1-3 Phao-lô, tôi tớ Chúa Cứu Thế Giê-xu, kính gửi tất cả các tín hữu tại thủ đô La-mã. Chúa chọn tôi làm sứ đồ, uỷ thác cho tôi nhiệm vụ truyền giảng Phúc âm của Thượng Đế - Phúc âm đã được Ngài hứa từ xưa trong các sách tiên tri của Thánh Linh: về thể xác, Chúa giáng thế làm người theo dòng Đa-vít;
4 về thần linh, Chúa sống lại từ cõi chết chứng tỏ Ngài là Con Thượng Đế đầy uy quyền, là Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta -
5 Nhờ Chúa Cứu Thế, Thượng Đế đã thi ân cứu rỗi, dùng tôi làm sứ giả để dìu dắt các dân tộc nước ngoài vào con đường tin cậy và vâng phục Danh Ngài.
6 Trong các dân tộc ấy, có cả anh em là người được Chúa chọn làm con dân của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
7 Anh em là người Thượng Đế yêu thương và kêu gọi vào cuộc sống thánh thiện. Cầu chúc anh em hằng hưởng được ân phúc và bình an của Thượng Đế, Cha chúng ta, và của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Cầu nguyện và cảm tạ
8 Trước hết, tôi xin nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu dâng lên lời cảm tạ Thượng Đế tôi vì đức tin anh em đã được Hội thánh khắp nơi khen ngợi.
9 Thượng Đế mà tôi hết lòng phục vụ bằng cách truyền bá Phúc âm của Con Ngài, biết rõ tôi luôn cầu thay cho anh em.
10 Tôi cũng cầu xin Thượng Đế, nếu đẹp ý Ngài, cho tôi có phương tiện và cơ hội đến thăm anh em.
11 Vì tôi nóng lòng muốn gặp anh em để chia sẻ ân tứ tâm linh, giúp anh em ngày càng vững mạnh,
12 để anh em và tôi đều khích lệ lẫn nhau bởi đức tin của mỗi người.
13 Thưa anh em, tôi không muốn giấu anh em điều nầy: đã nhiều lần tôi định đi thăm anh em để gặt hái hoa quả tốt đẹp, như tôi đã làm tại các nước khác, nhưng cho đến nay, tôi vẫn gặp trở ngại.
14 Tôi có bổn phận nặng nề với các dân tộc, văn minh lẫn dã man, trí thức lẫn thất học.
15 Vì thế, tôi thiết tha mong ước đi La-mã truyền giảng Phúc âm của Thượng Đế cho anh em.
Quyền năng của Phúc âm
16 Tôi chẳng bao giờ hổ thẹn về Phúc âm vì Phúc âm thể hiện quyền năng Thượng Đế để cứu rỗi mọi người tin nhận. Trước hết, Phúc âm được công bố cho người Do-thái, rồi truyền bá cho mọi dân tộc.
17 Phúc âm dạy rõ: đối với Thượng Đế, con người được tha tội và coi là công chính một khi tin Chúa Cứu Thế rồi tuần tự tiến bước bởi đức tin, như Thánh Kinh đã dạy: “Người công bình sẽ sống bởi đức tin”.
Tội lỗi của nhân loại
18 Những người vô đạo, bất công, bất nghĩa, xuyên tạc sự thật, sẽ bị Thượng Đế hình phạt.
19 Vì sự thật về Thượng Đế đã được giải bày cho họ, chính Thượng Đế đã tỏ cho họ biết.
20 Từ khi sáng tạo trời đất, những đặc tính vô hình của Thượng Đế - tức là quyền năng vô tận và bản tính thần linh - đã hiển nhiên trước mắt mọi người, ai cũng có thể nhận thấy nhờ những vật hữu hình, nên họ không còn lý do chữa tội.
21 Dù biết Thượng Đế nhưng họ chẳng tôn vinh hay tri ân Ngài. Họ suy tư trong vòng lẩn quẩn, tâm hồn bị sa lầy trong bóng tối.
22 Họ tự nhận là khôn ngoan nhưng hoá ra mê muội.
23 Thay vì thờ phượng Thượng Đế vinh quang hằng sống, họ tôn thờ thần tượng con người phù du, đến cả hình tượng chim, thú hay loài bò sát.
24 Vì thế, Thượng Đế để mặc họ theo dục vọng, sa đắm vào sắc dục, làm ô nhục thân thể của nhau.
25 Họ tráo đổi chân lý của Thượng Đế bằng chuyện giả dối và thờ phượng tạo vật thay cho Tạo Hoá, là Đấng đáng được tôn thờ muôn đời.
