môn ra lệnh đúc các dụng cụ ấy tại đồng bằng Giô-đan trong khuôn đất sét, tại một địa điểm nằm giữa Su-cốt và Xê-rê-đa. 18 Vua cho chế tạo rất nhiều dụng cụ như thế, dùng đồng rất nhiều, không ai tính số lượng là bao nhiêu.
19 Sa-lô-môn cho chế tạo tất cả các dụng cụ thờ phượng trong Đền Thờ Chúa: bàn thờ vàng, những chiếc bàn sắp bánh trần thiết, 20 giá đèn và thếp đèn cũng bằng vàng ròng để thắp trước Nơi Chí Thánh theo luật định, 21 các hoa, thếp và nĩa bằng vàng ròng, 22 các con dao, chậu, chén, lư hương cũng bằng vàng ròng, cả đến lối đi vào Đền, các cánh cửa Đền bên trong, từ Nơi Chí Thánh trổ ra và các cánh cửa của Đền Thờ cũng đều bọc vàng.
1 Sa-lô-môn hoàn tất các chương trình kiến thiết Đền Thờ Chúa. Vua đem vào Đền Thờ các bảo vật mà vua cha là Đa-vít đã biệt riêng cho Chúa gồm bạc,vàng và các khí dụng và cất vào kho tàng Đền Thờ.
2 Sa-lô-môn triệu tập tại thủ đô các cấp lãnh đạo Y-sơ-ra-ên: từ các đại tộc trưởng, các tộc trưởng đến các trưởng lão, để rước Rương của Chúa Hằng Hữu từ Si-ôn, thành của Đa-vít, lên Đền Thờ.
3 Tất cả đàn ông thanh niên đều tập họp quanh cung vua để cử hành đại lễ vào tháng mười đúng vào dịp lễ Đền Tạm hằng năm.
4,5 Trước sự chứng kiến của các cấp lãnh đạo, người Lê-vi nâng Rương lên. Các thầy tế lễ cùng họ khiêng Rương khỏi Đền Tạm, luôn với các khí dụng thánh.
6 Vua Sa-lô-môn và cả dân đang họp quanh vua trước Rương Giao Ước dâng vô số cừu và bò làm tế lễ, không ai đếm nổi.
7 Thầy tế lễ đem Rương Giao Ước của Chúa Hằng Hữu đặt vào ngay trung tâm Đền Thờ, gọi là Nơi Chí Thánh, dưới cánh các chê-ru-bim.
8 Các chê-ru-bim dang cánh phủ trên Rương và đòn khiêng.
9 Đòn khiêng dài nên đứng tại trung tâm Nơi Thánh có thể thấy hai đầu mút đòn nhô ra, dù người đứng bên ngoài không trông thấy được. Rương còn tại đó cho đến ngày nay.
10 Trong Rương chỉ có hai bảng đá mà Mai-sen đã khắc tại Hô-rếp, là nơi Chúa Hằng Hữu lập giao ước với Y-sơ-ra-ên khi đem họ ra khỏi Ai Cập.
11,12 Sau khi các thầy tế lễ dọn mình thánh sạch, tất cả đều tham gia vào cuộc lễ hằng ngày; mỗi người giữ một nhiệm vụ khác nhau. Khi các thầy tế lễ ra khỏi Nơi Chí Thánh, ca đoàn Lê-vi hát xướng vô cùng du dương, ca ngợi Chúa. Ca đoàn gồm có A-sáp, Hê-man, Giê-đu-thun cùng anh em và con cái họ, tất cả đều mặc lễ phục bằng vải gai mịn, đứng sắp hàng tại phía đông bàn thờ. Ngoài ra còn có dàn nhạc gồm 120 thầy tế lễ hòa tấu bằng kèn, chập chõa, đàn lia và thụ cầm.
13,14 Ca đoàn và dàn nhạc cùng nhau ca tấu để tụng ngợi và cảm tạ Chúa Hằng Hữu. Các bài ca hòa với tiếng kèn sang sảng, tiếng chập chõa vang rền, cùng thanh âm réo rắt du dương của các nhạc khí khác. Đại đề của tất cả chương trình ca nhạc là "Chúa Hằng Hữu thật là toàn thiện! Đức nhân từ Ngài thể hiện đời đời!" Ngay lúc ấy, vinh quang Chúa Hằng Hữu, như đám mây sáng rực, giáng xuống bao phủ và đầy dẫy Đền Thờ, đến nỗi các thầy tế lễ không thể tiếp tục phục vụ trong Đền Thờ được nữa.
1 Vua Sa-lô-môn liền cầu nguyện với Chúa:
"Lạy Chúa, Chúa đã bảo: 'Ta sẽ ngự trong nơi u minh dày đặc.'
2 Nhưng con đã xây một Đền Thờ để Chúa ngự đời đời!"
3 Vua quay lại, chúc phước cho dân, trong khi toàn dân đều đứng:
4 "Hãy chúc tụng Chúa là Chân Thần của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã phán bảo thân phụ ta là Đa-vít, và nay cũng đã thực hiện lời hứa với người. Chúa đã phán:
5 'Từ ngày Ta đem dân Ta ra khỏi Ai Cập, Ta chưa chọn một thành phố nào trong đất nước Y-sơ-ra-ên để xây Đền Thờ cho Danh Ta. Ta cũng chưa hề chọn một người nào làm lãnh tụ Y-sơ-ra-ên Ta.
6 Nhưng nay Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để Danh Ta ngự tại đó. Ta cũng chọn Đa-vít làm lãnh tụ dân Ta!'
7 "Thân phụ ta là Đa-vít có lòng mong ước xây cất một Đền Thờ cho Danh Chân Thần của Y-sơ-ra-ên.
8 Nhưng Chúa phán bảo thân phụ ta: 'Lòng con mong ước xây cất một Đền Thờ cho Danh Ta; ước muốn đó thật tốt,
9 nhưng con không phải là người xây cất Đền Thờ, vì con trai ruột của con sẽ xây cất Đền Thờ cho Danh Ta.'
10 Chúa Hằng Hữu đã thực hiện điều Ngài hứa, vì ta đã lên ngôi kế vị thân phụ ta là Đa-vít, trị vì Y-sơ-ra-ên, đúng như Chúa đã phán, và ta cũng đã xây cất xong Đền Thờ cho Danh Chúa Hằng Hữu, Chân Thần của Y-sơ-ra-ên.
11 Ta đã rước vào đây Rương của Chúa, tượng trưng giao ước Chúa đã lập với Y-sơ-ra-ên."
12,13 Sa-lô-môn đến trước bàn thờ Chúa, trước mặt toàn Y-sơ-ra-ên, bước lên bệ. (Nhà vua đã cho làm một cái bệ bằng đồng, vuông vức mỗi bề hai mét hai mươi chín, cao một mét ba mươi bảy, đặt giữa sân trong Đền Thờ.) Vua quì gối xuống, đưa thẳng hai tay hướng lên trời cầu nguyện:
14 "Lạy Chúa Tự Hữu Hằng Hữu, Chân Thần của Y-sơ-ra-ên! Trên các tầng trời và dưới đất, không có thần nào giống như Chúa, luôn giữ giao ước và lòng nhân từ với các tôi tớ Chúa, là những người hết lòng đi trước mặt Chúa.
15 Chúa đã giữ đúng lời hứa với Đa-vít, là đầy tớ Chúa và thân phụ con. Thật thế, miệng Chúa phán dạy thì tay Chúa đã làm ứng nghiệm như hiện có ngày nay.
16 Lạy Chúa là Chân Thần của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa giữ lời hứa với Đa-vít là đầy tớ Chúa và thân phụ con - rằng nếu con cháu con thận trọng trong nếp sống, và đi theo đường lối Ta như con đã đi, thì trước mặt Ta, con sẽ chẳng bao giờ thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên.
17 Bây giờ, lạy Chúa là Chân Thần của Y-sơ-ra-ên, nguyện lời Chúa phán hứa với Đa-vít được kiểm chứng và xác nhận.
18 Phải chăng Chân Thần sẽ ngự giữa loài người trên mặt đất? Kìa, bầu trời, ngay cả trời của các tầng trời cũng không đủ chỗ cho Chúa ngự, huống chi cái Đền Thờ con đã xây cất?
19 "Lạy Chúa là Chân Thần của con, Chúa đã xây lại nghe lời cầu nguyện của đầy tớ Chúa! Chúa đã lắng nghe tiếng kêu la của đầy tớ Ngài đang cầu xin trước mặt Ngài.
20,21 Xin mắt Chúa đoái nhìn Đền Thờ này ngày đêm, là nơi Chúa hứa sẽ đặt Danh Ngài tại đó, để nghe và đáp lời con cầu nguyện mỗi khi con hướng về Đền Thờ này. Xin Chúa lắng nghe con và toàn thể dân Chúa khi chúng con hướng về Đền Thờ này mà cầu nguyện. Vâng, từ trên trời cao xin Chúa lắng nghe và đáp lời, tha thứ tội chúng con.
22 "Khi có người phạm tội, buộc phải thề trước bàn thờ này,
23 xin Chúa phạt người dối trá, và minh oan người vô tội.
24 "Nếu dân Chúa bị thất trận trước quân thù, rồi quay về với Chúa, nhìn nhận Danh Chúa, cầu xin khẩn khoản với Chúa trong Đền Thờ này,
25 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, tha thứ tội ác họ và ban lại cho họ đất nước này mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ.
26 "Khi bầu trời đóng chặt, không có mưa trên đất vì chúng con phạm tội, nhưng nếu chúng con hướng về Đền Thờ này, nhìn nhận Chúa là Chân Thần, từ bỏ tội lỗi sau khi bị Chúa hình phạt,
27 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho dân Chúa, và dạy họ con đường chính đáng, cũng cho mưa sa xuống đất này mà Chúa đã ban cho dân Chúa làm sản nghiệp.
28 "Nếu trong xứ gặp nạn đói, dịch hạch, mất mùa, hoặc bị cào cào và sâu bọ phá hoại hoa lợi, hoặc nếu địch quân xâm lăng đất nước này, bao vây các thành phố, hoặc gặp bất cứ tai họa nào,
29 thì xin Chúa lắng nghe lời cầu nguyện về các vấn đề riêng tư của từng cá nhân, cũng như lời cầu nguyện tập thể của toàn dân.
30 Từ trời xin Chúa lắng nghe, tha thứ và báo trả cho mỗi người cách công minh, vì Chúa biết rõ lòng dạ của loài người.
31 Như thế, họ sẽ kính sợ Chúa đời đời và mãi mãi đi theo đường lối Chúa hướng dẫn.
32 "Khi dân các nước ngoài nghe đến quyền năng Chúa và từ xa đến đây để thờ phượng Danh vĩ đại của Chúa và hướng về Đền Thờ này mà cầu nguyện,
33 xin Chúa từ trời lắng nghe và thực hiện những điều họ cầu xin. Như thế, tất cả các dân tộc trên thế giới đều được nghe danh tiếng Chúa và kính sợ Chúa như Y-sơ-ra-ên là dân Ngài, vì họ biết Đền Thờ này con đã xây cất, nhưng thật ra là của Chúa.
34 "Nếu dân Chúa vâng lệnh Chúa ra đi chống đánh quân thù, khi họ hướng về thành Giê-ru-sa-lem mà Chúa đã chọn, và về Đền Thờ này mà con đã xây cất cho Danh Chúa,
35 thì xin Chúa từ trời lắng nghe và cho dân Ngài chiến thắng.
36 "Nếu dân Chúa phạm tội với Chúa (vì có ai mà chẳng bao giờ phạm tội?) và khi Chúa nổi phẫn nộ cùng họ, cho phép quân thù đánh bại họ rồi bắt họ làm phu tù, lưu đày ra một nước ngoài, hoặc gần hoặc xa,
37,38 nếu tại đất lưu đày, họ quay về với Chúa, hướng về xứ sở mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành phố này và Đền Thờ này mà con xây cất, để hết lòng nài xin Chúa tha thứ cho họ,
39 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, cứu giúp họ và tha thứ cho những người đã phạm tội với Chúa.
40 "Lạy Thượng Đế của con, bây giờ xin Chúa đoái nhìn và lắng nghe các lời cầu nguyện tại nơi này.
41 Lạy Chúa là Chân Thần, xin hãy chổi dậy và ngự vào nơi an nghỉ của Chúa, là nơi đã đặt chiếc Rương tượng trưng sức mạnh Chúa. Lạy Chúa là Chân Thần, xin cho các thầy tế lễ của Chúa mặc lấy sự cứu rỗi, và cho các thánh đồ Ngài vui mừng vì các việc nhân từ Chúa thực hiện.
42 Lạy Chúa là Chân Thần, xin đừng xây mặt khỏi con, là kẻ được Chúa xức dầu. Xin ghi nhớ lòng yêu thương và nhân từ Ngài đối với Đa-vít, là đầy tớ Ngài!"
1 Khi Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời đổ xuống thiêu đốt các sinh tế. Vinh quang của Chúa Hằng Hữu đầy dẫy Đền Thờ,
2 đến nỗi các thầy tế lễ không vào Đền Thờ được vì vinh quang ấy.
3 Tất cả Y-sơ-ra-ên đều ngắm nhìn quang cảnh lửa đổ xuống và vinh quang Chúa đầy dẫy Đền Thờ. Họ úp mặt xuống đất trên nền lát đá, thờ phượng Chúa Hằng Hữu và cảm tạ Ngài: "Vì Chúa là Đấng nhân từ, vì lòng thương xót Ngài còn đời đời."
4 Vua và toàn dân đều dâng tế lễ trước mặt Chúa.
5 Sa-lô-môn bắt trong bầy súc vật mình dâng cho Chúa 22.000 bò và 120.000 cừu. Rồi toàn dân đều khánh thành Đền Thờ.
6 Các thầy tế lễ đều chu toàn bổn phận, mỗi người trong địa vị mình. Các nhạc công người Lê-vi cử nhạc ca ngợi Chúa, dùng các nhạc khí Đa-vít đã chế tạo để thờ phượng, cảm tạ Chúa. Họ hòa tấu bài: 'Lòng thương xót Ngài còn đến đời đời!' Khi các thầy tế lễ thổi kèn, hội chúng đều đứng.
7 Sa-lô-môn biệt ra thánh khoảng giữa sân trước Đền Thờ, vì đó là nơi vua đã dâng các tế lễ chay và mỡ tế lễ bình an. Còn bàn thờ đồng - được Sa-lô-môn chế tạo để dâng tế lễ thiêu và các lễ vật khác - không thể nào dâng kịp số sinh tế quá nhiều.
8 Sa-lô-môn cùng Y-sơ-ra-ên cử hành lễ suốt bảy ngày (đây là một đoàn dân vô cùng đông đảo từ khắp đất nước về dự lễ).
9 Ngày thứ tám, họ làm lễ bế mạc.
10 Ngày hai mươi ba tháng bảy, Sa-lô-môn giải tán hội chúng cho họ về nhà. Lòng mọi người đều hân hoan sung sướng vì sự nhân từ Chúa đối với Đa-vít, Sa-lô-môn và Y-sơ-ra-ên.
11 Sa-lô-môn hoàn thành cuộc kiến thiết Đền Thờ và cung điện. Bất cứ chương trình nào vua định thực hiện trong Đền Thờ hoặc cung điện đều thành công mỹ mãn.
12 Một đêm, Chúa Hằng Hữu hiện ra gặp Sa-lô-môn và phán dạy: "Ta đã nghe lời cầu nguyện con, và đã chọn nơi này cho Ta làm nhà dâng sinh tế.
13 Nếu Ta đóng các tầng trời, không cho mưa sa xuống, nếu Ta truyền cho cào cào phá hại đất đai, nếu Ta giáng bệnh dịch giữa dân Ta,
14 và dân Ta - tức là dân được gọi bằng Danh Ta - hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta, lìa bỏ con đường gian ác, khi ấy từ trên trời Ta sẽ lắng nghe, tha thứ tội lỗi họ và chữa lành đất nước họ.
15 Bấy giờ, mắt Ta sẽ đoái xem, tai Ta sẽ lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi này.
16 Bây giờ, Ta đã chọn và thánh hóa nhà này cho Danh Ta ngự đời đời. Phải, mắt Ta và lòng Ta sẽ chú vào đó mãi mãi.
17 Còn con, nếu con bước đi trước mặt Ta như Đa-vít, cha con, làm theo tất cả những điều Ta truyền bảo con, giữ gìn các giới răn và điều luật của Ta,
18 thì Ta sẽ lập vững ngôi con trên đất nước này, như Ta đã giao ước với cha con là Đa-vít: 'Con sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên.'
19 Nhưng nếu con xoay lại, lìa bỏ giới răn, mệnh lệnh Ta đã đặt trước mặt con, nếu các con đi thờ lạy và phụng sự các thần khác,
20 thì Ta sẽ bứng các con ra khỏi đất nước mà Ta đã ban cho các con. Còn ngôi nhà này, dù đã thánh hóa cho Danh Ta, Ta cũng sẽ bỏ cho khuất mắt, làm cho nó thành một đề tài chế giễu trong các câu ca dao tục ngữ của các dân tộc.
21 Ngôi nhà này, dù cất trên núi cao, cũng sẽ sụp đổ, đến nỗi ai đi ngang cũng đều kinh ngạc, nhún vai tự hỏi: 'Tại sao Chúa Hằng Hữu để cho đất nước này và Đền Thờ này bị phá hoại như thế?'
22 Rồi họ sẽ tìm được câu giải đáp: 'Vì dân này đã lìa bỏ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ phụ họ - là Đấng đã đem họ ra khỏi Ai Cập - và đeo đuổi các thần khác, quỳ lạy và phụng sự các thần ấy, nên Chúa giáng các tai họa này trên dân ấy!"
1 Hai mươi năm sau khi lên ngôi, vua Sa-lô-môn hoàn tất chương trình kiến thiết Đền Thờ và cung điện.
2 Vua bắt đầu xây lại các thành phố mà Hi-ram, vua Ty-rơ, đã tặng và cho định cư một số Y-sơ-ra-ên tại đó.
3 Sa-lô-môn cũng tấn công và chiếm đóng Ha-mát Sô-ba.
4 Vua xây cất thành phố Thạch-mơ trong sa mạc và nhiều thành phố quanh Ha-mát làm trung tâm tiếp tế.
5 Vua tăng cường các thành phố Bết-hô-rôn trên và Bết-hô-rôn dưới, xây thành lũy, đặt cổng và khóa để làm trung tâm tiếp tế.
6 Vua cũng kiến thiết thành phố Ba-lát, các trung tâm tiếp tế và các thành chứa xe cộ, chiến xa, kỵ binh, và hoàn thành các dự án kiến thiết tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Li-ban và khắp đất nước.
7 Vua Sa-lô-môn bắt làm sưu dịch các sắc dân Hết, A-mo, Phê-rê, Hê-vi và Giê-bu,
8 tức là dòng dõi những kẻ còn sống sót sau cuộc chiếm đóng của dânY-sơ-ra-ên (Các đời sau cũng áp dụng chính sách này.)
9 Công dân Y-sơ-ra-ên không ai phải làm xâu, nhưng được nhập ngũ phục vụ trong quân đội với các cấp bậc tướng tá, chỉ huy chiến xa, kỵ binh và binh sĩ.
10 Sa-lô-môn cũng bổ nhiệm 250 giám đốc các ngành hành chánh để điều khiển các sinh hoạt của dân.
11 Vua rước hoàng hậu (là công chúa Ai Cập) từ thành Đa-vít lên cung điện mới xây cất xong; vì vua nhận định: 'Hoàng hậu không nên ở trong cung Đa-vít, là nơi đã được thánh hóa.' (Vì Rương Giao Ước trước kia được rước vào cung Đa-vít một thời gian.)
12 Lúc ấy, Sa-lô-môn dâng các tế lễ thiêu cho Chúa trên bàn thờ vua đã lập trước hiên cửa Đền Thờ.
13 Như luật pháp Mai-sen đã ấn định, vua dâng các tế lễ hằng ngày, mỗi ngày lễ cuối tuần, ngày trăng mới và ba ngày lễ lớn hằng năm là lễ Bánh Không Men, lễ các Tuần Lễ và lễ Lều Tạm.