26 Do đó, Thượng Đế để mặc họ theo dục tình ô nhục. Đàn bà bỏ cách luyến ái tự nhiên để theo lối phản tự nhiên.
27 Đàn ông cũng bỏ liên hệ tự nhiên với đàn bà mà luyến ái lẫn nhau theo lối tình dục đồng giới đáng ghê tởm, để rồi chịu hình phạt xứng đáng với thói hư tật xấu của mình.
28 Vì họ từ chối, không chịu nhìn nhận Thượng Đế, nên Ngài để mặc họ làm những việc hư đốn theo đầu óc sa đoạ.
29 Đời sống họ đầy tội lỗi, gian ác, hiểm độc, tham lam, ganh ghét, giết người, tranh chấp, gian trá, quỷ quyệt, nói xấu,
30 phao vu, ghét Thượng Đế, xấc láo, kiêu căng, khoác lác, ưa tìm cách làm ác mới mẻ, nghịch cha mẹ,
31 không phân biệt thiện ác, bội ước, không tình nghĩa, không thương xót.
32 Dù họ biết rõ theo luật Thượng Đế, người làm những việc ấy đều đáng chết, thế mà họ cứ phạm luật, lại còn khuyến khích người khác làm theo nữa.
Tội lỗi của người Do-thái
1 Thưa anh em, khi lên án người khác điều gì, anh em cũng tự lên án, vì đã lên án họ mà cũng hành động như họ. Vậy anh em chẳng có lý do chạy tội.
2 Chúng ta đều biết Thượng Đế căn cứ vào sự thật để xét sử dụng những kẻ giả dối ấy.
3 Đã lên án người, lại phạm luật như người, liệu anh em có khỏi bị Thượng Đế lên án không?
4 Hay anh em coi thường lòng nhân từ, khoan dung, nhẫn nại vô biên của Chúa, đến nỗi không nhận thấy Ngài nhân từ vì chờ đợi anh em hối cải?
5 Ngoan cố, không hối cải là tự dồn chứa hình phạt khủng khiếp cho mình trong ngày đoán phạt của Thượng Đế, khi Ngài dùng công lý xét xử loài người.
6 Chúa sẽ thưởng phạt tuỳ theo công việc mỗi người.
7 Người nào bền lòng vâng phục Chúa, tìm kiếm vinh quang, danh dự và những giá trị vĩnh cửu, sẽ được sự sống đời đời.
8 Còn người nào vị kỷ, chối bỏ chân lý, đi theo đường gian tà, sẽ bị hình phạt; Thượng Đế sẽ trút cơn giận của Ngài trên họ.
9 Tai ương, thống khổ sẽ giáng trên mọi kẻ làm ác, dù người Do-thái hay nước ngoài.
10 Nhưng vinh quang, danh dự, bình an dành sẵn cho người vâng phục Thượng Đế, không phân biệt chủng tộc
11 vì Thượng Đế không thiên vị ai.
Luật pháp Mai-sen không cứu được người Do-thái
12 Người nước ngoài phạm tội khi chưa biết luật pháp Mai-sen, sẽ bị hình phạt, nhưng không chiếu theo luật ấy. Người Do-thái biết luật pháp mà khi phạm tội sẽ bị xét sử dụng theo luật pháp.
13 Vì không phải người biết luật pháp được kể là công chính, nhưng người vâng giữ luật pháp.
14 Khi người nước ngoài không có luật pháp, theo bản tính làm những điều luật pháp đòi hỏi, hành động theo bản tính là luật pháp của họ.
15 Việc nầy chứng tỏ các nguyên tắc luật pháp đã được ghi vào lòng họ, lương tâm cũng làm chứng khi lên tiếng buộc tội hay biện hộ.
16 Theo Phúc âm tôi truyền giảng, đến ngày Thượng Đế đã định, Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ xét xử mọi tư tưởng, hành động kín đáo của loài người.
17 Anh em tự hào là người Do-thái, ỷ lại luật pháp Mai-sen, khoe mình là dân Thượng Đế.
18 Anh em tự phụ vì biết được ý muốn Ngài, biết phân biệt phải quấy nhờ học hỏi luật pháp.
19 Anh em kiêu hãnh tự nhận là người dẫn đường kẻ mù, ánh sáng cho người đi trong đêm tối,
20 là giáo sư người thất học và trẻ con, vì anh em thông thạo luật pháp, tinh hoa của trí thức và chân lý.