14 Theo lệnh Đa-vít, người của Thượng Đế, các thầy tế lễ được phân công và chia thành từng ban. Người Lê-vi cũng được phân công ca ngợi Chúa và phục vụ trong Đền Thờ giúp các thầy tế lễ trong các nhiệm vụ hằng ngày, cùng canh gác các cổng Đền Thờ.
15 Họ nhất nhất tuân hành lệnh vua trong các sinh hoạt Đền Thờ, kho tàng và mọi việc khác.
16 Mọi công tác của Sa-lô-môn, từ ngày khởi công cho đến ngày hoàn thành, đều được chuẩn bị chu đáo, nên Đền Thờ Chúa được hoàn tất cách tuyệt hảo.
17 Sa-lô-môn cũng xuống Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lát, hai hải cảng trong đất Ê-đôm.
18 Hi-ram (vua Ty-rơ) sai các chuyên viên hàng hải và các thủy thủ đến hợp tác với các hải đội của Sa-lô-môn đi Ô-phia lấy vàng. Họ lấy được 450 ta-lâng vàng, chở về cho Sa-lô-môn.
1 Nữ vương Sê-ba nghe danh tiếng Sa-lô-môn, bèn đến Giê-ru-sa-lem với đoàn tùy tùng rất đông đảo, cùng đoàn lạc đà chở rất nhiều hương liệu, vàng và ngọc. Nữ vương đặt nhiều câu hỏi hóc búa, cùng đặt nhiều vấn đề khó khăn để thử tài Sa-lô-môn.
2 Sa-lô-môn giải đáp tất cả các thắc mắc, các vấn đề nan giải của nữ vương, không sót một điều.
3 Thấy rõ sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, cung điện nguy nga,
4 cao lương mỹ vị trên bàn ăn, triều nghi rực rỡ của các đại thần, thứ tự uy nghi của quan quân hầu cận, áo quần quí giá của đoàn tửu chánh, số tế lễ thiêu mà Sa-lô-môn dâng lên cho Chúa Hằng Hữu, nữ vương Sê-ba vô cùng kinh ngạc.
5,6 Nữ vương nói với Sa-lô-môn: "Thật đúng như lời người ta đồn đãi trong nước tôi! Hoàng thượng thật vô cùng khôn ngoan, hoạt bát! Tuy nhiên, trước kia tôi không tin, mà nay thấy tận mắt rồi, tôi phải nhìn nhận người ta chỉ mới tường thuật được phần nào! Hoàng thượng thật khôn ngoan bội phần!
7 Triều thần của hoàng thượng thật có phước! Các cận thần ngày ngày chầu chực và nghe các lời châu ngọc của hoàng thượng thật có phước!
8 Đáng chúc tụng Chúa Hằng Hữu, vì Ngài vui lòng đặt hoàng thượng trên ngai báu để thay Ngài cai trị, vì Ngài yêu thương dân tộc Y-sơ-ra-ên, lập vững dân này đến đời đời, và vì Ngài đặt hoàng thượng lên làm vua họ để xét xử công minh và thi hành sự công chính."
9 Nữ vương tặng vua 120 ta-lâng vàng, rất nhiều hương liệu và ngọc quý. (Đây là loại hương liệu chưa từng có trước nay.)
10 Trong chuyến đi Ô-phia lấy vàng, các chuyên viên của Hi-ram và Sa-lô-môn cũng chở về nhiều gỗ bạch đàn hương và bảo thạch.
11 Sa-lô-môn dùng gỗ này làm các bực thềm trong Đền Thờ Chúa và cung điện, cùng chế tạo các đàn thụ cầm và thất huyền cầm. Trước kia ở nước Giu-đa chưa bao giờ có loại gỗ quý này.
12 Sa-lô-môn tặng nữ vương Sê-ba tất cả những gì nữ vương yêu cầu, ngoài những tặng phẩm tương đương với các thứ nữ vương đem đến tặng vua. Nữ vương lên đường về nước với đoàn tùy tùng.
13 Mỗi năm, Sa-lô-môn thu được 666 ta-lâng vàng,
14 ngoài số vàng các thương gia và người bán dạo mang vào nước. Các vua Ai Cập và các tổng trấn trong nước đều đem vàng và bạc đến nạp cho vua.
15 Sa-lô-môn chế tạo 200 chiếc khiên lớn bằng vàng gò, mỗi chiếc nặng 600 siếc lơ,
16 300 chiếc khiên nhỏ bằng vàng gò, mỗi chiếc nặng 300 siếc lơ. Tất cả các khiên ấy đều tồn trữ trong Cung Rừng Li-ban.
17 Vua cũng cho làm một chiếc ngai lớn bằng ngà bọc vàng ròng.
18 Ngai có sáu bậc thang, và một cái bệ bằng vàng gắn chặt vào ngai và hai bên ngai có tay dựa, mỗi bên có hình sư tử bằng vàng.
19 Trên sáu bậc thang có đúc mười hai sư tử, mỗi bên có sáu con. Đây là chiếc ngai đặc biệt không nước nào có cả.
20 Các tách đĩa của Sa-lô-môn đều chế tạo bằng vàng; còn các dụng cụ trong Cung Rừng Li-ban lại làm bằng vàng ròng. Trong đời Sa-lô-môn, bạc trở thành tầm thường,
21 vì đoàn tàu của vua vượt biển qua Ta-rê-si với các chuyên viên của vua Hi-ram, cứ ba năm một lần, chở về cho Sa-lô-môn rất nhiều vàng, bạc, ngà với các bầy khỉ và công.
22 Vua Sa-lô-môn nổi danh là khôn ngoan, giàu có hơn hết các vua trên thế giới.
23 Các vua chúa đều tìm dịp đến thăm vua và nghe những lời khôn ngoan Chúa đã đặt trong lòng vua.
24 Hằng năm, các vua cũng tiến cống nhiều lễ vật, các khí cụ bằng bạc và vàng, các y phục, khí giới, hương liệu, ngựa và lừa.
25 Sa-lô-môn có 4.000 tàu ngựa, chứa cả công xa và chiến xa. Số kỵ binh của vua lên đến 12.000, chia nhau đóng giữ các căn cứ quân sự, bảo vệ vua và phòng thủ Giê-ru-sa-lem.
26 Sa-lô-môn cai trị trên các vua chư hầu từ sông Cái (Phát-giang) đến lãnh thổ Phi-li-tin và xuống tận biên giới Ai Cập.
27 Tại Giê-ru-sa-lem, vua làm cho bạc bị xem thường như đá, và gỗ tùng bách như gỗ cây sung.
28 Người ta đem ngựa từ Ai Cập và các nước khác về cho vua.
29 Các công tác khác của Sa-lô-môn, tất cả đều ghi vào các tác phẩm của hai nhà tiên tri Na-than, A-hi-gia (người Si-lô) và của nhà tiên kiến Y-đô về các biến cố liên hệ với Giê-rô-bô-am (con Nê-bát).
30 Sa-lô-môn trị vì tại Giê-ru-sa-lem trên cả Y-sơ-ra-ên được bốn mươi năm.
31 Vua qua đời và được an táng trong thành Đa-vít. Thái tử Rô-bô-am lên ngôi kế vị cha.
1 Rô-bô-am lên Si-chem vì toàn Y-sơ-ra-ên đã tập họp tại đó để tôn người lên làm vua.
2 Giê-rô-bô-am (con Nê-bát) đã trốn xuống Ai Cập khi bị Sa-lô-môn tầm nã, được tin này vội vàng về nước.
3 Thật ra, dân chúng cũng đã tự động gọi Giê-rô-bô-am về. Vậy, Giê-rô-bô-am hiệp với dân trình thỉnh nguyện này lên Rô-bô-am:
4 "Tiên vương đặt chiếc ách nặng nề trên dân. Bây giờ xin bệ hạ giảm bớt gánh nặng đó, thì chúng tôi sẽ phục vụ bệ hạ."
5 Rô-bô-am đáp: "Ba ngày nữa, các ngươi trở lại đây, ta sẽ trả lời." Dân giải tán về nhà.
6 Rô-bô-am về hỏi những cố vấn lớn tuổi là những đại thần lão luyện của vua Sa-lô-môn: "Các khanh nghĩ ta nên trả lời dân cách nào?"
7 Các lão thần đề nghị: "Muôn tâu, nếu bệ hạ đối đãi với dân cách nhân từ, thỏa mãn nguyện vọng của họ, và nói những lời dịu dàng với họ, họ sẽ phục vụ bệ hạ mãi mãi."
8 Nhưng Rô-bô-am không nghe lời khuyên ấy, lại đi hỏi ý kiến những thanh niên là bạn đồng trang lứa với mình và đang nịnh bợ chầu chực mình.
9 Vua hỏi: "Các ngươi khuyên ta nên giải quyết cách nào lời thỉnh nguyện của dân?"
10 Họ tâu: "Xin bệ hạ bác bỏ lời thỉnh nguyện vô lý đó! Dân dám trách tiên vương đặt ách nặng nề trên họ và xin bệ hạ nới tay. Nhưng thiết tưởng bệ hạ chỉ cần thị oai phán một câu: 'Ngón tay út của ta còn lớn hơn lưng của cha ta!
11 Cha ta đã đặt gánh nặng trên đầu trên cổ các ngươi, ta sẽ càng gia tăng gánh nặng! Cha ta đánh phạt các ngươi bằng roi, ta sẽ đánh phạt các ngươi bằng bò cạp!' "
12 Ba ngày sau, Giê-rô-bô-am và toàn dân lại kéo đến gặp Rô-bô-am như lời vua dặn bảo.
13 Đã quyết định bác bỏ lời khuyên khôn ngoan của các bậc lão thần
14 để nghe theo bọn thanh niên nịnh hót, Rô-bô-am hằn học tuyên bố: "Tiên vương đã đặt gánh nặng trên đầu trên cổ các ngươi, ta sẽ càng gia tăng gánh nặng. Tiên vương đã đánh phạt các ngươi bằng roi, ta sẽ đánh phạt các ngươi bằng bò cạp!"
15 Thế là vua bác bỏ lời thỉnh nguyện chính đáng của dân. Thật ra, theo một phương diện khác Thượng Đế đã tể trị trong việc này, để cho lời tiên tri Ngài đã phán qua A-hi-gia (người Si-lô) được ứng nghiệm. (Chúa phải đoán phạt tội lỗi của Sa-lô-môn và đưa Giê-rô-bô-am, con Nê-bát lên làm vua mười đại tộc.)
16 Nhận thấy Rô-bô-am đã bác bỏ lời thỉnh nguyện, dân đồng thanh la hét: "Dân ta không liên hệ gì với Đa-vít! Sự nghiệp của dân ta đã tách rời với sự nghiệp con trai Y-sai! Y-sơ-ra-ên! Mỗi người hãy trở về nhà! Nhà Đa-vít! Từ rày về sau hãy coi chừng!" Toàn Y-sơ-ra-ên đều bỏ ra về.
17 Chỉ có số Y-sơ-ra-ên trú ngụ trong lãnh thổ Giu-đa vẫn còn phục dưới quyền cai trị của Rô-bô-am.
18 Trong một cố gắng cuối cùng, Rô-bô-am bảo Ha-đô-ram, tổng giám đốc thuế vụ, ra giàn xếp với Y-sơ-ra-ên, nhưng Ha-đô-ram bị Y-sơ-ra-ên ném đá chết. Thấy thế, Rô-bô-am vội vã lên xe trốn về Giê-ru-sa-lem.
19 Thế là từ đó Y-sơ-ra-ên (gồm mười đại tộc) phản nghịch nhà Đa-vít.
1 Rô-bô-am về kinh đô Giê-ru-sa-lem, ra lệnh tổng động viên hai đại tộc Giu-đa và Bên-gia-min. Quân số lên tới 180.000 chiến sĩ tinh nhuệ sẵn sàng tấn công mười đại tộc Y-sơ-ra-ên để bắt họ phục tùng như trước.
2 Nhưng Chúa Hằng Hữu phán với Sê-ma-gia, người của Ngài rằng:
3 "Con hãy bảo Rô-bô-am (con Sa-lô-môn) vua Giu-đa và dân hai đại tộc Giu-đa và Bên-gia-min:
4 Chúa Hằng Hữu phán: 'Các ngươi không được tấn công đồng bào mình. Tất cả hãy đi về nhà, vì việc này xảy ra do Ta sắp đặt!' " Dân Giu-đa và Bên-gia-min vâng lời Chúa, quay về nhà mình, bỏ ý định chinh phạt Giê-rô-bô-am.
5 Rô-bô-am trị vì tại Giê-ru-sa-lem và hoạch định chương trình kiến thiết các thành lũy kiên cố trên khắp đất nước Giu-đa:
6 Bê-liêm, Ê-tam, Thê-cô-a,
7 Bết-sua, Sô-cô, A-đu-lam,
8 Gát, Ma-rê-sa, Xíp,
9 A-đô-rim, La-ki, A-xê-ca
10 Xô-ra, A-gia-lôn và Hếp-rôn. Đó là các thành phố làm căn cứ phòng thủ trong hai xứ Giu-đa và Bên-gia-min.
11 Rô-bô-am củng cố các căn cứ, đặt các tướng tá chỉ huy các lực lượng phòng thủ, và quản lý các kho thực phẩm, kho dầu và rượu.
12 Trong mỗi thành phố, vua cũng tăng cường khí giới cho các lực lượng võ trang để củng cố việc phòng thủ. Như thế, hai xứ Giu-đa và Bên-gia-min thuộc quyền kiểm soát và lãnh đạo của Rô-bô-am.
13,14 Các thầy tế lễ và người Lê-vi ở khắp nước Y-sơ-ra-ên đều ủng hộ Rô-bô-am. Họ bỏ làng xã, sản nghiệp, vượt biên, kéo về xứ Giu-đa và kinh đô Giê-ru-sa-lem. Thật ra Giê-rô-bô-am và các con trai vua đã trục xuất họ, không cho làm thầy tế lễ của Chúa nữa,
15 rồi cử các thầy tế lễ khác để tế tự các miếu thờ trên đồi núi trong cuộc thờ phượng các thần bò con và thần dê mà Giê-rô-bô-am chế tạo.
16 Tuy nhiên, trong tất cả các đại tộc, những người nào có lòng tìm kiếm Chúa là Chân Thần của Y-sơ-ra-ên đều theo người Lê-vi lên Giê-ru-sa-lem để dâng tế lễ cho Chúa là Thượng Đế của tổ phụ mình.
17 Họ tăng cường vương quốc Giu-đa và ủng hộ Rô-bô-am (con Sa-lô-môn) suốt ba năm và đi theo đường lối của Đa-vít và Sa-lô-môn.
18 Rô-bô-am cưới Ma-ha-lát con Giê-ri-mốt, cháu Đa-vít làm vợ lại cưới thêm cả A-bi-ga-in con Ê-li-áp, cháu Gie-sê, người này
19 sinh được ba con trai là Giê-úc, Sê-ma-ria và Xa-ham.
20 Rô-bô-am còn cưới Ma-a-ca con Áp-sa-lôm và sinh bốn con là A-bi-gia, Át-tai, Xi-xa và Sê-lô-mít.
21 Trong số mười tám người vợ và sáu mươi cung phi chỉ có Ma-a-ca (con Áp-sa-lôm) là được sủng ái nhất.
22 Rô-bô-am lập A-bi-gia (con Ma-a-ca) làm thái tử.
23 Vua khéo léo phân tán các hoàng tử khắp các tỉnh xứ Giu-đa và Bên-gia-min, đặt họ trong các thành phố có thành lũy kiên cố. Vua cung cấp lương thực dồi dào cho họ và cưới cho họ nhiều vợ.
1 Khi vương quyền Rô-bô-am vừa được củng cố, quốc gia được cường thịnh, thì từ vua đến dân đều bỏ Chúa, xem thường luật thánh của Ngài.
2 Vì tội ác ấy, Chúa cho Si-sắc, vua Ai Cập kéo quân tấn công kinh đô Giê-ru-sa-lem vào năm thứ năm triều vua Rô-bô-am.
3 Quân đội Ai Cập gồm có 1.200 chiến xa, 60.000 kỵ binh và vô số bộ binh người Ai Cập, Ly-bi, Su-ki và Ê-ti-ô-pi.
4 Địch chiếm các thành phố có thành lũy kiên cố trong nước Giu-đa rồi tiến sát vào kinh đô.
5 Nhà tiên tri Sê-ma-gia đi yết kiến Rô-bô-am và gặp các cấp lãnh đạo Giu-đa (từ khắp nước về Giê-ru-sa-lem tị nạn trước cuộc tấn công Ai Cập). Ông tuyên bố: "Chúa Hằng Hữu phán: Vì các ngươi lìa bỏ Ta, nên Ta cũng lìa bỏ các ngươi và bỏ mặc các ngươi trong tay Si-sắc."
6 Vua và các nhà lãnh đạo liền ăn năn, và kêu lên rằng: "Chúa Hằng Hữu là Đấng công minh!"
7 Thấy họ hạ mình, Chúa liền phán bảo Sê-ma-gia: "Họ đã hạ mình, nên Ta sẽ không tiêu diệt họ. Ta sẽ giải cứu họ một phần. Ta sẽ không dùng quân đội Si-sắc để đổ cơn thạnh nộ Ta trên Giê-ru-sa-lem,
8 nhưng họ phải thần phục và nạp cống thuế cho Si-sắc, để họ biết phục vụ Ta và phục vụ các vua trần gian khác nhau thế nào."
9 Vậy Si-sắc, vua Ai Cập, tấn công Giê-ru-sa-lem, chiếm đoạt các kho tàng trong Đền Thờ Chúa và trong cung điện, cướp sạch các bảo vật, kể cả các chiếc thuẫn bằng vàng Sa-lô-môn đã chế tạo.
10 Vua Rô-bô-am đúc các thuẫn bằng đồng thay thế và giao cho các cấp chỉ huy đội thị vệ sử dụng.
11 Mỗi khi vua vào Đền Thờ, các đội thị vệ mang thuẫn theo hầu; sau đó, họ đem cất thuẫn vào kho.
12 Khi vua hạ mình xuống trước mặt Chúa, Ngài bèn nguôi cơn phẫn nộ và không tiêu diệt họ. Thật ra, sau cuộc xâm lăng của Si-sắc, nền kinh tế của Giu-đa vẫn còn phồn thịnh.
13 Vua Rô-bô-am lên ngôi năm bốn mươi mốt tuổi, củng cố quyền hành và trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành phố đã được Thượng Đế chọn để đặt Danh Ngài, giữa các đại tộc Y-sơ-ra-ên. Vua là con bà Na-a-ma, người Am-môn.
14 Vua làm điều ác và không quyết tâm tìm kiếm Chúa.
15 Các chi tiết về cuộc trị vì của Rô-bô-am đều được ghi chép đầy đủ trong bộ lịch sử của nhà tiên tri Sê-ma-gia và nhà tiên kiến Y-đô và bộ lịch sử các vua. Cuộc chiến tranh giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am diễn ra liên tục. Vua Rô-bô-am qua đời, được an táng trong thành Đa-vít. Thái tử A-bi-gia lên ngai kế vị cha.
1 Tại Giê-ru-sa-lem, A-bi-gia lên ngai cai trị nước Giu-đa vào năm thứ mười tám triều vua Giê-rô-bô-am,
2 và chỉ trị vì được ba năm. Vua là con của bà Ma-a-ca (cháu của U-ri-ên ở Ghi-bê-a). Khi chiến tranh bùng nổ giữa A-bi-gia và Giê-rô-bô-am,
3 A-bi-gia chỉ huy lực lượng Giu-đa gồm 400.000 quân, còn Giê-rô-bô-am điều động 800.000 quân. Lực lượng hai bên đều gồm những tướng sĩ tinh nhuệ.
4 A-bi-gia lên đỉnh núi Sê-ma-rim trong miền đồi núi Ép-ra-im kêu gọi: "Giê-rô-bô-am! Toàn Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe ta.
5 Các ngươi không biết rằng Đấng Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, đã vĩnh viễn ban vương quốc Y-sơ-ra-ên cho Đa-vít và dòng họ người hay sao?