21 Do đó, anh em ưa dạy dỗ người khác, nhưng sao không tự sửa dạy? Anh em bảo người ta đừng trộm cắp, sao anh em còn trộm cắp?
22 Anh em cấm kẻ khác ngoại tình, sao anh em vẫn ngoại tình? Anh em không cho thờ lạy thần tượng, sao anh em ăn trộm đồ thờ?
23 Anh em tự hào hiểu biết luật pháp Thượng Đế, sao còn phạm luật để làm nhục danh Ngài?
24 Thật đúng như lời Thánh Kinh: “Vì tội người Do-thái các ngươi mà danh Thượng Đế bị xúc phạm giữa các dân tộc”.
Lễ cắt bì không cứu rỗi được
25 Nếu anh em tôn trọng luật pháp, thì chịu cắt bì mới có ý nghĩa; nếu phạm luật, chịu cắt bì cũng như không.
26 Nếu người không chịu cắt bì vâng giữ luật pháp, lẽ nào Thượng Đế chẳng xem họ như đã chịu cắt bì?
27 Và chính họ - những người thực sự không chịu cắt bì nhưng biết tôn trọng luật pháp - sẽ lên án anh em là những người chịu cắt bì và có luật pháp hẳn hoi nhưng không chịu vâng giữ.
28 Người chỉ có hình thức Do-thái không phải là Do-thái thật; lễ cắt bì chỉ theo nghi thức bên ngoài không phải lễ cắt bì chân chính.
29 Người Do-thái thật phải có tâm hồn Do-thái cũng như lễ cắt bì thật là sự đổi mới tâm hồn do Thánh Linh, không phải chỉ theo lễ nghi, luật pháp. Người như thế sẽ được chính Thượng Đế khen ngợi, không phải loài người.
Sự thành tín của Thượng Đế
1 Vậy dân Do-thái hưởng đặc ân gì của Thượng Đế? Lễ cắt bì có giá trị gì?
2 Thưa, họ hưởng đủ thứ đặc ân. Trước hết, Do-thái là dân tộc được uỷ thác thông điệp Thượng Đế truyền cho loài người.
3 Nếu có người Do-thái thất tín, không vâng phục Thượng Đế, chẳng lẽ vì thế mà Ngài không giữ lời hứa sao?
4 Tuyệt đối không! Vì chỉ có loài người mới lật lừa dối trá, còn Thượng Đế luôn luôn chân thật, như Thánh Kinh chép:
“Lời Chúa luôn luôn chân thật, công bằng Dù ai xét đoán cũng phải nhìn nhận”
5 Nếu tội lỗi chúng ta làm nổi bật đức công chính của Thượng Đế, có phải Ngài bất công khi hình phạt chúng ta không? (Nói theo lập luận của một vài người).
6 Tuyệt đối không! Vì nếu Thượng Đế bất công thì còn xét xử được ai?
7 Cũng theo lập luận trên, có người thắc mắc: nếu sự lừa dối của tôi làm sáng tỏ đức chân thật của Thượng Đế, sao tôi còn bị Ngài xét xử như người có tội?
8 Lập luận kiểu ấy, chẳng khác gì bảo: “Gieo ác sẽ gặt thiện!” Thế mà có người dám nói chúng tôi cũng giảng dạy như thế! Họ bị hình phạt thật công bằng.
Cả nhân loại đều mắc tội
9 Vậy người Do-thái có lương thiện hơn các dân tộc khác không? Hẳn là không, vì như chúng ta vừa trình bày, người Do-thái và nước ngoài đều có tội.
10 Thánh Kinh chép:
“Chẳng một người nào công chính Dù chỉ một người thôi
11 Chẳng có ai hiểu biết Thượng Đế Không ai tìm kiếm Ngài
12 Mọi người đều trở mặt Đi vào đường lầm lạc Chẳng một ai làm lành Dù một người cũng không
13 Họng họ hôi hám thô tục Như cửa mộ bốc mùi hôi thối Lưỡi họ chuyên lừa dối Môi chứa nọc rắn hổ
14 Miệng phun lời nguuyền rủa cay độc.
15 Họ nhanh chân đi giết người,
16 Đến đâu cũng để lại vết điêu tàn, khốn khổ
17 Họ chẳng biết con đường hạnh phúc, an vui
18 Cũng chẳng nể nang, kính sợ Thượng Đế”.
19 Chúng ta biết mọi điều luật pháp đòi hỏi đều áp dụng cho những người sống dưới luật pháp, nên chẳng ai có thể chạy tội và cả nhân loại sẽ bị Thượng Đế xét xử.