6 Giê-rô-bô-am (con Nê-bát) đầy tớ của Sa-lô-môn (con Đa-vít) đã nổi lên phản nghịch vua,
7 được những kẻ vô lại theo phò để phản bội Rô-bô-am (con Sa-lô-môn), thừa dịp Rô-bô-am còn trẻ người non dạ, không đủ sức chống lại.
8 "Các ngươi tưởng các ngươi sẽ chiến thắng được vương quốc của Chúa do cháu của Đa-vít lãnh đạo sao? Dù quân đội các ngươi đông gấp đôi, nhưng các ngươi bị rủa sả vì thờ thần tượng bò con vàng Giê-rô-bô-am đã đúc ra, mà hắn dám gọi là thần của các ngươi.
9 Các ngươi đã trục xuất các thầy tế lễ của Chúa và các người Lê-vi, để rồi đặt các thầy tế lễ của mình lên thay thế, theo lối các dân tộc khác: bất cứ người nào tình nguyện và dâng một con bò đực tơ và bảy con dê đực là được phong chức tế lễ cho thần bò con vàng hư không.
10 Còn đối với chúng ta, Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của chúng ta. Chúng ta không lìa bỏ Ngài. Phải, các thầy tế lễ dòng họ A-rôn và người Lê-vi vẫn đang phục vụ Chúa Hằng Hữu trong mọi công tác,
11 và dâng cho Ngài các tế lễ thiêu, mỗi sáng, mỗi chiều, dâng hương và bánh trên bàn thánh sạch, thắp các ngọn đèn đặt trên giá mỗi đêm, vì chúng ta vâng giữ mệnh lệnh của Chúa Hằng Hữu là Chân Thần chúng ta. Trái lại, các ngươi đã dứt khoát lìa bỏ Ngài.
12 Này, Chân Thần ở với chúng ta và đang lãnh đạo chúng ta, các thầy tế lễ của Ngài sẽ thổi kèn cho quân đội chúng ta xông trận. Toàn Y-sơ-ra-ên, đừng chiến đấu chống lại Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của tổ phụ các ngươi, vì chắc chắn các ngươi sẽ thất trận!"
13,14 Trong khi đó, Giê-rô-bô-am bí mật điều động một cánh quân bọc sau lưng địch để phục kích, và bao vây quân đội Giu-đa. Tướng sĩ Giu-đa thấy thế liền kêu cứu với Chúa trong khi các thầy tế lễ nhất loạt thổi kèn vang động.
15,16 Khi tướng sĩ Giu-đa bắt đầu kêu la, Chúa dùng vua A-bi-gia và quân đội Giu-đa đánh bại quân đội Y-sơ-ra-ên.
17 Có 500.000 tướng sĩ Y-sơ-ra-ên tử trận trong một ngày.
18,19 Dân Giu-đa đã chiến thắng Y-sơ-ra-ên, đánh đuổi địch quân và chiếm đóng các thành phố: Bê-tên, Giê-sa-na, ép-rôn và các vùng phụ cận.
20 Suốt đời vua A-bi-gia, quyền lực của vua Giê-rô-bô-am cứ suy yếu không thể nào khôi phục được. Rốt cuộc, Giê-rô-bô-am bị Chúa phạt nên qua đời.
21 A-bi-gia ngày càng cường thịnh, cưới mười bốn vợ, sinh hai mươi hai hoàng tử và mười sáu công chúa.
22 Các công tác, chính sách, các bài diễn văn và huấn lệnh của A-bi-gia đều đã ghi chép trong bộ lịch sử của nhà tiên tri Y-đô.
1,2 Sau khi A-bi-gia qua đời và được an táng trong thành Đa-vít, thái tử A-sa lên ngôi trị vì nước Giu-đa. Đất nước được thái bình suốt mười năm, vì A-sa cẩn thận vâng lời Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của mình
3 phá hủy các bàn thờ thần tượng và miếu thờ tà thần trên các đỉnh đồi núi, lật đổ các trụ cột, triệt hạ các pho tượng.
4 Vua truyền bảo toàn dân tìm kiếm Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của tổ phụ họ, và vâng giữ luật pháp, điều răn của Ngài.
5 Vua dẹp sạch các miếu thờ trên các đỉnh đồi núi, tiêu diệt các hình tượng trong tất cả các thành phố Giu-đa, nên đất nước được hưởng thái bình an lạc.
6 Trong thời kỳ hòa bình đó, Chúa cho vua được nghỉ ngơi và lo kiến thiết các thành phố có công sự phòng thủ kiên cố.
7 Vua kêu gọi dân: "Ta hãy kiến thiết các thành phố này, xây dựng các thành lũy bao bọc với tháp canh, các cổng thành với hai tấm cửa đóng có then gài kiên cố, trong khi ta còn làm chủ đất nước vì ta đã tìm kiếm Chúa và Ngài cho ta hưởng thái bình thịnh trị.
8 A-sa tổ chức lại quân đội Giu-đa gồm 300.000 tướng sĩ trang bị khiên, giáo và quân đội Bên-gia-min gồm 280.000 tướng sĩ trang bị thuẫn và cung. Tất cả đều là những tướng sĩ tinh nhuệ.
9,10 Một ngày nọ, tướng Xê-ra, chỉ huy một triệu quân Ê-ti-ô-pi và ba trăm chiến xa bất ngờ tấn công vào Giu-đa, đánh thành phố Ma-rê-sa trong thung lũng Xép-pha-ta. Vua A-sa vội vã đưa quân ra ứng chiến.
11 Nhưng vua đặt nặng sự cầu nguyện hơn; vua kêu cầu với Chúa: "Lạy Chúa, ngoài Ngài không có ai có thể cứu giúp chúng con! Chúng con đây thật không chống nổi quân đội hùng mạnh này. Lạy Chúa là Chân Thần, xin phù hộ chúng con, vì chúng con tin cậy một mình Chúa, là Đấng giải cứu chúng con! Nhân Danh Chúa, chúng con xung phong tiến đánh đạo quân đông như kiến cỏ này! Xin Chúa đừng để loài người chiến thắng Chúa!"
12 Chúa Hằng Hữu đánh bại quân đội Ê-ti-ô-pi. A-sa và quân đội Giu-đa ra sức truy nã địch quân đang chạy trốn.
13 Bị rượt đuổi đến Ghê-ra, quân đội Ê-ti-ô-pi bị quét sạch không còn một người, vì Chúa và quân đội Ngài đã toàn thắng. Quân sĩ Giu-đa đem về một số chiến lợi phẩm khổng lồ.
14 Quân đội Giu-đa cũng tấn công những thành phố quanh vùng Ghê-ra. Chúa làm cho dân cư vùng ấy khiếp sợ. Quân đội Giu-đa cũng thu nhiều chiến lợi phẩm trong vùng,
15 tiêu diệt các trại chăn nuôi, bắt được vô số cừu và lạc đà.
1 Thần Chúa cảm thúc A-xa-ria (con trai Ô-đết) đi nghênh đón vua A-sa và tâu trình:
2 "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ cùng tất cả dân Giu-đa và Bên-gia-min nghe lời tôi! Bệ hạ và đồng bào theo Chúa đến mức nào thì Chúa phù hộ bệ hạ và đồng bào đến mức nấy! Nếu bệ hạ và đồng bào tìm kiếm Chúa, tất sẽ gặp Ngài. Nếu bệ hạ và đồng bào lìa bỏ Chúa, tất bị Chúa lìa bỏ.
3 Đã từ lâu, dân ta vắng bóng Chân Thần, không có thầy tế lễ giáo huấn, cũng chẳng có luật pháp hướng dẫn!
4 Tuy nhiên, trong cơn khốn khổ, dân quay về cùng Thượng Đế Hằng Hữu, tìm kiếm Chúa nên được gặp Ngài.
5 Trong thời gian này, dân loạn lạc, đất nước nhiễu nhương.
6 Nước này giày đạp nước kia; thành này áp bức thành nọ; vì Thượng Đế để cho dân bị tai hoạ và loạn lạc.
7 Tuy nhiên, xin bệ hạ và đồng bào hãy vững lòng, đừng sợ hãi, vì công việc mình sẽ đem lại thành quả tốt đẹp!"
8 Nghe lời khích lệ của tiên tri A-xa-ria con trai Ô-đết, vua A-sa vô cùng phấn khởi, liền loại bỏ và tiêu diệt tất cả các thần tượng ghê tởm khắp đất nước (Giu-đa và Bên-gia-min) cũng như khắp các thành phố miền núi Ép-ra-im mà vua đã chiếm đóng. Vua sửa lại bàn thờ của Chúa Hằng Hữu trước hiên cửa Đền Thờ Ngài.
9 Vua ra lệnh triệu tập toàn dân Giu-đa và Bên-gia-min, các kiều dân người Ép-ra-im, Ma-na-se và Si-mê-ôn (vì nhiều người Y-sơ-ra-ên thuộc ba đại tộc ấy đều kéo nhau theo A-sa khi thấy rõ Thượng Đế Hằng Hữu phù hộ vua).
10 Tháng ba năm thứ mười lăm triều vua A-sa, toàn dân tập họp tại thủ đô,
11 dâng 700 bò đực và 7.000 cừu làm tế lễ lên Chúa Hằng Hữu.
12 Toàn dân kết ước quyết tâm tìm kiếm Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của tổ phụ mình,
13 và quyết nghị xử tử kẻ nào không tìm kiếm Ngài, dù nhỏ hay lớn, nam hay nữ.
14 Họ lớn tiếng thề nguyện với Chúa, rồi reo mừng, thổi kèn và còi vang động.
15 Toàn dân đều hoan hỉ vì họ hết lòng thề nguyện và hết sức mong muốn tìm kiếm Chúa. Kết quả là họ được gặp Chúa và Ngài cho đất nước họ hưởng cảnh thái bình, tất cả các nước lân bang không còn quấy phá họ nữa.
16 Khi phát giác vụ bà nội mình là Ma-a-ca lập tượng thần A-sê-ra, vua A-sa cách chức bà, chặt ngã thần tượng, đập cho bể nát, rồi đem đốt đi bên suối Kít-rôn.
17 Tuy các nơi thờ thần trên đỉnh núi đồi vẫn chưa bị phá dỡ, nhưng vua A-sa vẫn giữ lòng chung thủy với Chúa suốt đời.
18 Vua đem vào Đền Thờ Chúa các bảo vật mà vua cha và chính mình đã biệt ra thánh gồm vàng, bạc và các khí dụng.
19 Đất nước được hòa bình cho đến năm thứ ba mươi lăm triều vua A-sa.
1 Năm thứ ba mươi sáu, triều vua A-sa, Ba-ê-sa vua Y-sơ-ra-ên đem quân tấn công vào Giu-đa, rồi xây đồn lũy Ra-ma để cắt đứt hệ thống đường sá giao thông của dân Giu-đa.
2 A-sa lấy bạc vàng trong kho tàng Đền Thờ Chúa và trong ngân khố hoàng cung gửi tặng Bên-ha-đát, vua Sy-ri, tại thủ đô Đa-mách và yêu cầu:
3 "Hai nước ta hãy lập minh ước với nhau như các bậc tiên đế hai nước ta đã làm. Đây, tôi xin gửi tặng nhà vua bạc vàng. Vậy xin bãi bỏ minh ước với Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, buộc nó rút quân khỏi đất nước tôi!"
4 Bên-ha-đát chấp thuận đề nghị ấy, và ra lệnh cho các tướng đem quân tấn công vào đất Y-sơ-ra-ên, chiếm đóng các thành phố Y-giôn, Đan, A-bên Ma-im và các thành phố dùng làm kho tàng trong xứ Nép-ta-li.
5 Được tin dữ ấy, Ba-ê-sa liền ngưng ngay công tác xây đồn lũy Ra-ma và bãi bỏ kế hoạch phá hoại nước Giu-đa.
6 Vua A-sa huy động toàn dân đi chở đá và gỗ mà Ba-ê-sa bỏ lại tại Ra-ma đem về kiến thiết hai thành phố Ghi-ba và Mích-ba.
7 Lúc ấy, nhà tiên tri Ha-na-ni đến yết kiến A-sa vua Giu-đa và trách rằng: "Vì bệ hạ nhờ cậy vua Sy-ri thay vì nương cậy Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của bệ hạ, nên quân đội Sy-ri đã thoát khỏi tay bệ hạ.
8 Quân đội Ê-ti-ô-pi và quân đội Ly-bi không phải hùng cường và đông đảo sao? Chiến xa và kỵ binh của chúng nhiều và mạnh là thế, mà khi bệ hạ nương nhờ Chúa Hằng Hữu, Ngài liền nạp chúng vào tay bệ hạ.
9 Vì mắt Chúa Hằng Hữu nhìn qua nhìn lại khắp thế giới, sẵn sàng bày tỏ quyền lực vô song của Ngài cho những người giữ lòng chung thủya với Ngài. Trong vụ này bệ hạ hành động thật dại dột; vì thế, từ nay bệ hạ sẽ phải lâm vào nhiều cuộc chiến tranh!"
10 Vua A-sa nổi trận lôi đình khi nghe lời trách móc của tiên tri, bắt nhà tiên tri đưa vào ngục tra tấn. Đồng thời, vua A-sa cũng đàn áp một số người khác trong dân.
11 Tất cả các hành động của A-sa từ đầu đến cuối đều được ghi vào Sử Ký Các Vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
12 A-sa bị đau chân vào năm thứ ba mươi chín triều mình, bệnh tình ngày càng trầm trọng. Trong cơn bệnh tật, A-sa lại không tìm kiếm Chúa, nhưng chỉ nhờ các y sĩ cứu chữa.
13 A-sa qua đời vào năm thứ bốn mươi mốt của triều mình và được an táng trong lăng tẩm vua đã xây cất cho mình trong thành Đa-vít. Trước khi an táng, người ta đặt linh cửu vua trên long sàng phủ đầy hương liệu và hương thảo với nhiều loại dầu thơm biệt chế pha trộn với nhau đúng theo kỷ thuật, rồi đốt nhiều hương liệu trong một buổi lễ rất long trọng.
1 Giô-sa-phát, con A-sa, lên kế vị cha. Vua tăng cường quân lực để chống lại Y-sơ-ra-ên,
2 bố trí nhiều lực lượng phòng thủ tại tất cả các thành kiên cố trong đất nước Giu-đa, và đặt bộ chỉ huy cho toàn thể quân đội đang bố phòng trong toàn quốc, kể cả các thành phố Y-sơ-ra-ên (trong xứ Ép-ra-im) mà vua cha đã chiếm đóng.
3 Chúa Hằng Hữu phù hộ Giô-sa-phát vì vua theo đúng đường lối đầu tiên của Đa-vít, tổ phụ mình, không chịu thờ các thần Ba-anh.
4 Giô-sa-phát tìm kiếm Chân Thần của tổ phụ mình, vâng giữ các mệnh lệnh Ngài, không bắt chước Y-sơ-ra-ên làm điều tà ác.
5 Chúa Hằng Hữu củng cố vương quốc của Giô-sa-phát. Toàn dân Giu-đa dâng phẩm vật cho vua, và vua được của cải dồi dào, danh tiếng lừng lẫy.
6 Vua hăng hái đi theo đường lối Chúa, mạnh dạn dỡ bỏ các nơi thờ phượng trên các núi đồi và tiêu diệt các tượng thần A-sê-ra khắp đất nước Giu-đa.
7 Năm thứ ba triều vua Giô-sa-phát, vua sai các đại thần Bên-hai, Ô-ba-đia, Xa-cha-ri, Na-tha-nên và Mi-ca-gia đi khắp các thành phố Giu-đa để dạy lời Chúa cho dân.
8 Cũng có một số người Lê-vi tháp tùng tên là Sê-ma-gia, Nê-tha-nia, Xê-ba-đia, A-sa-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giô-na-than, A-đô-ni-gia, Tô-bi-gia và Tô-ba-đô-ni-gia. Ngoài ra, cũng có hai thầy tế lễ tên là Ê-li-sa-ma và Giô-ram trong phái đoàn.
9 Họ đem theo bộ Thánh Kinh gồm các sách luật của Chúa Hằng Hữu, đi khắp các thành phố Giu-đa mà dạy dỗ dân.
10 Chúa khiến các nước lân bang đều nể sợ, không nước nào dám khai chiến với Giô-sa-phát.
11 Ngay cả dân Phi-li-tin là kẻ thù truyền kiếp của Giu-đa, cũng đem phẩm vật và bạc đến triều cống. Dân Á-rập cũng đem tặng vua các bầy gia súc: 7.700 cừu đực và 7.700 dê đực.
12 Giô-sa-phát ngày càng cường thịnh. Vua xây cất các chiến lũy và các thành phố dùng làm kho tàng trong đất nước Giu-đa.
13 Vua phát động nhiều dự án trong các thành phố Giu-đa và đem các đơn vị chiến sĩ ưu tú về trấn đóng tại thủ đô.
14 Quân đội được tổ chức thành từng đơn vị một ngàn người, mỗi đơn vị có chỉ huy trưởng, và đặt dưới quyền các tướng tư lệnh sau đây: trong đại tộc Giu-đa, có đại tướng Át-na, chỉ huy 300.000 quân;
15 đại tướng Giô-ha-nan chỉ huy 280.000 quân;
16 và đại tướng A-ma-xia (con Xiếc-ri), người tình nguyện phục vụ Chúa, chỉ huy 200.000 quân.
17 Trong đại tộc Bên-gia-min có đại tướng Ê-li-a-đa, một chiến sĩ anh dũng, chỉ huy 200.000 quân cầm cung và khiên,
18 và đại tướng Giê-hô-sa-bát, chỉ huy 180.000 quân sẵn sàng xuất trận.
19 Các quân đoàn ấy là lực lượng phòng vệ nhà vua, ngoài các đơn vị mà Giô-sa-phát đã bố trí tại các thành kiên cố trong khắp nước Giu-đa.
1 Giô-sa-phát được giàu có và vinh dự lớn. Vua kết thông gia với vua A-háp để thắt chặt liên hệ giữa hai nước.
2 Vài ba năm sau, vua đến Sa-ma-ri viếng A-háp. A-háp giết nhiều chiên bò đãi Giô-sa-phát và đoàn tùy tùng, rồi thuyết phục Giô-sa-phát đem quân đánh Ra-mốt Ga-la-át.
3 A-háp vua Y-sơ-ra-ên hỏi Giô-sa-phát vua Giu-đa: "Vua có đi Ra-mốt Ga-la-át với tôi không?"
4 Giô-sa-phát đáp: "Tôi là đồng minh của vua, quân đội tôi đặt dưới quyền sử dụng của vua. Nhưng trước hết, chúng ta phải cầu hỏi Chúa Hằng Hữu."
5 Vua Y-sơ-ra-ên tập họp 400 tiên tri, hỏi: "Chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át hay không?" Các tiên tri đáp: "Nên đi, vì Thượng Đế sẽ cho vua thắng vẻ vang."
6 Giô-sa-phát hỏi: "Có tiên tri nào khác của Chúa Hằng Hữu ở đây không?"
7 Vua Y-sơ-ra-ên trả lời: "Có một người là Mai-ca con Giêm-la nhưng tôi ghét hắn lắm, vì chẳng nói lời tiên tri tốt nào cho tôi, chỉ toàn là điều xấu." Giô-sa-phát bảo: "Vua chẳng nên nói thế."
8 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên bảo một người hầu cận: "Đi gọi Mai-ca con Giêm-la đến đây ngay."
9 Vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát vua Giu-đa ngồi trên hai ngôi đặt nơi sân rộng bên cửa thành Sa-ma-ri; trước mắt hai vua là các tiên tri đang nói tiên tri.
10 Sê-đê-kia con Kê-na-na làm những sừng bằng sắt và nói: "Chúa Hằng Hữu phán: Với các sừng này, vua sẽ báng và tiêu diệt dân Sy-ri."
11 Tất cả các tiên tri đều nói như thế: "Phải, hãy đi đánh Ra-mốt Ga-la-át, và thành công, vì Chúa Hằng Hữu cho vua chiến thắng vẻ vang."
12 Sứ giả của vua nói với Mai-ca: "Lời các tiên tri đều phù hợp nhau, toàn là lời tốt cho vua, đề nghị ông làm giống như họ và nói lời lành cho vua."
13 Mai-ca đáp: "Trước mặt Thượng Đế, ta quả quyết: Thượng Đế phán điều gì, ta nói điều ấy."
14 Khi Mai-ca đến, vua hỏi: "Mai-ca, chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át hay không?" Ông đáp: "Cứ đi, vua sẽ đắc thắng vẻ vang."
15 Vua nói: "Đã bao nhiêu lần ta buộc ngươi phải nói đúng những lời Chúa Hằng Hữu đã phán dạy."
16 Mai-ca đáp: "Tôi thấy Y-sơ-ra-ên tản lạc trên núi, như chiên không có người chăn. Chúa phán: 'Dân không có người lãnh đạo, hãy cho họ về nhà bình an.' "
17 Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sa-phát: "Vua thấy không, người này chẳng nói tiên tri lành về tôi, chỉ toàn nói điều dữ."
18 Mai-ca nói tiếp: "Hãy nghe lời Chúa Hằng Hữu. Tôi thấy Chúa ngồi trên ngai, tất cả thiên sứ đều đứng hai bên Ngài.
19 Chúa hỏi: 'Ai thuyết phục A-háp vua Y-sơ-ra-ên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át để bị ngã chết tại đó?' Có nhiều ý kiến được đưa ra,
20 nhưng cuối cùng, một thần bước tới trước mặt Chúa Hằng Hữu thưa: 'Tôi sẽ đi thuyết phục A-háp.' Chúa hỏi: 'Bằng cách nào?'
21 Thần đáp: 'Tôi sẽ làm thần nói dối trong miệng các tiên tri A-háp.' Chúa phán: 'Ngươi có thể thuyết phục được, hãy đi, làm như thế.'
22 Bây giờ, Chúa đã đặt thần nói dối trong miệng các tiên tri vua, Ngài định việc dữ cho vua."
23 Sê-đê-kia con Kê-na-na đến gần tát vào mặt Mai-ca, mắng: "Thần Chúa Hằng Hữu ra khỏi ta khi nào để phán dạy anh?"
24 Mai-ca đáp: "Lúc ẩn trốn trong phòng kín, anh sẽ biết."
25 Vua Y-sơ-ra-ên truyền lệnh bắt Mai-ca giao cho A-môn (tổng trấn thành phố) và hoàng tử Giô-ách,
26 và căn dặn: "Giam người này trong ngục, chỉ cho ăn bánh và uống nước mà thôi cho đến ngày ta trở về bình an."
27 Mai-ca nói: "Nếu vua trở về bình an, tất Chúa Hằng Hữu không phán dạy qua tôi," rồi kêu gọi: "Hỡi đồng bào, xin ghi nhận những lời tôi nói.!"
28 Vậy, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát vua Giu-đa cùng kéo quân lên Ra-mốt Ga-la-át.
29 Vua Y-sơ-ra-ên bàn với Giô-sa-phát: "Tôi sẽ cải trang để ra trận còn vua cứ mặc vương bào. Thế rồi, A-háp cải trang và cùng Giô-sa-phát xuất trận.
30 Trước đó, vua Sy-ri đã ra lệnh cho các sĩ quan chỉ huy các đoàn chiến xa: "Các ngươi đừng đánh ai hết, bất luận nhỏ lớn, chỉ lo hạ cho được vua Y-sơ-ra-ên mà thôi!"
31,32 Vừa thấy Giô-sa-phát, các sĩ quan Sy-ri tưởng là vua Y-sơ-ra-ên liền tấn công vua, nhưng nghe Giô-sa-phát kêu cứu, Chúa liền cứu vua thoát chết. Khi các tướng Sy-ri thấy không phải là vua Y-sơ-ra-ên liền bỏ, không đuổi đánh nữa.
33 Nhưng ngay lúc đó, một người lính Sy-ri tình cờ giương cung bắn trúng vua A-háp nơi hai mối áo giáp đâu lại. Vua Y-sơ-ra-ên bị thương nặng nên truyền người đánh xe đem ra khỏi chiến trường.
34 Chiến sự càng lúc càng ác liệt, vua Y-sơ-ra-ên đứng vịn trên xe nhìn về phía quân Sy-ri. Và đến chiều tối, vua chết.
1 Giô-sa-phát vua Giu-đa bình an trở về cung điện tại Giê-ru-sa-lem.
2 Tiên tri Giê-hu (con Ha-na-ni) đi ra nghênh đón vua, tâu: "Bệ hạ đi giúp kẻ gian ác và thương kẻ ghét Chúa Hằng Hữu sao? Vì đó, Chúa Hằng Hữu giáng cơn phẫn nộ trên bệ hạ.
3 Nhưng bệ hạ còn có lòng lành vì đã quét sạch các thần tượng A-sê-ra khỏi đất nước và chuyên tâm tìm kiếm Chúa Hằng Hữu."
4 Giô-sa-phát cứ ở tại Giê-ru-sa-lem một thời gian rồi đi kinh lý khắp cả nước từ Bê-e-sê-ba cho đến Ép-ra-im, dìu dắt họ quay về với Chân Thần là Thượng Đế Hằng Hữu của tổ phụ họ.
5 Vua bổ nhiệm các quan án tại các thành phố chiến lược khắp đất nước Giu-đa,
6 và bảo họ: "Hãy xét xử cẩn thận công minh, xét xử vì Chúa chứ không phải vì loài người. Ngài sẽ ở với các ngươi trong khi xét xử.
7 Vậy, các ngươi hãy kính sợ Chúa Hằng Hữu, thận trọng làm việc, vì Thượng Đế Hằng Hữu của chúng ta không dung túng bất công, thiên vị, tham nhũng!"
8 Giô-sa-phát cũng chọn một số người Lê-vi, thầy tế lễ và tộc trưởng trong dân để thiết lập tòa án tối cao tại kinh đô để xử đoán và phán quyết các vụ án. Vậy, họ đều về Giê-ru-sa-lem phục vụ.
9 Vua hiểu dụ các quan án này: "Các ngươi hãy kính sợ Chúa Hằng Hữu, phục vụ Ngài cách trung kiên với lòng thiện hảo.
10 Nếu có anh em đồng bào từ các thành phố đến thưa kiện hoặc vì vụ án mạng, một vụ kiện hình hay hộ, hoặc một vụ vi phạm giáo luật, thì các ngươi phải dạy họ đừng phạm tội với Chúa; nếu không Chúa sẽ nổi cơn phẫn nộ đoán phạt các ngươi và anh em các ngươi: làm như thế các ngươi sẽ khỏi mắc tội."
11 Vua bổ nhiệm thầy tế lễ tối cao A-ma-ria làm quan án tối cao về các vụ liên quan đến giáo luật và Sê-ba-đia con Ích-ma-ên lãnh tụ đại tộc Giu-đa, làm quan án tối cao về các vụ hình và hộ, và bổ nhiệm một số người Lê-vi làm phụ thẩm. Vua còn căn dặn thêm: "Các ngươi hãy can đảm hành động! Chúa Hằng Hữu luôn ở cùng người thiện hảo công minh."
1 Sau đó, dân Mô-áp và dân Am-môn kéo một số dân tộc khác đem quân tấn công Giô-sa-phát.
2 Có người đến báo cho vua biết một quân đội rất đông đảo từ bên kia Biển Chết và Sy-ri kéo đến tấn công; đạo tiền phong đã đến Ha-xa-xon tức là Ên-ghê-đi.
3 Giô-sa-phát sợ hãi, quyết định tìm kiếm Chúa, ra lệnh cho toàn dân trong nước nhịn ăn.
4 Toàn dân từ khắp các thành xứ Giu-đa đều tụ họp để cầu hỏi Chúa.
5 Giô-sa-phát đứng với hội chúng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trong Đền Thờ Chúa trước sân mới
6 và cầu nguyện: "Lạy Chúa Tự Hữu Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ phụ chúng con, Chúa không phải là Thượng Đế của cả vũ trụ sao? Phải, Chúa tể trị tất cả các vương quốc của các dân tộc. Tay Chúa đầy năng lực và sức mạnh, không ai chống cự nổi.
7 Chúa không phải là Thượng Đế của chúng con sao? Chúa đã tống đuổi dân cư xứ này trước mặt Y-sơ-ra-ên là dân Chúa, và vĩnh viễn ban đất nước này cho dòng dõi Áp-ra-ham, người được Chúa xem như bạn hữu.
8 Dân Chúa đã định cư tại đây và xây cất một Đền Thờ cho Danh Chúa.
9 Nếu tai họa đổ trên chúng con, hoặc chiến tranh, đoán phạt, dịch lệ hoặc đói kém, chúng con sẽ đứng trước Đền Thờ này và trước mặt Chúa vì Danh Chúa ở trong Đền Thờ - chúng con sẽ kêu cứu với Chúa trong cơn gian truân, thì Chúa sẽ nghe và cứu giúp chúng con.
10,11 Kìa, ngày nay dân Am-môn, dân Mô-áp và dân Sê-i-rơ đang kéo đến để đánh đuổi chúng con khỏi cơ nghiệp mà Ngài đã cho chúng con nhận lãnh. Ngày Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Chúa ngăn không cho dân Ngài tấn công các dân tộc ấy, nên dân Ngài tránh qua đường khác, chứ không tiêu diệt họ; thế mà ngày nay, họ trả ơn bằng cách tấn công chúng con!
12 Ôi, lạy Chân Thần của chúng con, Chúa không đoán phạt họ sao? Vì chúng con không có năng lực nào chống cự đoàn dân rất đông đảo này. Chúng con cũng không biết phải làm gì đây, nhưng mắt chúng con đều hướng về Chúa!"
13 Tất cả dân Giu-đa đều đứng trước mặt Chúa Hằng Hữu, với bầu đoàn thê tử, kể cả các ấu nhi.
14 Lúc ấy, Thần Chúa ngự xuống trên Gia-ha-xiên (con Xa-cha-ri, cháu Bê-na-gia, chắt Giê-yên, chít Ma-ta-nia, người Lê-vi, tộc A-sáp). Ông đang đứng giữa hội chúng.
15 Chúa phán qua Gia-ha-xiên: "Toàn dân Giu-đa, Giê-ru-sa-lem, và vua Giô-sa-phát, hãy nghe! Chúa Hằng hữu phán bảo các ngươi: 'Đừng khiếp sợ trước đoàn quân đông đảo này, vì đây là cuộc chiến tranh của Chúa, không phải của các ngươi.
16 Ngày mai, các ngươi hãy kéo quân xuống, vì địch sẽ tiến quân lên dốc Xích. Các ngươi sẽ gặp địch ở cuối thung lũng và đầu sa mạc Giê-ru-ên.
17 Trong trận này, các ngươi không phải chiến đấu, chỉ đóng quân và đứng xem sự giải cứu của Chúa Hằng Hữu. Dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, đừng sợ sệt, kinh hãi! Ngày mai, hãy xuất quân, Chúa Hằng Hữu sẽ ở với các ngươi!’”
18 Giô-sa-phát cúi mặt xuống đất; toàn dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem cũng phủ phục trước mặt Chúa.
19 Người Lê-vi thuộc tộc Kê-hát và Cô-rê đều nhất loạt đứng dậy, lớn tiếng hát vang ca ngợi Chúa.
20 Hôm sau, quân đội Giu-đa dậy sớm, tiến vào sa mạc Thê-cô-a. Khi xuất quân, vua Giô-sa-phát đứng điểm binh và kêu gọi: "Dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem! Hãy tin cậy Chúa Hằng Hữu, Chân Thần các ngươi! Hãy vững vàng, tín nhiệm các tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ thành công."
21 Vua tham khảo ý kiến dân và cử các ca sĩ hát mừng ca ngợi Chúa, là Đấng vinh quang thánh khiết. Ca đoàn kéo đi trước hàng ngũ quân đội và ca hát vang lừng: "Hãy cảm tạ Chúa Hằng Hữu vì sự thương xót Ngài còn đời đời!"
22 Đang khi họ hát vang ca ngợi, Chúa đặt quân phục kích quân Am-môn, Mô-áp và Sê-i-rơ.
23 Quân Am-môn và quân Mô-áp trở mặt tấn công quân Sê-i-rơ. Sau khi tiêu diệt quân Sê-i-rơ, họ trở lại đánh lẫn nhau và tiêu diệt nhau.
24 Quân đội Giu-đa tiến đến tháp canh trong sa mạc, nhìn về phía địch chỉ thấy vô số xác chết nằm la liệt khắp mặt đất, không một người nào sống sót.
25 Giô-sa-phát và dân Giu-đa tiến quân vào thu chiến lợi phẩm, gồm rất nhiều bảo vật và đồ trang sức trên xác quân địch. Họ lấy mang đi cho đến khi không còn mang nổi nữa. Trong ba ngày họ thu lượm vô số chiến lợi phẩm.
26 Ngày thứ tư, họ tập họp tại thung lũng Phúc Lành để ca ngợi Chúa Hằng Hữu (từ ngày đó thung lũng ấy mang tên Phúc Lành).
27 Sau đó họ kéo quân về. Giô-sa-phát dẫn đầu toàn dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem kéo về Giê-ru-sa-lem với niềm vui chiến thắng.
28 Họ diễn binh qua cổng thành với dàn nhạc thụ cầm, thất huyền cầm và kèn trận, tiến lên Đền Thờ Chúa.
29 Khi được nghe về cuộc chiến tranh của Ngài với các dân thù nghịch Y-sơ-ra-ên, dân các nước lân bang đều kính sợ Chúa.
30 Đất nước của Giô-sa-phát được hưởng thái bình vì Thượng Đế của vua cho dân an cư lạc nghiệp.
31 Giô-sa-phát được ba mươi lăm tuổi khi lên ngai, và trị vì nước Giu-đa hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua là con bà A-xu-ba (con gái của Si-hi).
32 Giô-sa-phát đi đúng đường lối của A-sa cha và làm điều công chính thiện lành trước mặt Chúa.
33 Chỉ có một điều là vua không phá vỡ các miếu trên các đỉnh đồi núi và dân chưa quyết tâm thờ phượng và phục vụ Chân Thần của tổ phụ họ.
34 Các công tác khác của vua Giô-sa-phát, từ đầu đến cuối, đều ghi chép trong tác phẩm của Giê-hu (con Ha-na-ni) được trích dẫn trong Sử Ký Các Vua Y-sơ-ra-ên.
35 Sau đó, Giô-sa-phát vua Giu-đa hợp tác với A-cha-xia vua Y-sơ-ra-ên trong một quyết định sai lầm tai hại.
36 Hai vua hợp tác đóng tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be để đi Ta-rê-si tìm vàng.
37 Ê-li-ê-se (con Đô-đa-va ở Ma-rê-sa) nói tiên tri lên án Giô-sa-phát: "Vì bệ hạ hợp tác với A-cha-xia, Chúa sẽ phá hỏng chương trình của bệ hạ!" Các chiếc tàu đều vỡ nát, không đi Ta-rê-si được.
1 Giô-sa-phát qua đời, được an táng với các tiên đế trong thành Đa-vít. Thái tử Giô-ram lên ngai kế vị cha.
2 Giô-ram có nhiều em là A-xa-ria, Giê-hi-ên, Xa-cha-ri, A-xa-ra, Mi-ca-ên và Sê-pha-tia.
3 Vua cha đã cho các hoàng tử này nhiều tặng phẩm bằng bạc, vàng, bảo vật, với các thành phố kiên cố trong nước Giu-đa, nhưng giao vương quyền cho Giô-ram vì là trưởng nam.
4 Vì muốn thống trị toàn vương quốc của cha và củng cố quyền hành, Giô-ram xử tử tất cả các em ruột mình cùng một số lãnh tụ Y-sơ-ra-ên.
5 Giô-ram được ba mươi hai tuổi khi lên ngai và trị vì tám năm tại Giê-ru-sa-lem.
6 Vua đi theo đường lối các vua Y-sơ-ra-ên thuộc gia tộc A-háp vì vua cưới con gái A-háp làm vợ, và làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu.
7 Tuy nhiên, Chúa không muốn tiêu diệt gia tộc Đa-vít, vì giao ước Ngài đã lập với Đa-vít, rằng 'Chúa sẽ dành một ngọn đèn cho người và dòng dõi người mãi mãi.'
8 Dưới triều vua Giô-ram, dân Ê-đôm nổi dậy chống Giu-đa và lập vua riêng của họ.
9 Giô-ram đến Ê-đôm cùng các tướng lãnh và các đoàn chiến xa. Người Ê-dôm bao vây Giô-ram và các tướng nhưng ban đêm người thức dậy phá vỡ vòng vây.
10 Tuy nhiên, cuộc nổi loạn của Ê-đôm thành công và Ê-đôm thoát ách thống trị của Giu-đa cho đến ngày nay. Lúc đó, Líp-na cũng phản nghịch với Giô-ram, vì vua đã lìa bỏ Chúa Hằng Hữu, là Chân Thần của tổ phụ mình.
11 Giô-ram cũng lập các miếu thờ thần trên các đỉnh đồi núi xứ Giu-đa, gây cho dân chúng kinh đô phạm tội gian dâm và kéo dân Giu-đa vào con đường sai lạc.
12 Nhà tiên tri Ê-li gửi thông điệp cho vua Giô-ram như sau: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Đa-vít tổ phụ của nhà vua, đã phán: 'Ngươi không đi theo đường lối của Giô-sa-phát thân phụ ngươi cũng chẳng đi theo đường lối của A-sa vua Giu-đa
13 nhưng lại đi theo đường lối của vua Y-sơ-ra-ên, xúi giục dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem phạm tội gian dâm như gia tộc A-háp. Hơn nữa, ngươi tàn sát các em ruột ngươi là những người tốt hơn ngươi.
14 Này, Chúa Hằng Hữu sẽ đổ tai họa lớn trên dân tộc ngươi, trên các con ngươi, trên các vợ ngươi, và trên tài sản ngươi.
15 Còn chính ngươi sẽ mắc bạo bệnh trong gan ruột, ngày càng trầm trọng cho đến khi gan ruột ngươi đứt rời ra.' "
16 Chúa lại thúc giục dân Phi-li-tin và dân Á-rập (ở gần nước Ê-ti-ô-bi) kéo quân tấn công Giô-ram,
17 chiếm đóng cả đất nước, cướp đoạt các tài sản trong cung điện, bắt các hoàng tử và các hoàng hậu điệu đi biệt tích, chỉ còn lại người con út là Giô-a-cha.
18 Sau hết, Chúa hành hạ Giô-ram, phạt vua bị bạo bệnh trong ruột, vô phương cứu chữa.
19 Ngày tháng trôi qua, bệnh càng trầm trọng; đến năm thứ nhì, ruột gan của Giô-ram đứt rời ra và vua qua đời trong một cơn đau khủng khiếp. Dân không xông thuốc thơm để ướp xác vua như họ đã làm cho các tiên đế.
20 Giô-ram được ba mươi hai tuổi khi lên ngai và trị vì tám năm tại Giê-ru-sa-lem. Khi vua qua đời, chẳng một người thương tiếc. Người ta an táng vua trong thành Đa-vít, nhưng bên ngoài khu lăng tẩm các vua.
1 Dân chúng kinh đô tôn hoàng tử A-cha-xia con út của Giô-ram lên ngai kế vị cha người, vì tất cả các hoàng tử khác đều đã bị tàn sát.
2 A-cha-xia được hai mươi hai tuổi khi lên ngai và cai trị một năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua là con thái hậu A-tha-li (con gái của Ôm-ri).
3 Vua đi theo đường lối của gia tộc A-háp, vì bị mẹ xúi giục làm điều ác.
4 Vua làm ác trước mặt Chúa, đúng như gia tộc A-háp đã làm, vì dòng họ A-háp làm cố vấn cho vua sau khi vua cha qua đời, để rồi đưa vua vào chỗ diệt vong.
5 Nghe theo lời họ khuyên, A-cha-xia kéo quân theo Giô-ram con A-háp vua Y-sơ-ra-ên để tấn công Ha-xa-ên vua Sy-ri tại Ra-mốt Ga-la-át. Bị thương trong trận đánh tại Ra-ma,
6 Giô-ram liền quay về Gít-rê-ên để chữa các vết thương. A-cha-xia con Giô-ram, vua Giu-đa xuống Gít-rê-ên thăm Giô-ram con A-háp.