20 Chiếu theo luật pháp, chẳng ai được kể là công chính, vô tội trước mặt Thượng Đế, vì luật pháp chỉ giúp con người biết mình có tội.
Đức tin và sự công chính của Thượng Đế
21 Nhưng ngày nay, Thượng Đế công bố phương pháp cứu rỗi: con người được Chúa tha tội và nhìn nhận là công chính mà không nhờ luật pháp. Ngay luật pháp Mai-sen và các tiên tri cũng xác nhận điều ấy.
22 Tất cả những người tin Chúa Cứu Thế Giê-xu đều được Thượng Đế tha tội và coi là công chính, không phân biệt một ai.
23 Vì mọi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thượng Đế.
24 Nhưng Thượng Đế ban ân, rộng lòng tha thứ, kể chúng ta là công chính, do công lao cứu chuộc bằng máu của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
25 Thượng Đế đã cho Chúa Giê-xu hy sinh chuộc tội chúng ta, những người tin cậy máu Ngài. Việc cứu chuộc nầy chứng tỏ đức công chính của Thượng Đế đối với tội lỗi loài người trong quá khứ và hiện tại. Trong quá khứ, Ngài nhẫn nhục bỏ qua tội lỗi.
26 Trong hiện tại, người tin Chúa Giê-xu được Ngài tha tội và nhìn nhận là công chính.
27 Vậy con người còn có lý do tự hào không? Tuyệt đối không! Vì nhờ đức tin mà chúng ta được cứu, không phải do việc làm.
28 Chúng tôi xin xác nhận: Con người được kể là công chính, vô tội vì tin Chúa, chứ không phải vì vâng giữ luật pháp.
29 Phải chăng Thượng Đế chỉ là Thần của dân Do-thái? Thưa, Ngài cũng là Thần của tất cả các dân tộc.
30 Vì chỉ có một Thượng Đế duy nhất, Ngài tha tội cho tất cả những người Do-thái hay người nước ngoài tin nhận Chúa Giê-xu.
31 Đã có đức tin, chúng ta nên huỷ bỏ luật pháp không? Chẳng bao giờ! Ngược lại, nhờ đức tin mà luật pháp được vững vàng.
Gương Áp-ra-ham
1 Chúng ta giải thích thế nào về trường hợp Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta?
2 Nếu vì làm lành mà Áp-ra-ham được Thượng Đế nhìn nhận là người công chính vô tội, hẳn ông có lý do tự hào. Nhưng Thượng Đế không thừa nhận điều ấy.
3 Thánh Kinh chép: “Áp-ra-ham tin Thượng Đế, nhờ đó Ngài kể ông là người công chính”.
4 Khi một người làm việc lĩnh thù lao, không thể coi thù lao như ân huệ, nhưng là tiền công.
5 Còn người không làm việc, nhưng tin Thượng Đế có quyền tha tội cho mình, người ấy hưởng ân huệ và được kể là công chính nhờ đức tin.
6 Khi trình bày hạnh phúc của người được Thượng Đế coi là công chính, Đa-vít đã từng xác nhận:
7 "Phúc cho người nào tội được tha thứ, lỗi được xoá bôi,
8 Phúc cho người được Chúa kể là vô tội”.
9 Hạnh phúc ấy chỉ dành riêng cho người chịu cắt bì, hay cho cả người không chịu cắt bì? Chúng ta vừa nói “nhờ đức tin, Áp-ra-ham được kể là người công chính”
10 Áp-ra-ham được kể là công chính lúc nào? Trước hay sau khi chịu cắt bì? Thưa, trước khi chịu cắt bì.
11 Lễ cắt bì là dấu hiệu chứng tỏ ông được kể là công chính nhờ đức tin từ khi chưa chịu cắt bì. Do đó, ông trở thành tổ phụ của mọi người không chịu cắt bì, nhưng tin nhận Chúa Cứu Thế, nên được Thượng Đế kể là công chính.
12 Đồng thời ông cũng là tổ phụ những người chịu cắt bì và sống bởi đức tin như ông khi chưa chịu cắt bì.
Hưởng lời hứa bởi đức tin
13 Thượng Đế hứa cho Áp-ra-ham và dòng dõi ông thừa hưởng thế giới nầy, không phải vì ông vâng giữ luật pháp nhưng vì ông tin cậy Ngài và được kể là công chính.