7 Sự đoán phạt A-cha-xia đều do bàn tay Chúa an bài. Khi A-cha-xia đến thăm bệnh, vua cũng theo Giô-ram ra gặp Giê-hu (con Nim-si), là người Chúa đã xức dầu để tiêu diệt gia tộc A-háp.
8 Vì thế, khi thi hành án phạt nhà A-háp, Giê-hu cũng gặp các nhà lãnh đạo Giu-đa cùng các con trai, anh em và các đầy tớ của A-cha-xia; ông liền giết sạch những người này.
9 Giê-hu cũng cho tầm nã và bắt sống A-cha-xia, mặc dù vua trốn tại Sa-ma-ri. Người ta điệu A-cha-xia đến gặp Giê-hu. A-cha-xia bị xử tử nhưng được chôn cất tử tế vì họ bảo: "Nó là con trai của Giô-sa-phát, người hết lòng tìm kiếm Chúa." Khi A-cha-xia qua đời, trong hoàng tộc không còn người nào có đủ uy quyền để lên kế vị.
10 A-tha-li (mẹ của A-cha-xia) thấy con mình đã chết liền ra tay tàn sát tất cả dòng dõi vua Giu-đa.
11 Nhưng công chúa Giô-sê-bết (con gái A-cha-xia) đem giấu Giô-ách (con A-cha-xia) và cứu thoát khỏi số phận dành cho các hoàng tử. Công chúa giấu Giô-ách và người vú vào trong nhà kho phòng ngủ. Công chúa Giô-sê-bết (con A-cha-xia và là vợ thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa) giấu được Giô-ách, không cho A-tha-li tìm gặp và giết đi vì thương Giô-ách, em ruột mình.
12 Giô-ách trốn trong Đền Thờ Chúa và ở với gia đình thầy tế lễ suốt sáu năm; trong khi đó, A-tha-li cai trị đất nước Giu-đa.
1 Bảy năm sau, Giê-hô-gia-đa thu hết can đảm, đứng ra liên kết với năm sĩ quan: A-xa-ria con Giê-rô-ham, Ích-ma-ên con Giô-ha-nan, A-xa-ria con Ô-bết, Ma-a-xê-gia con A-đa-gia và Ê-li-sa-phát con Xích-ri.
2 Họ đi khắp đất Giu-đa, triệu tập cấp lãnh đạo người Lê-vi và các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem mật nghị.
3 Toàn thể hội nghị cam kết trung thành với hoàng tử đang ẩn náu tại Đền Thờ. Giê-hô-gia-đa tuyên bố: "Đã đến lúc hoàng tử lên ngôi trị vì, theo như lời Chúa phán về con cháu Đa-vít.
4 Đây là chương trình hoạt động: Trong số các thầy tế lễ và người Lê-vi đến phiên trực ngày Sa-bát, một phần ba có nhiệm vụ canh gác cổng thành,
5 một phần ba trấn giữ cung vua, và một phần ba đóng tại cổng Giê-sốt. Mọi người khác (mãn phiên trực) đều sẽ tập trung tại sân Đền Thờ Chúa.
6 Không ai được vào Đền Thờ, trừ các thầy tế lễ và người Lê-vi có công tác trong Đền, là những người đã được thánh hóa. Mỗi người phải tuân lệnh của Chúa Hằng Hữu!
7 Người Lê-vi phải nai nịt khí giới sẵn sàng để bảo vệ quanh vua, theo sát từng bước mỗi khi vua di chuyển. Ai đột nhập vào Đền Thờ sẽ bị giết ngay!"
8 Mọi người Lê-vi và Giu-đa đều vâng theo lệnh của Giê-hô-gia-đa. Các cấp lãnh đạo hướng dẫn anh em thuộc nhóm mình, nhóm trực ngày Sa-bát cũng như nhóm nghỉ việc ngày Sa-bát, vì Giê-hô-gia-đa không cho phép ai ra về.
9 Giê-hô-gia-đa lấy các giáo và khiên, cả nhỏ lẫn lớn, từ trong kho Đền Thờ ra phát cho các sĩ quan. Đây là khí giới của vua Đa-vít ngày trước.
10 Tất cả đều nai nịt khí giới sẵn sàng, đứng dài từ phía nam đến phía bắc Đền Thờ, quanh bàn thờ và Đền Thờ, để bảo vệ vua.
11 Giê-hô-gia-đa rước hoàng tử ra, đội vương miện lên đầu, trao bộ luật cho người, và tôn người làm vua. Giê-hô-gia-đa và các con mình xức dầu cho người. Tiếng tung hô "Vạn tuế" nổi vang dậy.
12 Khi A-tha-li nghe tiếng náo động - tiếng chân người chạy và tiếng chúc tụng, - bà vội vã qua Đền Thờ.
13 Thấy vua đứng trên bệ đặt gần cổng ra vào, cạnh vua có các sĩ quan và các nhạc sĩ thổi kèn; dân các nơi kéo đến, hân hoan trổi nhạc và ca hát dưới quyền điều khiển của các nhạc sĩ. Mọi người đều cùng nhau hoan ca chúc tụng. Thấy thế, A-tha-li xé áo kêu than: "Phản loạn! Phản loạn!"
14 Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa bảo các sĩ quan: "Giải bà ta ra ngoài, giết đi! Đừng giết tại đây, vì đây là Đền Thờ của Chúa. Kẻ nào đi theo cũng giết đi."
15 Họ giải bà đến cánh cửa dành cho ngựa ra vào hoàng cung, rồi hạ sát.
16 Giê-hô-gia-đa lập quốc ước với vua, với dân, cam kết cùng nhau phục vụ Chúa.
17 Sau đó, dân kéo đến miếu Ba-anh phá dỡ, đập bàn thờ và tượng Ba-anh tan nát, giết Ma-than, là thầy tế lễ của Ba-anh, trước bàn thờ tà thần.
18 Dựa theo chỉ thị của Đa-vít và việc cắt cử các chi tộc người Lê-vi phục vụ trong Đền Thờ, Giê-hô-gia-đa giao việc dâng tế lễ thiêu cho các thầy tế lễ đảm nhiệm, và họ thi hành đúng chỉ thị trong sách luật Mai-sen. Họ hân hoan ca hát trong lúc làm phận sự.
19 Giê-hô-gia-đa cũng đặt người gác cổng kiểm soát nghiêm nhặt, không cho những người ô uế vào Đền Thờ.
20 Ông hướng dẫn các sĩ quan, các nhân sĩ, các nhà lãnh đạo và toàn thể dân rước vua từ Đền Thờ qua cổng trên để vào hoàng cung. Họ đặt vua ngồi trên ngai. Toàn dân vui mừng, kinh thành trở nên an tĩnh sau khi A-tha-li chết.
1 Giô-ách lên ngôi lúc bảy tuổi và cai trị bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là bà Xi-bia, quê ở Bê-e-sê-ba.
2 Giô-ách làm điều thiện thẳng trước mặt Chúa trong suốt thời gian thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa còn sống.
3 Giê-hô-gia-đa cưới cho Giô-ách hai người vợ, họ sinh cho vua nhiều con trai, con gái.
4 Về sau, Giô-ách quyết định trùng tu Đền Thờ.
5 Vua họp các thầy tế lễ và người Lê-vi lại, bảo: "Các ông đi khắp các thành trong nước Giu-đa, thu thuế của dân, để có thể thực hiện chương trình tu bổ hàng năm. Các ông phải sớm xúc tiến việc này." Nhưng người Lê-vi cứ trì hoãn,
6 nên vua mời thầy tế lễ thượng phẩm Giê-hô-gia-đa vào, hỏi: "Sao ông không bảo người Lê-vi đi thu thuế các thành trong nước Giu-đa và Giê-ru-sa-lem? Mai-sen, đầy tớ Chúa có ấn định việc dân đóng góp cho nhà của Chúa phải không?"
7 (Trước đó, thuộc hạ của bà A-tha-li tà ác đã vơ vét Đền Thờ Thượng Đế, lấy các vật thánh đem hết qua miếu Ba-anh.)
8 Vua ra lệnh đóng một cái rương đặt bên ngoài cửa Đền Thờ Chúa.
9 Và truyền lệnh khắp nước Giu-đa, cả thành Giê-ru-sa-lem bảo mọi người phải đem nạp cho Chúa khoản thuế đã được Mai-sen, tôi tớ Thượng Đế, qui định từ ngày Y-sơ-ra-ên còn ở trong sa mạc.
10 Các nhà lãnh đạo và dân đều vui mừng đem tiền bỏ vào rương cho tới khi đầy.
11 Người Lê-vi đem rương tiền đến cho các viên chức nhà vua. Thư ký của vua và người của thầy tế lễ tối cao giữ lấy tiền, trả rương lại, và rương được đem đặt vào chỗ cũ. Cứ thế, ngày này qua ngày khác, người ta thu được vô số tiền bạc.
12 Vua và Giê-hô-gia-đa đem tiền ấy giao cho những người coi sóc Đền Thờ. Những người này mướn thợ nề, thợ mộc, thợ sắt và thợ đồng sửa chữa Đền Thờ Chúa.
13 Như vậy, công việc tiến hành; Đền Thờ Thượng Đế trở nên tốt đẹp, vững chắc như xưa.
14 Khi công cuộc tu bổ hoàn tất, người ta đem số tiền còn lại đến cho vua và Giê-hô-gia-đa, tiền này được dùng để sắm các dụng cụ trong Đền Thờ tức là những đĩa, bình bằng vàng và bằng bạc dùng vào việc tế lễ. Trọn đời Giê-hô-gia-đa, người ta liên tục dâng lễ thiêu trong Đền Thờ.
15 Giê-hô-gia-đa ngày càng già, rồi qua đời, thọ một trăm ba mươi tuổi.
16 Người ta chôn ông trong thành Đa-vít, nơi chôn các vua, vì ông có công với Y-sơ-ra-ên, phục vụ Thượng Đế và săn sóc Đền Thờ.
17 Sau khi Giê-hô-gia-đa qua đời, các nhà lãnh đạo Giu-đa đến xu nịnh nhà vua, và vua bắt đầu nghe lời họ,
18 bỏ bê Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ tiên mình, đi thờ các thần tượng ô nhục. Cơn giận của Thượng Đế nổi lên cùng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
19 Chúa sai các tiên tri đến để đem họ về với Ngài, nhưng họ không nghe.
20 Thần Linh Thượng Đế cảm động Xa-cha-ri, con thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Ông đứng trước dân, tuyên bố: "Thượng Đế hỏi tại sao đồng bào phạm các điều răn của Ngài? Đồng bào không thể nào thịnh đạt được. Đồng bào chối bỏ Chúa, bây giờ Ngài từ bỏ đồng bào."
21 Họ mưu hại ông, và khi được lệnh vua, họ lấy đá ném ông chết ngay trong sân Đền Thờ.
22 Như thế, Giô-ách không những quên ơn Giê-hô-gia-đa mà còn giết cả con của ân nhân. Lúc sắp chết, Xa-cha-ri nói: "Xin Chúa chứng giám và báo ứng cho."
23 Vào cuối năm ấy, quân Sy-ri kéo đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đánh quân Giô-ách, giết hết các nhà lãnh đạo Giu-đa, gửi chiến lợi phẩm về cho vua mình ở Đa-mách.
24 Chúa cho quân Sy-ri thắng, mặc dù quân số rất ít so với quân Giu-đa, vì người Giu-đa chối bỏ Chúa, Thượng Đế của tổ tiên họ. Như thế, Giô-ách bị Chúa hình phạt.
25 Quân Sy-ri bỏ đi, để lại Giô-ách thương tích nặng nề. Khi đang nằm trên giường bệnh, Giô-ách bị các tôi tớ ám sát, vì vua đã giết con của thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Người ta đem chôn vua trong thành Đa-vít, nhưng không phải trong lăng vua.
26 Những người âm mưu giết Giô-ách là Xa-bát con của bà Si-mê-át người Am-môn và Giô-xa-bát con của bà Sim-rít người Mô-áp.
27 Ngoài ra, sách Truyện Các Vua còn chép về các con Giô-ách, các lời tiên tri về số phận vua này, và về việc tu bổ Đền Thờ. Con Giô-ách là thái tử A-ma-xia lên ngôi kế vị.
1 A-ma-xia được hai mươi lăm tuổi lúc lên ngôi, và cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Giô-a-đan quê ở Giê-ru-sa-lem.
2 Vua làm điều thiện trước mặt Chúa nhưng không tận tình.
3 Khi đã nắm vững quyền hành trong tay, vua liền xử tử các kẻ đã ám sát cha;
4 nhưng không giết con cái của họ, vì vua tuân giữ lời Chúa được chép trong sách luật Mai-sen: "Cha sẽ không chết vì tội của con, con cũng không chết vì tội của cha. Ai có tội, người ấy chịu hình phạt."
5 A-ma-xia tập họp dân Giu-đa, chỉ định các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm người cho các gia tộc Giu-đa và Bên-gia-min; kiểm tra thanh niên từ hai mươi tuổi trở lên, chọn lọc ba trăm ngàn quân có tài sử dụng giáo và khiên.
6 Vua còn bỏ ra một trăm ta-lâng bạc để mướn một trăm ngàn người Y-sơ-ra-ên dũng cảm làm lính đánh thuê.
7 Nhưng có một người của Thượng Đế đến nói với A-ma-xia: "Đừng dùng lính Y-sơ-ra-ên, vì Chúa không giúp Y-sơ-ra-ên, không giúp Ép-ra-im.
8 "Nhưng nếu bệ hạ cứ kéo họ ra trận cho hùng hậu, Thượng Đế sẽ khiến quân thù đánh bại bệ hạ, vì Ngài có quyền cho thắng bại."
9 A-ma-xia hỏi người của Thượng Đế: "Nhưng còn số bạc tôi đã giao cho đoàn quân Y-sơ-ra-ên này thì sao?"
Người của Thượng Đế đáp: "Chúa có thể cho bệ hạ nhiều hơn số ấy!"
10 Nghe lời, A-ma-xia cho đạo quân người Y-sơ-ra-ên về Ép-ra-im. Họ trở về với lòng căm giận.
11,12 A-ma-xia lấy hết can đảm kéo quân đến thung lũng Muối. Tại đó, quân Giu-đa giết 10.000 nguời Sê-i-rơ; bắt 10.000 người khác, đem lên một mỏm núi, xô xuống cho nát thây.
13 Đoàn quân Y-sơ-ra-ên bị A-ma-xia sa thải về, tấn công một số thành Giu-đa nằm giữa đất Sa-ma-ri và Bết-hô-rôn, giết 3.000 người, cướp giật nhiều của cải.
14 Sau cuộc chém giết người Ê-đôm, A-ma-xia trở về, đem theo các thần của người Sê-i-rơ, lập lên làm thần mình, rồi thờ lạy, cúng tế.
15 Chúa nổi giận, sai một tiên tri đến hỏi A-ma-xia: "Tại sao ngươi đi cầu các thần không cứu nổi dân của nó khỏi chính tay ngươi?"
16 Vua ngắt lời: "Ta có bảo ngươi làm cố vấn cho ta đâu? Im đi, đừng buộc ta phải giết ngươi!"
Tiên tri im, nhưng rồi nói: "Tôi biết Thượng Đế quyết định diệt nhà vua vì đã phạm tội ấy, lại không chịu nghe lời tôi."
17 Sau đó, A-ma-xia nghe lời bàn của các cố vấn, tuyên chiến với vua Y-sơ-ra-ên là Giô-ách, con Giô-a-cha cháu Giê-hu.
18 Vua Giô-ách sai sứ nói với A-ma-xia: "Tại Li-ban, một cây gai sai mai mối tới nói với một cây bách hương: Gả con gái ngươi cho con trai ta đi! Lúc ấy có thú rừng đi qua, dẫm nát cây gai.
19 Ngươi kiêu căng, khoác lác về chiến thắng Ê-đôm. Nay ta khuyên ngươi chịu khó ở nhà, đừng gây họa cho chính mình và làm cho cả nước Giu-đa bị họa lây."
20 Nhưng A-ma-xia không nghe, vì Thượng Đế xếp đặt cho quân thù tiêu diệt vua, vì vua thờ các thần Ê-đôm.
21 Giô-ách kéo quân dàn trận đối diện quân A-ma-xia tại Bết-sê-mết, đất Giu-đa.
22 Giu-đa bại trận bỏ chạy.
23 Giô-ách bắt A-ma-xia (con Giô-ách, cháu Giô-a-cha) vua Giu-đa, giải về Giê-ru-sa-lem. Giô-ách còn phá đổ tường thành Giê-ru-sa-lem từ cổng Ép-ra-im đến cổng Góc, một đoạn dài 200 mét.
24 Giô-ách thu tóm vàng bạc, dụng cụ trong Đền Thờ, cùng với kho tàng hoàng cung Giu-đa, bắt con tin kể cả Ô-bết Ê-đôm, đem về Sa-ma-ri.
25 A-ma-xia vua Giu-đa còn sống mười lăm năm sau khi Giô-ách vua Y-sơ-ra-ên chết.
26 Tất cả những công việc khác của A-ma-xia đều được chép trong sách lịch sử "Các Vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên,"
27 từ việc A-ma-xia chối bỏ Chúa, đến vụ tổ chức phản loạn chống A-ma-xia tại Giê-ru-sa-lem. Trong vụ này, A-ma-xia chạy đến La-ki lánh nạn, nhưng người ta đuổi theo đến nơi, giết A-ma-xia chết.
28 Người ta dùng ngựa chở xác vua đem về chôn trong thành Đa-vít cùng với tổ tiên.
1 Dân Giu-đa tôn thái tử Ô-xia lên kế vị vua cha. Lúc ấy Ô-xia được mười sáu tuổi.
2 Sau khi vua cha an giấc với tổ tiên, Ô-xia xây Ê-lốt và khôi phục chủ quyền thành này cho Giu-đa.
3 Ô-xia làm vua năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là bà Giê-cô-lia, quê ở Giê-ru-sa-lem.
4 Vua làm điều thiện trước mặt Chúa, theo gương A-ma-xia, cha vua.
5 Vua tìm cầu Chân Thần suốt đời Xa-cha-ri, là người hiểu biết sâu sắc các khải tượng của Thượng Đế. Vua tìm cầu Thượng Đế bao lâu, Ngài cho vua thành công hưng thịnh bấy lâu.
6 Vua xuất quân đánh Phi-li-tin, hạ thành Gát, thành Giáp-nê và thành Ách-đốt. Vua xây các thành mới trên đất Ách-đốt và những nơi khác thuộc Phi-li-tin.
7 Thượng Đế giúp vua, không những trong cuộc chiến tranh với người Phi-li-tin, nhưng cả trong cuộc chiến tranh với người Á-rạp tại Gu-rơ Ba-anh và với người Ma-ôn.
8 Người Am-môn phải nạp cống cho Ô-xia. Danh tiếng vua lan đến tận Ai Cập, vì vua rất hùng cường.
9 Ô-xia xây các tháp kiên cố quanh Giê-ru-sa-lem tại cửa Góc, cửa Thung lũng và tại các nơi tường thành uốn quanh.
10 Vua cũng xây tháp canh trong miền hoang dã, đào nhiều giếng dưới thung lũng và trong đồng bằng vì vua có nhiều súc vật. Vua chuộng việc canh tác đất đai, nên nuôi nhiều nông phu và người trồng nho trên các đồi núi và vùng phì nhiêu.
11 Các chiến sĩ của Ô-xia được tổ chức thành đội ngũ, họ được bí thư Giê-hi-ên và người phụ tá Ma-a-xê-gia tuyển mộ, và được đặt dưới quyền tư lệnh của Ha-na-nia.
12 Có 2.600 trưởng tộc, toàn là người mạnh bạo, chỉ huy các đội ngũ này.
13 Quân số lên đến 307.500 người, toàn quân thiện chiến.
14 Ô-xia sắm đủ khiên, giáo, nón trận, giáp, cung và ná bắn đá cho quân mình.
15 Tại Giê-ru-sa-lem, Ô-xia cho chế máy móc do những bậc kỳ tài phát minh. Các máy này có thể bắn tên và đá lớn từ các tháp và các góc thành. Danh tiếng vua đồn khắp nơi, vì vua được Thượng Đế giúp đỡ cách phi thường, cho đến mức cường thịnh.
16 Nhưng khi được cường thịnh, Ô-xia trở nên kiêu căng, bại hoại. Vua phạm tội với Chúa, Thượng Đế mình, vì tự tiện đi vào Đền Thờ, dâng hương trên bàn thờ.
17,18 Thầy tế lễ A-xa-ria đem theo tám mươi thầy tế lễ can đảm, theo Ô-xia vào Đền Thờ để phản đối: "Việc xông hương cho Chúa không phải việc của vua, nhưng là việc của các thầy tế lễ con cháu A-rôn đã được biệt cử vào chức vụ này. Bệ hạ phải ra khỏi Nơi Thánh này ngay. Bệ hạ đã phạm tội, Chúa sẽ không cho bệ hạ vẻ vang vì việc này đâu."
19 Lúc ấy tay đang cầm bình hương, Ô-xia nổi giận với các thầy tế lễ. Lập tức, phung nổi trắng trên trán vua, ngay trước mặt các thầy tế lễ, lúc vua đang đứng bên bàn thờ xông hương trong Đền Thờ.
20 Khi thầy tế lễ tối cao A-xa-ria và các thầy tế lễ khác thấy thế, vội đuổi Ô-xia ra, trong khi chính vua cũng tất tả đi ra vì bị Chúa trừng trị.
21 Vua Ô-xia tiếp tục mang bệnh phung cho đến ngày chết, phải sống cách biệt với mọi người, bị cấm vào Đền Thờ Chúa. Thái tử Giô-tham đứng ra lo việc triều chính.
22 Tiên tri Ê-sa, con A-mốt có ghi lại tất cả các công việc của Ô-xia từ đầu đến cuối.
23 Ô-xia an giấc với tổ tiên, được chôn trong nghĩa trang hoàng gia, dù vua có bệnh phung. Thái tử Giô-tham lên ngôi kế vị.
1 Giô-tham được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi, và trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua là con của hoàng hậu Giê-ru-sa (con Sa-đốc).
2 Giô-tham làm điều thiện trước mặt Chúa Hằng Hữu giống như Ô-xia thân phụ mình. Vua không dám vào Đền Thờ như vua cha, tuy nhiên, tình trạng dân vẫn còn suy đồi.
3 Vua xây cất cổng trên của Đền Thờ Chúa và nhiều công sự trên tường thành Ô-phên.
4 Vua cũng xây nhiều thành phố trong miền đồi núi Giu-đa, với những đồn lũy và tháp trên rừng.
5 Giô-tham tuyên chiến với vua nước Am-môn và chiến thắng. Trong năm ấy, dân Am-môn phải cống thuế cho vua 100 ta-lâng bạc, 2.400.000 lít lúa miến, 2.400.000 lít lúa mạch và liên tiếp hai năm sau cũng tiến cống đủ số phẩm vật ấy.
6 Vậy, Giô-tham rất cường thịnh, vì vua theo đường chính trực trước mặt Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của mình.
7 Các công việc khác của Giô-tham, các cuộc chiến tranh và chính sách cai trị đều được ghi vào lịch sử các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
8 Lên ngôi lúc 25 tuổi và cai trị 16 năm tại Giê-ru-sa-lem,
9 Giô-tham qua đời và được an táng trong thành Đa-vít. A-cha con Giô-tham lên ngôi kế vị.
1 A-cha được hai mươi tuổi khi lên ngôi, và trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua không làm điều thiện như Đa-vít tổ phụ mình,
2 nhưng bắt chước các vua Y-sơ-ra-ên đúc tượng Ba-anh để thờ lạy,
3 dâng hương cho tà thần trong trũng 'Con trai Hi-nôn' và thiêu sống các con trai mình để tế thần, giống như thói tục ghê tởm của các dân tộc mà Chúa Hằng Hữu đã trục xuất trước mắt Y-sơ-ra-ên ngày trước.
4 Vua cũng dâng hương và sinh tế tại các miếu trên các đỉnh đồi và dưới gốc cây xanh.
5 Vì thế, Thượng Đế Hằng Hữu bỏ mặc A-cha cho quân đội Sy-ri đánh bại, bắt đi rất nhiều tù binh và thường dân, giải qua Đa-mách, kinh đô nước Sy-ri. Chúa cũng phó A-cha vào tay Phê-ca vua Y-sơ-ra-ên, khiến A-cha thất trận nặng nề,
6 trong một ngày có đến 120.000 dũng sĩ của A-cha tử trận. Lý do chỉ vì dân chúng đã lìa bỏ Thượng Đế Hằng Hữu của tổ phụ họ.
7 Tướng Y-sơ-ra-ên là Xiếc-ri (người Ép-ra-im) giết được hoàng tử Ma-a-xê-gia, tể tướng Ên-ca-na và thượng thư A-ri-kham quản đốc hoàng cung.
8 Quân đội Y-sơ-ra-ên còn bắt đi 200.000 người Giu-đa, kể cả đàn bà, trẻ con và cướp rất nhiều của cải, đem về Sa-ma-ri, kinh đô Y-sơ-ra-ên.
9 Khi quân đội Y-sơ-ra-ên kéo về đến Sa-ma-ri, Ô-đết, một nhà tiên tri của Chúa Hằng Hữu, ra đón và cảnh cáo: "Kìa, Thượng Đế Hằng Hữu của tổ phụ các ngươi đã nổi giận cùng dân Giu-đa, nên Ngài đã phó họ vào tay các ngươi. Trong cơn giận quá độ, các ngươi đã tàn sát họ đến nỗi tiếng kêu van thấu trời!
10 Thế mà các ngươi còn định bắt người Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem làm nô lệ sao? Chính các ngươi lại không phạm tội cùng Thượng Đế Hằng Hữu các ngươi hay sao?
11 Vậy bây giờ, hãy nghe lời ta mà phóng thích tất cả các tù nhân đó, là đồng bào chúng ta, vì Chúa Hằng Hữu đã nổi cơn phẫn nộ vì việc ác của các ngươi!"
12 Lúc ấy, cũng có bốn nhà lãnh đạo người Ép-ra-im đồng tâm chống đối đạo binh tàn ác đó. Đó là A-xa-ria (con Giê-ha-nan), Bê-rê-kia (con Mê-si-lê-mốt), Ê-xê-chia (con Sa-lum) và A-ma-sa (con Hát-lai).
13 Họ ra lệnh: "Đừng đem tù nhân vào đây! Vì các ngươi định làm việc ác, gây cho dân tộc chúng ta phạm tội với Chúa, cộng thêm vào số tội ác đã quá nhiều của chúng ta, chọc Chúa nổi giận cùng dân ta!"
14 Quân sĩ liền phóng thích các tù nhân và bỏ lại các của cải họ đã cướp giật trước mặt các nhà lãnh đạo và dân.
15 Bốn nhà lãnh đạo ấy liền đứng dậy, dẫn các tù nhân ra lấy áo quần trong đống đồ cướp giật, mặc lại cho những kẻ trần truồng, mang giày vào chân họ, đãi các tù nhân ăn uống, xức dầu các vết thương, cho những người yếu đuối cỡi lừa, rồi đưa họ về nước đến tận Giê-ri-cô (thành Cây Chà Là). Sau đó các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên mới quay về Sa-ma-ri.
16 Lúc ấy, vua A-cha sai sứ thần cầu cứu với vua A-si-ri,
17 vì quân Ê-đôm lại xâm lăng đất Giu-đa và bắt một số dân đem về nước.
18 Quân đội Phi-li-tin cũng tràn ngập các thành phố miền đồng bằng và nam bộ Giu-đa, chiếm đóng Bết-sê-mết, A-gia-long, Ghê-đê-rốt, Sô-cô và vùng phụ cận, Ghim-xô và vùng phụ cận, rồi cho dân Phi-li-tin đến định cư tại các nơi đó.
19 Vì tội ác của chính A-cha, và vì A-cha xúi giục dân sống phóng đãng và phạm tội nặng nề, nghịch với Chúa nên Ngài hạ nhục dân Giu-đa.
20 Nghe A-cha cầu cứu, Tiếc-lát Phi-nê-se vua A-si-ri đã chẳng thương tình, lại còn đến áp bức thêm nữa.
21 A-cha thấy thế, lại thu góp các bảo vật trong Đền Thờ Chúa, trong cung điện, và trong nhà các cấp lãnh đạo, làm lễ vật cống hiến cho vua A-si-ri, nhưng vua này cũng chẳng chịu tiếp cứu.
22 Trong cảnh hoạn nạn, vua A-cha lại càng phạm tội thêm,
23 cúng tế các tà thần của dân Sy-ri ở Đa-mách, là những kẻ đã chiến thắng vua. Vua lập luận rằng: "Các thần ấy phù hộ vua Sy-ri nên một khi được ta cúng tế, các thần ấy cũng sẽ phù hộ ta!" Tuy nhiên, chính vì các tà thần ấy mà cả vua lẫn Y-sơ-ra-ên đều vấp ngã, thất bại.
24 A-cha lại còn thu nhặt các khí cụ thờ phượng trong Đền Thờ Chân Thần, đập nát ra và đóng cửa Đền Thờ, rồi đi lập những bàn thờ cho các tà thần khắp các góc đường thủ đô.
25 Trong mỗi thành phố Giu-đa, vua cũng xây các đài cao để dâng hương cho các tà thần, và chọc giận Thượng Đế Hằng Hữu của tổ phụ mình.
26 Các chi tiết khác về cuộc đời và hoạt động của vua A-cha đều đã ghi vào lịch sử các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
27 A-cha qua đời và được an táng tại Giê-ru-sa-lem, nhưng ở ngoài khu lăng tẩm các vua. Thái tử Ê-xê-chia lên ngôi trị vì.
1 Ê-xê-chia được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi, và trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua là con của hoàng hậu A-bi-gia (con gái Xa-cha-ri).
2 Vua làm điều thiện trước mặt Chúa, giống như Đa-vít tổ phụ mình.
3 Vừa lên ngôi, vào tháng giêng năm thứ nhất triều Ê-xê-chia, vua cho mở các cửa Đền Thờ Chúa và sửa chữa lại.
4 Vua triệu tập các thầy tế lễ và người Lê-vi tại công trường phía đông kinh đô
5 và khích lệ: "Các tôi tớ Chúa, hãy nghe ta. Hãy thánh hóa bản thân và thánh hóa Nhà Chúa, là Chân Thần của tổ phụ chúng ta! Hãy tống khứ những gì ô uế trong Đền Thánh.
6 Vì tổ phụ chúng ta đã phạm tội, phản phúc Chúa Hằng Hữu Chân Thần chúng ta, xây lưng lại Đền Thờ của Chúa.
7 Họ cũng đóng cổng Đền Thờ, tắt đèn, ngưng dâng hương và ngưng dâng tế lễ thiêu trong Nơi Thánh của Chân Thần Y-sơ-ra-ên.
8 Cơn phẫn nộ của Chúa Hằng Hữu đổ xuống trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, và Ngài khiến dân ta bị người ta ghê tởm và khinh bỉ, như các ông đang thấy tận mắt.
9 Kìa, ông cha chúng ta ngã chết vì gươm quân thù; vợ và con trai, con gái chúng ta bị bắt đi làm tù cho giặc.
10 Nay, với tấm lòng thành, ta muốn lập giao ước với Chúa Hằng Hữu, Chân Thần của Y-sơ-ra-ên, để cơn phẫn nộ Ngài xây khỏi chúng ta.
11 Các con ơi, đừng khinh xuất, vì Chúa Hằng Hữu đã chọn các con để đứng chầu trước mặt Ngài, phụng sự Ngài, hầu việc Ngài, dâng hương cho Ngài."
12 Các người Lê-vi đều đứng dậy: tộc Kê-hát có Ma-hát (con A-ma-sai) và Giô-ên (con A-sa-ria); tộc Mê-ra-ri có Kích (con Áp-đi) và A-xa-ria (con Giê-ha-lê-le); tộc Ghẹt-sôn có Giô-a (con Xim-ma) và Ê-đen (con Giô-a);
13 tộc Ê-li-sa-phan có Sim-ri và Giê-i-ên; tộc A-sáp có Xa-cha-ri và Ma-tha-nia;
14 tộc Hê-man có Giê-hi-ên và Si-mê-i; tộc Giê-đu-thun có Sê-ma-gia và U-xi-ên.
15 Họ tập họp anh em mình, dọn mình ra thánh rồi vâng lệnh vua và Chúa Hằng Hữu đi thanh tẩy Đền Thờ Chúa.
16 Các thầy tế lễ cũng vào bên trong Đền Thờ Chúa, dọn cho sạch sẽ, bỏ ra ngoài hành lang tất cả những vật ô uế trong Đền Thờ Chúa. Người Lê-vi lượm các vật đó đem quăng xuống suối Kít-rôn.
17 Ngày mồng một tháng giêng, họ bắt đầu thanh tẩy Đền Thờ, ngày mồng tám ra đến sân ngoài; đến ngày mười sáu thì xong công việc.
18 Sau đó họ vào cung điện của Ê-xê-chia báo cáo: "Chúng tôi đã thanh tẩy cả Đền Thờ Chúa, bàn thờ tế lễ thiêu và các đồ phụ tùng, bàn bánh trần thiết và các đồ phụ tùng.
19 Những khí cụ vua A-cha đã bỏ lúc vua phản bội Chúa, chúng tôi đều tìm lại được, tẩy uế và xếp đặt ngăn nắp trước bàn thờ Chúa."
20 Vua Ê-xê -chia dậy sớm, tập họp các nhà lãnh đạo trong thành phố Giê-ru-sa-lem và vùng phụ cận lên Đền Thờ.
21 Họ đem theo bảy bò đực, bảy cừu đực, bảy cừu con, và bảy dê đực dâng tế lễ chuộc tội cho vương quốc, cho Đền Thờ và cho dân tộc. Vua bảo các thầy tế lễ, dòng dõi A-rôn, dâng các sinh tế ấy trên bàn thờ Chúa.
22 Vậy, họ giết bò và các thầy tế lễ lấy máu rảy trên bàn thờ. Họ cũng giết cừu đực và cừu con rồi rảy máu trên bàn thờ.
23 Họ đem các dê đực làm sinh tế chuộc tội đến trước mặt vua và hội chúng để những người này đặt tay trên chúng.
24 Các thầy tế lễ giết dê để dâng tế lễ chuộc tội cho toàn Y-sơ-ra-ên, đổ huyết trên bàn thờ, vì vua đã tuyên bố: "Tế lễ thiêu và tế lễ chuộc tội được dâng lên cho toàn Y-sơ-ra-ên."
25 Vua tổ chức các người Lê-vi trong Đền Thờ thành một dàn nhạc, dùng chập chỏa, thụ cầm và thất huyền cầm, đúng theo lệnh của Đa-vít, theo chỉ thị Chúa đã truyền qua nhà tiên kiến Gát và nhà tiên tri Na-than thời Đa-vít.
26 Các người Lê-vi sử dụng các nhạc khí của Đa-vít, còn các thầy tế lễ thổi kèn.
27 Vua Ê-xê-chia ra lệnh dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ. Cuộc tế lễ vừa bắt đầu thì ban hát trổi giọng tôn vinh Chúa và dàn nhạc dùng cả đàn lẫn kèn họa theo.
28 Suốt giờ dâng tế lễ thiêu, cả hội chúng đều thờ lạy Chúa trong khi tiếng ca hát vang lừng theo điệu kèn.
29 Tế lễ xong, vua và mọi người quanh vua đều cúi đầu thờ lạy Chúa.
30 Vua Ê-xê-chia và các nhà lãnh đạo đã bảo người Lê-vi hát các bài ca của Đa-vít và A-sáp (nhà tiên kiến) để tôn vinh Chúa. Ban hợp ca hân hoan ca hát rồi cúi đầu thờ lạy Chúa.
31 Ê-xê-chia dặn bảo: "Các ngươi đã dọn mình nên thánh cho Chúa, vậy hãy đem các sinh tế và lễ vật cảm tạ vào Đền Thờ Chúa!" Hội chúng bèn dẫn các sinh tế và đem các lễ vật cảm tạ đến. Cũng có những người tình nguyện dâng các tế lễ thiêu.
32 Hội chúng đem đến bảy mươi bò đực, một trăm cừu đực và hai trăm cừu con dâng tế lễ thiêu cho Chúa.
33 Ngoài ra còn có sáu trăm bò đực và ba ngàn cừu được dâng làm tặng phẩm.
34 Tuy nhiên, số thầy tế lễ còn ít, không làm kịp các sinh tế, nên người Lê-vi phải giúp họ một tay cho đến khi hoàn tất và đến khi có thêm số thầy tế lễ dọn mình nên thánh (vì trong việc dọn mình nên thánh, người Lê-vi hăng hái hơn các thầy tế lễ).
35 Cũng có nhiều tế lễ thiêu, mỡ tế lễ bình an, các lễ quán dâng kèm theo mỗi tế lễ thiêu. Vậy, các chức việc trong Nhà Chúa được tái lập.
36 Ê-xê-chia và toàn dân đều vui mừng vì những điều Thượng Đế đã làm và vì mọi việc được hoàn tất cách nhanh chóng.
1 Ê-xê-chia gửi thông điệp cho dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên (kể cả người Ép-ra-im và Ma-na-se) triệu tập họ đến Đền Thờ Chúa tại Giê-ru-sa-lem để giữ lễ Vượt Qua cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên.
2 Vua và các nhà lãnh đạo cùng dân chúng thủ đô bàn định giữ lễ Vượt Qua vào tháng hai.
3 Lý do là trong tháng giêng, số các thầy tế lễ dọn mình nên thánh còn ít quá và dân cũng không về kịp để dự lễ.
4 Sau khi đồng ý ấn định ngày cử hành lễ,
5 họ ra thông cáo khắp Y-sơ-ra-ên, từ Đan đến Bê-e-sê-ba, mời toàn dân về Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua của Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên. Từ nhiều năm qua, dân toàn quốc không về giữ lễ Vượt Qua tại Giê-ru-sa-lem như luật pháp đã ghi, chỉ có một số ít người giữ lễ ấy.
6 Các sứ giả đem thông điệp này của vua Ê-xê-chia và các nhà lãnh đạo cho cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa: "Toàn Y-sơ-ra-ên! Hãy quay về với Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, Chân Thần của Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên! Chúa sẽ đem về nước các đồng bào ta còn sống sót sau cuộc lưu đày của vua nước A-sy-ri.
7 Đừng theo vết xe đổ của tổ phụ và anh em mình mà phản nghịch Chúa Hằng Hữu của tổ phụ ta, để rồi Ngài hình phạt, khiến mọi người ghê sợ.
8 Bây giờ, đừng ngoan cố như người xưa. Hãy đưa tay hướng về Chúa. Hãy về Đền Thờ mà Chúa đã vĩnh viễn thánh hóa. Hãy phụng sự Chân Thần Hằng Hữu của đồng bào, thì cơn phẫn nộ đáng sợ của Ngài sẽ xây khỏi chúng ta.
9 Vì khi đồng bào quay về với Chúa, anh em và con cái đồng bào sẽ được quân thù thương xót và cho hồi hương. Vì Thượng Đế Hằng Hữu của chúng ta đầy nhân từ và thương xót, Ngài sẽ không ngoảnh mặt khỏi chúng ta nếu chúng ta quay về với Ngài!"
10 Các sứ giả chạy từ thành này qua thành khác, đi khắp xứ Ép-ra-im, Ma-na-se và Sa-bu-luân. Dân chúng chế giễu, cười nhạo họ.
11 Tuy nhiên, một số người trong các đại tộc A-se, Ma-na-se và Sa-bu-luân hạ mình xuống và lên Giê-ru-sa-lem.
12 Khắp nước Giu-đa, Chúa khiến dân đồng tâm vâng lệnh của vua và các nhà lãnh đạo, quyết định quay về với Chúa Hằng Hữu.
13 Một đoàn dân rất đông đảo tập họp tại Giê-ru-sa-lem để giữ lễ Bánh Không Men vào tháng hai.
14 Họ sốt sắng ra tay tháo gỡ các bàn thờ tế lễ và bàn thờ dâng hương cho các tà thần tại Giê-ru-sa-lem, và đem bỏ dưới suối Kít-rôn.
15 Họ giết con sinh lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng hai. Các thầy tế lễ và người Lê-vi thấy lòng sốt sắng của dân, cũng phải tự thẹn. Họ liền biệt mình nên thánh và đem các tế lễ thiêu vào Đền Thờ Chúa.
16 Mỗi thầy tế lễ và người Lê-vi đều thi hành nhiệm vụ đã phân công cho mình theo luật pháp Mai-sen, người của Chúa. Các người Lê-vi bưng huyết cho các thầy tế lễ rảy như luật định.
17 Trong dân chúng, có một số người chưa dọn mình thánh sạch nên người Lê-vi phải dâng một sinh tế Vượt Qua cho mỗi người chưa dọn mình, để thánh hóa họ cho Chúa.
18 Nhận thấy trong đoàn dân - nhất là người Ép-ra-im, Ma-na-se, Y-sa-ca và Sa-bu-luân - có nhiều người chưa dọn mình thánh sạch lại ăn lễ Vượt Qua trái luật định, vua Ê-xê-chia liền cầu thay cho họ:
19 "Cầu Chúa Hằng Hữu là Đấng nhân từ tha tội cho những người có lòng tìm kiếm Thượng Đế Hằng Hữu là Chân Thần của tổ phụ họ, mặc dù họ chưa kịp tẩy uế theo luật định!"
20 Chúa nhậm lời cầu nguyện của Ê-xê-chia và không hình phạt họ.
21 Y-sơ-ra-ên ở tại thủ đô Giê-ru-sa-lem giữ lễ Bánh Không Men suốt bảy ngày cách hân hoan. Ngày nào các thầy tế lễ và người Lê-vi cũng hòa nhạc và ca hát tôn vinh Chúa.
22 Ê-xê-chia khích lệ và khen ngợi các người Lê-vi tỏ ra thông thạo các lễ nghi thờ phượng. Họ ăn lễ suốt bảy ngày, dâng các tế lễ bình an, và cảm tạ Thượng Đế Hằng Hữu, Chân Thần của tổ phụ mình.
23 Cả hội chúng quyết định cử hành lễ thêm bảy ngày nữa. Tất cả đều hân hoan giữ lễ.
24 Vua Ê-xê-chia ban tặng cho hội chúng 1.000 bò đực và 7.000 cừu. Các nhà lãnh đạo cũng tặng thêm 1.000 bò đực và 10.000 cừu. Số thầy tế lễ dọn mình thánh sạch cũng tăng lên đông đảo.
25 Cả hội chúng Giu-đa (với các thầy tế lễ và người Lê-vi), hội chúng Y-sơ-ra-ên và các người nước ngoài kiều ngụ ở Giu-đa và Y-sơ-ra-ên
26 đều vô cùng hân hoan trong ngày đại lễ tại Giê-ru-sa-lem. Vì từ đời Sa-lô-môn (con Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên) đến nay, chưa từng có quốc lễ nào vĩ đại và đầy ý nghĩa như thế.
27 Các thầy tế lễ và người Lê-vi đứng dậy chúc phúc lành cho dân. Chúa lắng nghe tiếng họ và lời cầu nguyện của họ lên thấu trời, vào Nơi Thánh Chúa ngự.
1 Xong lễ Vượt Qua, tất cả Y-sơ-ra-ên có mặt tại Giê-ru-sa-lem đều kéo ra các thành phố Giu-đa đập phá các trụ thờ, các thần tượng A-sê-ra và các miếu tà thần trên các đỉnh đồi khắp xứ Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se. Sau khi hoàn tất công việc đó, mỗi người trở về nhà mình.
2 Ê-xê-chia tổ chức các thầy tế lễ và người Lê-vi thành những phân ban để lo việc dâng tế lễ thiêu và tế lễ bình an, và lo việc thờ phượng, cảm tạ, và ca ngợi Chúa tại các cổng Đền Thờ Chúa.
3 Vua cũng ấn định số lượng tài sản vua dâng vào việc tế lễ hằng ngày trong Đền Thờ, như các tế lễ thiêu dâng buổi sáng và buổi chiều; dâng ngày lễ cuối tuần, ngày trăng mới và các ngày lễ lớn, như luật pháp Chúa đã ghi.
4 Vua cũng bảo dân chúng thủ đô dâng hiến phần mười cho các thầy tế lễ và người Lê-vi, để họ đủ sống mà mạnh tiến trên con đường phục vụ Chúa như lời Chúa đã dạy.
5 Được lệnh vua, Y-sơ-ra-ên liền đem dâng rất nhiều nông sản đầu mùa, ngũ cốc, rượu, dầu, mật và các sản phẩm khác. Họ cũng dâng rất dồi dào phần mười mọi lợi tức.
6 Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, cùng những người ở khắp các thành phố Giu-đa, cũng dâng phần mười về các bầy bò, bầy cừu và phần mười các phẩm vật biệt riêng ra thánh cho Chúa Hằng Hữu, là Thượng Đế của họ. Các phẩm vật ấy được chất thành từng đống.
7 Họ bắt đầu đem phẩm vật đến đóng từ tháng ba, mãi đến tháng bảy mới xong.
8 Vua Ê-xê-chia và các nhà lãnh đạo vào Đền Thờ, thấy các đống phẩm vật ấy, bèn ca ngợi Chúa và chúc phước cho dân Ngài.
9 Ê-xê-chia hỏi các thầy tế lễ và người Lê-vi về các đống phẩm vật.
10 Thầy tế lễ tối cao A-xa-ria, thuộc họ Xa-đốc, tâu rằng: "Từ khi dân bắt đầu dâng lễ vật vào Đền Thờ Chúa, chẳng những chúng tôi đủ ăn mà cũng còn dư lại rất nhiều, vì Chúa đã ban phước dồi dào cho dân. Đây là đống phẩm vật còn thừa!"
11 Ê-xê-chia ra lệnh xây các phòng quanh Đền Thờ Chúa,
12 để làm kho chứa các lễ vật, phần mười, và các vật thánh. Họ trung tín tàng trữ các phẩm vật ấy. Cô-na-nia (người Lê-vi) được cử làm quản đốc kho tàng. Em ông là Si-mê-i làm phó quản đốc.
13 Ban quản đốc cũng gồm các phụ tá: Giê-hi-ên, A-ra-ria, Na-hát, A-sa-ên, Giê-ri-mốt, Giô-sa-bát, Ê-li-ên, Gít-ma-kia, Ma-hát và Bê-na-gia. Những nhân viên này đều do vua Ê-xê-chia bổ nhiệm và đặt dưới quyền lãnh đạo của thầy tế lễ tối cao A-xa-ria.
14,15 Cô-rê (con Im-na, người Lê-vi), người gác cổng đông Đền Thờ, được cử làm trưởng ban phân phối các lễ vật lạc hiến và các phẩm vật chí thánh cho các thầy tế lễ. Cô-rê có các phụ tá trung tín là Ê-đen, Min-gia-min, Giê-sua, Sê-ma-gia, A-ma-ria và Sê-ca-nia. Họ phân chia công bằng các lễ vật ấy cho các thầy tế lễ cư ngụ tại các thành phố dành riêng cho họ, người lớn hay nhỏ đều có phần.
16 Tuy nhiên, các thầy tế lễ đang phục vụ tại Đền Thờ và gia đình của họ được cấp phát trực tiếp tại Đền Thờ.
17,18 Các thầy tế lễ được đăng ký vào gia phả theo từng tộc họ. Mỗi người Lê-vi trên hai mươi tuổi được ghi danh theo từng ban. Thực phẩm được phân phát đều đặn cho tất cả các gia đình thầy tế lễ đã đăng ký, vì họ không có nguồn lợi tức nào khác; tất cả thì giờ năng lực họ đều tập trung vào sự phục vụ trong Đền Thờ.
19 Trong mỗi thành phố dành cho các thầy tế lễ, một thầy được cử lên để đặc trách phân phối thực phẩm và vật dụng cho tất cả các thầy tế lễ và người Lê-vi đăng ký trong khu vực đó.
20 Vua Ê-xê-chia giải quyết thỏa đáng các vấn đề trong cả nước Giu-đa cách công minh chân thật trước mặt Chúa.
21 Trong tất cả các công tác, từ việc phân công phối trí việc phục vụ trong Đền Thờ Chúa, đến các vấn đề pháp luật, điều răn, vua đều hết lòng tìm cầu Chúa, nên được thành công mỹ mãn.
1 Sau khi Ê-xê-chia hoàn tất các công tác tốt đẹp đó, San-chê-ríp, hoàng đế A-sy-ri, xâm lăng nước Giu-đa và bao vây các thành phố kiên cố nhằm mục đích tiến chiếm tất cả.
2 Nhận thấy San-chê-ríp đem quân chuẩn bị tấn công vào Giê-ru-sa-lem,
3 Ê-xê-chia liền triệu tập hội nghị quân sự gồm các lãnh tụ và các tướng lãnh. Họ quyết định bít các ngọn suối bên ngoài kinh đô.
4 Dân nhiệt liệt ủng hộ kế hoạch chận các khe suối chảy xuống các đồng bằng. "Tội gì mà cung cấp nước uống dồi dào cho vua A-sy-ri!" Dân bảo nhau như thế.
5 Vua Ê-xê-chia củng cố thành lũy, tu bổ những khúc đổ nát, kiến thiết thêm các công sự phòng thủ và xây thêm một vòng đai bọc quanh kinh thành. Vua cũng tăng cường đồn lũy Mi-lô trong thành Đa-vít, và cho chế tạo thêm một số lớn khí giới và thuẫn.
6 Vua ra lệnh động viên, thành lập thêm nhiều đơn vị chiến đấu. Trong một buổi duyệt binh tại đại lộ trước cổng thành, vua hiệu triệu quân đội:
7 "Hãy mạnh dạn, anh dũng chiến đấu! Đừng sợ vua A-sy-ri và quân đội hùng cường của nó, vì Đấng ở với chúng ta vô cùng vĩ đại hơn vua A-sy-ri!
8 Quân đội chúng đông đảo thật, nhưng chỉ là người phàm, còn chúng ta có Chúa là Chân Thần! Ngài sẽ chiến đấu thay chúng ta!" Lời của vua khích lệ quân sĩ cách mạnh mẽ.
9 Hoàng đế San-chê-ríp nước A-sy-ri, trong khi còn đang chỉ huy cuộc bao vây thành phố La-ki, đã sai sứ thần đến đe dọa vua Ê-xê-chia và dân Giê-ru-sa-lem. Sứ thần thách thức:
10 "Đại đế San-chê-ríp nước A-sy-ri hỏi: Các ngươi còn trông cậy và nương dựa vào ai một khi bị bao vây như thế?
11 Vua Ê-xê-chia dùng mưu độc để tàn sát các ngươi, vì nếu ở lại trong thành phố các ngươi sẽ chết đói, chết khát. Vua ấy lừa bịp các ngươi bằng cách tuyên truyền xảo trá rằng: 'Chúa là Thượng Đế chúng ta sẽ giải cứu chúng ta hỏi tay hoàng đế A-sy-ri!'
12 Các ngươi quên rằng chính Ê-xê-chia đã tiêu diệt các thần tượng và ra lệnh cho cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa chỉ được dâng tế lễ và dâng hương tại một bàn thờ duy nhất trong Đền Thờ ở Giê-ru-sa-lem hay sao?
13 Các ngươi không biết rằng một khi ta và các bậc tiên đế ta đã đem quân đánh nước nào, thì quân đội ta toàn thắng nước đó hay sao? Các thần của các nước đó không thể nào giải cứu đất nước họ khỏi tay ta.
14 Có thần nào trong chư thần của các nước mà tổ phụ ta quyết định tiêu diệt có đủ khả năng giải cứu dân tộc mình khỏi tay ta đâu, mà các ngươi hi vọng hão huyền rằng thần các ngươi giải cứu nổi?
15 Bây giờ, đừng để Ê-xê-chia lừa bịp hoặc thuyết phục các ngươi! Đừng tin lời láo khoét của nó vì không có thần nào của bất cứ dân tộc nào, vương quốc nào có khả năng giải cứu dân mình khỏi tay các tổ phụ ta. Thế thì chắc chắn thần các ngươi cũng không thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta!"
16 Các sứ giả của San-chê-ríp cũng nói phạm thượng đến Chúa Hằng Hữu và nhục mạ đầy tớ Ngài là Ê-xê-chia.
17 San-chê-ríp cũng viết nhiều bức thư báng bổ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, sỉ nhục Ngài rằng: "Các thần của các nước phải bó tay không giải cứu được dân tộc mình khỏi tay ta thể nào, thì Thần của Ê-xê-chia cũng không tài nào giải cứu dân tộc mình khỏi tay ta thể ấy!"
18 Các sứ giả ấy lớn tiếng kêu gọi dân chúng Giê-ru-sa-lem đang ở trên thành lũy, dùng tiếng Hi-bá dọa nạt, nhát sợ dân chúng để thừa cơ hội chiếm đóng thành phố.
19 Họ báng bổ Thượng Đế của Giê-ru-sa-lem, coi Ngài như các thần của các nước khác, là sản phẩm do tay người chế tạo.
20 Vua Ê-xê-chia họp với tiên tri Ê-sa (con A-mốt) cầu nguyện, kêu la thấu nơi ngự của Chúa trên trời.
21 Chúa Hằng Hữu sai một thiên sứ giết các tướng sĩ ưu tú dũng cảm nhất trong các đồn trại của vua A-sy-ri. San-chê-ríp xấu hổ, cúi mặt bỏ về nước. Khi vào đền thờ thần mình để thờ lạy, San-chê-ríp bị hai con trai mình rút gươm ám sát.
22 Chúa Hằng Hữu đã giải cứu Ê-xê-chia và dân Giê-ru-sa-lem khỏi tay San-chê-ríp hoàng đế A-sy-ri và khỏi tất cả các thù nghịch. Chúa hướng dẫn họ trong mọi đường lối, nên đất nước được thái bình, thịnh trị.
23 Từ ngày đó, nhiều người trong các dân tộc đến dâng tế lễ cho Chúa Hằng Hữu tại Giê-ru-sa-lem và đem tặng phẩm cho Ê-xê-chia vua Giu-đa. Tất cả các dân tộc lân bang đều tôn trọng vua.
24 Vào thời kỳ này, vua Ê-xê-chia đau nặng gần chết. Vua cầu khẩn Chúa Hằng Hữu. Chúa liền đáp lời và cứu vua bằng một phép lạ.
25 Tuy nhiên, Ê-xê-chia không biết ghi nhớ ơn lớn của Chúa, lại còn lên mặt tự kiêu, nên Chúa nổi phẫn nộ cùng vua, dân Giu-đa, và Giê-ru-sa-lem.
26 Nhưng vì Ê-xê-chia và Giê-ru-sa-lem hạ mình xuống trước mặt Chúa, nên cơn phẫn nộ của Chúa không đổ xuống trong đời Ê-xê-chia.
27 Ê-xê-chia trở nên rất giàu có, danh tiếng vang dội khắp nơi. Vua xây cất nhiều kho tàng để chứa các bảo vật bằng vàng, bạc, ngọc và hương liệu, cùng các thuẫn và khí dụng quí giá.
28,29 Vua cũng dựng nhiều kho chứa ngũ cốc, rượu và dầu, cùng nhiều chuồng để nuôi đủ loại súc vật. Vua cũng có rất nhiều bầy cừu, bầy dê. Vua xây cất nhiều thành phố, và Chúa ban phước cho vua rất dồi dào.
30 Vua xây đập nước Ghi-hôn, để dẫn nước vào tây bộ thành Đa-vít qua một hệ thống dẫn thủy. Việc nào vua làm cũng thành công tốt đẹp.
31 Tuy nhiên, khi các sứ thần Ba-by-luân đến chầu vua Ê-xê-chia vì nghe nói vua đau nặng rồi được phép lạ lành bệnh, thì Thượng Đế để cho vua một mình đối phó với tình thế, nhằm mục đích thử lòng vua.
32 Sự nghiệp của vua Ê-xê-chia với các thành quả tốt đẹp, đều đã ghi trong sách Tiên Tri Ê-sa (con A-mốt) và Sử Ký Các Vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
33 Ê-xê-chia qua đời, được an táng trong lăng tẩm trên sườn núi dành cho dòng vua Đa-vít. Dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều ca tụng vua trong lễ quốc táng. Ma-na-se, con trai Ê-xê-chia, lên ngai trị vì.
1 Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngai và cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem.
2 Ma-na-se làm điều ác trước mặt Chúa, vì vua xúi giục dân thờ lạy thần tượng và bắt chước các thói tục ghê tởm của các dân tộc đã bị Chúa trục xuất trước mắt Y-sơ-ra-ên.
3 Vua xây cất lại các miếu tà thần trên các đồi núi mà Ê-xê-chia cha đã phá đổ, lập bàn thờ thần Ba-anh, tạc tượng các thần A-sê-ra, thờ lạy và phụng sự các ngôi sao trên trời.
4 Vua dám đặt bàn thờ tà thần ngay trong Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, là Đấng đã phán: "Ta sẽ đặt Danh Ta tại Giê-ru-sa-lem mãi mãi."
5 Vua xây bàn thờ cho tất cả các ngôi sao trong hai hành lang Đền Thờ.
6 Vua dâng các con trai mình cho tà thần qua ngọn lửa trong thung lũng Con Hi-nôn. Vua cũng theo quỷ thuật, bói khoa, phù phép, và dùng các đồng cốt và thầy bói. Vua tiếp tục làm đủ thứ tội ác, ngày càng gia tăng, đến nỗi chọc giận Chúa Hằng Hữu.
7 Vua đặt các tượng chạm của tà thần vào Đền Thờ Chúa, dù Chúa đã phán bảo Đa-vít và Sa-lô-môn: "Ta sẽ mãi mãi đặt Danh Ta tại Đền Thờ này trong thành phố Giê-ru-sa-lem mà Ta đã chọn giữa các đại tộc Y-sơ-ra-ên.
8 Ta sẽ không còn trục xuất dân này khỏi đất nước Ta đã ban cho tổ phụ họ, với điều kiện duy nhất là họ cẩn thận tuân hành tất cả những điều Ta truyền dạy trong luật pháp, các giới răn và mệnh lệnh do Mai-sen ghi chép."
9 Ma-na-se cũng lôi kéo dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vào con đường lầm lạc, và phạm tội ác còn ghê tởm hơn các dân tộc Chúa đã tiêu diệt trước mặt Y-sơ-ra-ên.
10 Chúa cảnh cáo Ma-na-se và dân, nhưng họ không chịu nghe.
11 Vì thế, Chúa sai các tướng chỉ huy quân đội A-sy-ri đến bắt Ma-na-se bằng móc sắt, xiềng lại bằng xích đồng và điệu vua qua Ba-by-luân.
12 Gặp hoạn nạn khủng khiếp, Ma-na-se mới tìm kiếm Chúa là Thượng Đế của mình, hết sức hạ mình trước mặt Chân Thần của tổ phụ mình,
13 và cầu nguyện với Ngài. Chúa nhậm lời, lắng nghe lời van nài, và đem vua về nước. Về được Giê-ru-sa-lem, Ma-na-se nhìn biết Đấng Hằng Hữu là Chân Thần.
14 Sau đó, Ma-na-se xây tường lũy rất cao quanh thành Đa-vít, phía tây Ghi-hôn, trong thung lũng, cho đến tận Cổng Cá, bọc quanh Ô-phên. Vua bổ nhiệm các tướng chỉ huy quân đội để phòng thủ các thành phố kiên cố trong nước.
15 Ma-na-se dẹp bỏ các thần nước ngoài, các hình tượng vua đã dựng trong Đền Thờ Chúa và phá dỡ các bàn thờ tà thần vua đã xây trên núi Đền Thờ và tại kinh đô, rồi vứt hết ra bên ngoài thành phố.
16 Ma-na-se xây bàn thờ cho Chúa hằng Hữu, dâng các tế lễ bình an cùng cảm tạ và bảo dân phụng sự Chúa Hằng Hữu là Chân Thần.
17 Tuy nhiên, dân chúng còn dâng tế lễ trên các đỉnh núi đồi, dù chỉ dâng cho Chúa, là Thượng Đế của họ.
18 Các công tác khác của Ma-na-se, lời vua cầu nguyện với Thượng Đế, các sứ điệp của các nhà tiên tri nhân Danh Chúa mà truyền giảng đều ghi chép trong bộ Sử Ký Các Vua.
19 Bài cầu nguyện của vua, cách Chúa nhậm lời, cũng như các tội ác, vi phạm của vua, các địa điểm vua lập các miếu thờ, các hình tượng, và tượng chạm trong thời gian vua chưa hạ mình đầu phục Chúa đều ghi chép trong tác phẩm các tiên tri.
20 Ma-na-se qua đời, được an táng ngay trong hoàng cung. Thái tử A-môn lên ngai kế vị cha.
21 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngai và chỉ trị vì được hai năm tại Giê-ru-sa-lem.
22 A-môn làm điều ác trước mặt Chúa, như Ma-na-se cha đã làm trước kia. A-môn dâng tế lễ và phục vụ các tượng chạm mà Ma-na-se cha đã chế tạo.
23 Vua ngoan cố không chịu hạ mình trước mặt Chúa Hằng Hữu, như cha lúc ăn năn, lại còn gia tăng tội ác.
24 Các đại thần âm mưu phản nghịch, và ám sát vua ngay trong hoàng cung.
25 Dân xử tử tất cả các tên thích khách rồi tôn hoàng tử Giô-si-a (con A-môn) lên ngai trị vì đất nước.
1 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngai và trị vì được ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem.
2 Vua làm điều công chính thiện hảo trước mặt Chúa Hằng Hữu, theo đúng đường lối của Đa-vít, tổ phụ mình, không sai lệch chút nào.
3 Trị vì đến năm thứ tám, dù còn thiếu niên, Giô-si-a bắt đầu tìm kiếm Thượng Đế của tổ phụ mình là Đa-vít. Năm thứ mười hai vua quét sạch đất nước Giu-đa và kinh đô không còn một miếu thần trên đỉnh các đồi núi, cũng không còn tượng nữ thần A-sê-ra, hoặc tượng chạm, tượng đúc nào.
4 Trước mặt vua, người ta đập phá các bàn thờ thần Ba-anh. Vua cũng triệt hạ các hình tượng, các miếu thần, tượng đúc; nghiền nát ra bụi và rải bên mồ mả của những kẻ đã tế lễ cho các tượng ấy.
5 Vua thiêu hài cốt các thầy tế lễ tà thần trên bàn thờ của họ và tẩy sạch Giu-đa, Giê-ru-sa-lem.
6 Trong tất cả các thành thuộc đại tộc Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn và cả Nép-ta-li nữa, vua không để lại một dấu vết tế thần nào.
7 Sau khi hủy phá các bàn thờ, các tượng A-sê-ra, nghiền nát các tượng chạm, và triệt hạ tất cả hình tượng khắp đất nước Y-sơ-ra-ên, Giô-si-a trở về Giê-ru-sa-lem.
8 Năm thứ mười tám sau khi tẩy thanh đất nước, vua sai Sa-phan (con A-xa-lia), đô trưởng Ma-a-sê-gia, và Giô-ách (con ngự sử Giô-a-cha) sửa chữa Đền Thờ Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế của mình.
9 Họ đến yết kiến thầy tế lễ tối cao Hinh-kia, giao số tiền dâng vào Đền Thờ Chúa và số tiền mà người Lê-vi gác cổng Đền Thờ đã thu của người Ma-na-se, Ép-ra-im và những người Y-sơ-ra-ên khác, cũng như toàn dân Giu-đa, Bên-gia-min và Giê-ru-sa-lem.
10 Họ giao số tiền ấy cho các đốc công điều khiển chương trình sửa chữa Đền Thờ và các thợ thuyền để trùng tu và thực hiện các công trình kiến trúc.
11 Họ cũng giao tiền cho các chuyên viên, các thợ nề, để mua đá, gỗ tái thiết các cơ sở mà các vua Giu-đa thời trước đã phá hủy.
12 Tất cả đều chuyên cần làm việc dưới quyền lãnh đạo của Gia-bát, Áp-đia (người Lê-vi, thuộc dòng họ Mê-ra-ri), Xa-cha-ri, Mê-su-lam (thuộc dòng họ Kê-hát) và tất cả những nhạc công người Lê-vi.
13 Họ cũng điều khiển đoàn phu khuân vác, tất cả các công nhân trong mỗi ngành công tác, các ký lục (người Lê-vi), các sĩ quan và các lính gác cổng.
14 Khi họ đem ra số tiền đã dâng vào Đền Thờ Chúa, thầy tế lễ tối cao Hinh-kia tìm được bộ Kinh Luật của Mai-sen.
15 Hinh-kia bảo ký lục Sa-phan: "Tôi đã tìm được bộ Kinh Luật trong Đền Thờ Chúa!" rồi giao sách ấy cho Sa-phan.
16 Sa-phan đem sách về trình cho vua và báo cáo:
17 "Tất cả các công tác bệ hạ ủy thác đều đang được thực hiện. Họ xuất tiền bạc trong Đền Thờ ra giao cho các đốc công và các công nhân."
18 Sa-phan tiếp: "Thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia cũng giao bộ sách này cho tôi," rồi đọc sách cho vua nghe.
19 Nghe lời Chúa trong Kinh Luật, vua Giô-si-a liền xé vương bào,
20 và ra lệnh cho Hinh-kia, A-hi-cam (con Sa-phan), Áp-đôn (con Mai-ca), ngự sử Sa-phan và A-sa-gia (cận thần của vua):
21 "Các ngươi hãy đi thay ta và thay Y-sơ-ra-ên và Giu-đa mà tìm kiếm Chúa. Vì theo lời bộ sách mới tìm được, cơn phẫn nộ Chúa đang đổ ra trên chúng ta thật là dữ dội vì tổ phụ chúng ta không vâng giữ lời Chúa đã ghi trong sách này!"
22 Hinh-kia và phái đoàn của vua đến yết kiến nữ tiên tri Hun-đa, vợ của Sa-lum (con Tích-va, cháu Ha-sơ-ra, người giữ áo lễ). Bà đang ngụ tại quận nhì, thuộc kinh đô Giê-ru-sa-lem. Nghe họ trình bày mọi sự,
23 Hun-đa bảo: "Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, phán: 'Hãy trình cho người sai các ngươi đến cùng Ta.
24 Chúa Hằng Hữu dạy: Này, Ta sẽ đổ tai họa trên đất nước này, trên dân, theo tất cả các lời nguyền rủa đã ghi trong sách mà người ta đọc cho vua Giu-đa nghe,
25 vì chúng đã lìa bỏ Ta mà dâng hương cho các thần khác, để chọc giận Ta bằng các vật tay chúng chế tạo nên cơn phẫn nộ Ta sẽ đổ xuống đất nước này không ngớt.'
26 "Các ngươi hãy trình lại cho vua Giu-đa, là người đã sai các ngươi cầu hỏi Chúa Hằng Hữu, rằng: 'Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên phán: Con đã nghe lời Ta,
27 và vì lòng con mềm mại, con đã hạ mình trước mặt Thượng Đế khi con nghe lời Ta phán dạy về đất nước này và về dân, con phủ phục trước mặt Ta, xé áo, khóc lóc trước mặt Ta, nên Ta cũng nghe con.
28 Này, Ta sẽ đem con về với tổ phụ con; con sẽ qua đời bình an, mắt con sẽ không thấy những tai họa Ta sẽ đổ xuống đất nước và dân này!' " Phái đoàn về báo cáo cho vua đầy đủ.
29,30 Vua ra lệnh triệu tập tất cả các trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ người Lê-vi cùng toàn thể dân, bất luận lớn nhỏ. Vua lên Đền Thờ đọc cho họ nghe rõ từng câu từng chữ trong bộ Sách Giao Ước tìm được trong Đền Thờ Chúa.
31 Vua đứng trên bệ dành cho mình và lập giao ước trước mặt Chúa, hứa nguyện theo Chúa hết lòng, hết linh hồn, vâng giữ các điều răn, chứng cớ và giới mạng Ngài, thi hành các lời giao ước đã ghi trong sách này.
32 Vua cũng ra lệnh cho toàn thể dân ở Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min vâng giữ giao ước ấy. Họ bèn vâng theo giao ước của Thượng Đế, Chân Thần của tổ phụ họ.
33 Giô-si-a dẹp sạch tất cả các thần tượng trong khắp đất nước và khiến mọi người trong nước Y-sơ-ra-ên đều phục vụ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của họ. Suốt đời Giô-si-a, dân theo Chúa, không lìa bỏ Chân Thần của tổ phụ mình.
1 Giô-si-a cử hành lễ Vượt Qua cho Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Người ta giết sinh tế Vượt Qua ngày mười bốn tháng giêng.
2 Vua phân công cho các thầy tế lễ và tăng cường nhân số để phục vụ trong Đền Thờ Chúa.
3 Vua bảo các người Lê-vi đã được thánh hóa và đang dạy dỗ dân: "Các ngươi hãy đặt Rương Giao Ước thánh trong Đền Thờ Sa-lô-môn (con Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên) đã xây cất, để khỏi khiêng trên vai. Bây giờ, hãy phục vụ Chúa Hằng Hữu, là Thượng Đế các ngươi, và dân sự Ngài.
4 Hãy chuẩn bị trong nhà tổ phụ mình, theo ban thứ các ngươi, đúng như sắc lệnh của Đa-vít vua Y-sơ-ra-ên và sắc lệnh của Sa-lô-môn (con Đa-vít).
5 Hãy đứng trong Nơi Thánh, theo các phân ban trong gia đình tổ phụ anh em các ngươi và dân tộc mình.
6 Hãy giết sinh tế Vượt Qua, hãy tự biệt mình ra thánh, chuẩn bị anh em mình để thi hành đúng lời Chúa như Mai-sen ghi chép.
7 Giô-si-a cấp cho dân 30.000 cừu con và dê con để dâng tế lễ Vượt Qua cho mỗi người có mặt, và 3.000 bò đực, bắt trong các bầy súc vật của vua.
8 Các nhà lãnh đạo dân tộc cũng tặng lễ vật cho dân, các thầy tế lễ và người Lê-vi để dâng tế lễ. Hinh-kia, Xa-cha-ri và Giê-hi-ên, là những người quản lý Đền Thờ, cấp cho các thầy tế lễ 2.600 cừu để dâng lễ Vượt Qua, cộng thêm 3.000 bò đực.
9 Cô-na-nia và các em là Sê-ma-gia, Na-tha-na-ên, Ha-sa-bia, Giê-i-ên và Giô-xa-bát, tức là các truởng tộc Lê-vi, cung cấp cho người Lê-vi 5.000 cừu để dâng lễ Vượt Qua, cộng thêm 500 bò đực.
10 Tất cả công việc đều chuẩn bị sẵn sàng: Các thầy tế lễ đều đứng tại chỗ được quy định; các người Lê-vi theo ban thứ mình mà phục vụ, đúng theo lệnh của vua.
11 Họ giết sinh tế Vượt Qua; các thầy tế lễ dùng tay rảy máu sinh tế, còn người Lê-vi thì lột da các sinh tế.
12 Họ lấy các tế lễ thiêu mà phân phối cho dân theo từng đại tộc để dâng cho Chúa đúng theo luật lệ Mai-sen đã ghi; các sinh tế bò đực cũng vậy.
13 Họ nướng sinh tế Vượt Qua theo luật lệ, luộc thịt thánh trong nồi, xoong, chảo; và phân phát cho toàn dân.
14 Sau đó, họ mới dọn cho các thầy tế lễ và cho họ. Vì các thầy tế lễ (dòng dõi A-rôn) dâng các tế lễ thiêu và mỡ sinh tế đến tối, nên người Lê-vi phải dọn ăn cho họ.
15 Ca đoàn (dòng dõi A-sáp) lên đứng hát theo luật lệ Đa-vít, A-sáp, Hê-man và Gia-đức-thu (nhà tiên kiến của vua) đã ấn định. Các ban gác cổng cũng tiếp tục đứng tại chỗ mà canh gác, vì anh em họ là người Lê-vi cũng dọn sẵn cho họ.
16 Trong ngày ấy, tất cả nghi lễ phụng sự Chúa đều chuẩn bị sẵn sàng để cử hành lễ Vượt Qua và tế lễ thiêu trên bàn thờ Chúa, theo lệnh vua Giô-si-a.
17 Trong dịp này, Y-sơ-ra-ên giữ lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men suốt bảy ngày.
18 Từ thời tiên tri Sa-mu-ên, Y-sơ-ra-ên chưa bao giờ giữ lễ Vượt Qua trọng thể như vậy. Chưa có vua nào cử hành lễ ấy như Giô-si-a với các thầy tế lễ, người Lê-vi, và dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đã làm
19 vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-a.
20 Sau khi vua Giô-si-a chuẩn bị việc nhà xong, hoàng đế Nê-cô nước Ai Cập đem quân tấn công Cát-kê-mít bên dòng Phát-giang. Giô-si-a ra chống cự.
21 Nê-cô sai sứ thần phân giải: "Nhà vua Giu-đa với ta có việc gì tranh chấp đâu! Ngày nay ta không tấn công Giu-đa, ta chỉ đánh quân thù của nước ta mà thôi. Chúa Hằng Hữu bảo ta phải đánh gấp. Nếu nhà vua không chống cự Chúa Hằng Hữu là Đấng đang ở với ta thì Ngài sẽ không diệt vua đâu!"
22 Tuy nhiên vua Giô-si-a không chịu rút quân, lại cải trang để chống đánh Nê-cô, và ngoan cố không nghe theo lời Nê-cô đã nói theo lệnh Thượng Đế. Giô-si-a giáp chiến với Nê-cô trong thung lũng Mê-ghi-đô.
23 Các xạ thủ Ai Cập bắn tên trúng Giô-si-a. Vua bảo các sĩ quan hầu cận: "Các ngươi hãy đem ta ra khỏi hàng ngũ vì ta bị thương nặng!"
24 Họ đưa vua ra khỏi chiến xa, đem qua một chiến xa khác rồi đưa vua về Giê-ru-sa-lem. Vua qua đời, được an táng trong lăng các tiên đế. Cả dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều khóc lóc chịu tang.
25 Giê-rê-mi đọc điếu văn cho Giô-si-a. Các nam nữ ca sĩ hát bài ai ca về Giô-si-a. Cho đến ngày nay, dân còn giữ lệ hát bài ai ca thương nhớ Giô-si-a ghi trong sách Ai Ca.
26 Sự nghiệp và lòng trung thành của Giô-si-a với luật pháp Chúa,
27 từ đầu đến cuối, đều ghi chép trong Sử Ký Các Vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
1 Dân tôn thái tử Giô-a-cha lên ngai kế vị vua cha tại Giê-ru-sa-lem.
2 Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi đăng quang và cai trị chỉ được ba tháng.
3 Hoàng đế Ai Cập truất ngai Giô-a-cha và bắt dân nộp tiền phạt một trăm ta-lâng bạc và một ta-lâng vàng,
4 rồi lập Ê-li-a-kim (em Giô-a-cha) làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem và đổi tên vua là Giê-hô-gia-kim. Nê-cô bắt Giô-a-cha giải qua Ai Cập.
5 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngai, và trị vì được mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu, là Thượng Đế của mình.
6 Nê-bu-cát-nết-sa, hoàng đế Ba-by-luân tấn công Giu-đa, xiềng vua bằng xích đồng và giải về Ba-by-luân.
7 Nê-bu-cát nết-sa cũng chiếm đoạt một số dụng cụ trong Đền Thờ Chúa mà đem về Ba-by-luân, trưng bày trong miếu thờ ở Ba-by-luân.
8 Các công tác khác của Giê-hô-gia-kim, những việc ác vua đã làm và tâm địa xấu xa của vua đều đã ghi chép trong Sử Ký Các Vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Thái tử Giê-hô-gia-kin -con Giê-hô-gia-kim) lên ngai kế vị.
9 Giê-hô-gia-kin đuợc tám tuổi khi lên ngai, và trị vì chỉ đuợc ba tháng mười ngày tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu.
10 Đến đầu năm sau, hoàng đế Nê-bu-cát-nết-sa sai bắt giải vua qua Ba-by-luân, cùng cướp đi nhiều dụng cụ quý giá trong Đền Thờ Chúa, rồi lập Sê-đê-kia, chú của Giê-hô-gia-kin, làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem.
11 Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngai và trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem.
12 Vua làm điều ác trước mặt Chúa Hằng Hữu, không chịu hạ mình trước mặt tiên tri Giê-rê-mi, người đã truyền đạt cho vua lời Chúa.
13 Vua cũng nổi loạn chống Nê-bu-cát-nết-sa, trái với lời thề trước mặt Chúa (theo lời yêu cầu của hoàng đế Ba-by-luân). Vua ngoan cố, cứng lòng, không chịu quay về với Chúa Hằng Hữu là Chân Thần của Y-sơ-ra-ên.
14 Ngay các thầy trưởng tế và dân cũng đều tiếp tục đường lối phản bội Chúa và theo các thần tượng ghê tởm của các dân tộc lân bang, làm hoen ố Đền Thờ mà Chúa đã thánh hóa tại Giê-ru-sa-lem.
15 Vì lòng thương xót dân và Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, Thượng Đế của tổ phụ họ đã dậy sớm sai các sứ giả đến kêu gọi họ.
16 Tuy nhiên, họ chế giễu các sứ giả của Chúa, khinh bỉ lời Ngài, và đối xử cách lừa dối với các tiên tri cho đến khi cơn phẫn nộ Chúa đổ xuống cả dân, không còn phương cứu chữa.
17 Chúa khiến hoàng đế Ba-by-luân tấn công Giu-đa, tàn sát các thành phần ưu tú của dân tộc trong Đền Thánh Chúa; không chút thừa trừ thanh niên hay thiếu nữ, người già, hoặc các vị niên trưởng. Chúa giao nạp họ vào tay hoàng đế Ba-by-luân.
18 Tất cả các dụng cụ trong Đền Thờ Chúa, bất luận lớn nhỏ, các kho bảo vật trong Đền Thờ, trong cung điện nhà vua, trong dinh thự các nhà lãnh đạo quốc dân đều bị tước đoạt và chở qua Ba-by-luân.
19 Quân địch phóng hỏa Đền Thờ Chúa, phá vỡ các tường lũy Giê-ru-sa-lem, thiêu rụi các cung điện, dinh thự, và phá hủy tất cả các vật dụng quý giá.
20 Dân còn sống sót sau cuộc tàn sát bằng gươm đều bị bắt làm nô lệ cho Nê-bu-cát-nết-sa, kể cả các hoàng tử. Họ bị lưu đày qua Ba-by-luân cho đến thời đế quốc Ba Tư chiến thắng Ba-by-luân.
21 Chúa đã đoán phạt họ đúng như lời Chúa đã dùng môi miệng tiên tri Giê-rê-mi phán dạy, để cho đất được nghỉ những năm Sa-bát, cho trọn số bảy mươi năm; trong thời gian ấy đất đai tiêu điều.
22 Năm thứ nhất triều vua Si-ru, hoàng đế Ba Tư, Chúa Hằng Hữu thực hiện lời Ngài phán qua tiên tri Giê-rê-mi: Chúa cảm động Si-ru công bố khắp đế quốc chiếu chỉ nội dung như sau:
23 "Hoàng đế Si-ru đế quốc Ba Tư tuyên cáo: Đấng Hằng Hữu, Chúa Tể Vũ Trụ đã ban cho ta tất cả các vương quốc trên thế giới và ủy thác cho ta nhiệm vụ kiến thiết Đền Thờ cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem, xứ Giu-đa. Trong tất cả thần dân, ai là dân Chúa, hãy quay về đất nước mình. Cầu Chúa Hằng Hữu là Chân Thần ở với dân Ngài!"