14 Nếu Thượng Đế chỉ dành lời hứa ấy cho những người vâng giữ luật pháp, thì đức tin hoá ra vô ích và lời hứa trở thành vô nghĩa.
15 Luật pháp chỉ đem lại hình phạt cho kẻ phạm pháp, nên chừng nào không có luật pháp, sẽ không còn ai phạm pháp nữa.
16 Bởi đức tin, Áp-ra-ham được lời hứa của Thượng Đế như một ân huệ, nên tất cả dòng dõi ông đều được hưởng lời hứa đó: cả dòng dõi theo luật pháp, lẫn dòng dõi theo đức tin, Áp-ra-ham là tổ phụ của tất cả chúng ta,
17 như Thánh Kinh chép: “Ta đã chọn con làm tổ phụ nhiều dân tộc”. Phải, trước mặt Thượng Đế mà ông tin cậy, Áp-ra-ham là tổ phụ tất cả chúng ta. Ông tin Chúa có quyền khiến kẻ chết sống lại, đổi không ra có.
18 Trong cảnh tuyệt vọng, Áp-ra-ham vẫn hy vọng tin tưởng lời hứa của Thượng Đế: “Dòng dõi con sẽ đông như sao trên trời”. Nhờ đó ông trở thành tổ phụ nhiều dân tộc.
19 Dù lúc ấy ông đã 100 tuổi, còn Sa-ra 90 - cả hai đều quá tuổi sinh sản - nhưng tình trạng nầy không làm cho đức tin ông yếu kém.
20 Ông chẳng nghi ngờ lời hứa của Thượng Đế, trái lại đức tin ông càng thêm vững mạnh, và ông cứ ca ngợi Ngài.
21 Ông tin chắc chắn Thượng Đế có quyền thực hiện mọi điều Ngài hứa.
22 Chính nhờ đức tin ấy, ông “được kể là người công chính”.
23 Đặc ân “được kể là người công chính” không dành riêng cho Áp-ra-ham,
24 nhưng cho chúng ta nữa: vì khi chúng ta tin lời hứa của Thượng Đế - Đấng đã cho Chúa Giê-xu chúng ta sống lại - Ngài cũng kể chúng ta là công chính như Áp-ra-ham.
25 Chúa Cứu Thế chịu chết đền tội chúng ta và sống lại để chứng nhận chúng ta là người công chính.
Sự cứu rỗi bởi đức tin
1 Vậy, nhờ đức tin chúng ta được kể là người công chính, và được giải hoà với Thượng Đế qua trung gian Chúa Cứu Thế Giê-xu.
2 Vì đức tin ấy, Chúa Cứu Thế nâng chúng ta lên địa vị hiện tại, cho hưởng đặc ân làm con Thượng Đế, chúng ta hân hoan vì hy vọng được chia sẻ vinh quang với Ngài.
3 Đồng thời, chúng ta vui mừng giữa mọi gian khổ, vì biết rằng gian khổ đào tạo kiên nhẫn;
4 kiên nhẫn đem lại kinh nghiệm; và từ kinh nghiệm phát sinh hy vọng.
5 Hy vọng trong Chúa không bao giờ phải vỡ mộng như hy vọng trần gian, vì Thượng Đế yêu thương chúng ta, sai Thánh Linh đổ tình yêu tràn ngập lòng chúng ta.
6 Đang khi chúng ta bó tay tuyệt vọng, Chúa Cứu Thế đã đến đúng lúc để chết thay cho chúng ta, là người tội lỗi, xấu xa.
7 Thông thường, ít thấy ai chịu chết cho người công chính, hiền lương, nhưng dù sao, nghĩa cử ấy còn có thể xảy ra.
8 Nhưng Thượng Đế đã chứng tỏ tình yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi Chúa Cứu Thế chịu chết thay chúng ta là người tội lỗi.
9 Trước là người tội lỗi, ta còn nhờ máu Chúa mà được tha thứ, nay ta sạch tội rồi, hẳn Ngài sẽ cứu ta khỏi hình phạt khủng khiếp Thượng Đế dành cho thế gian.
10 Trước là kẻ thù Thượng Đế, ta còn được giải hoà với Ngài nhờ sự chết của Con Ngài, nay ta đã hoà thuận rồi, hẳn Ngài sẽ giải cứu ta do sức sống bất diệt của Ngài.
11 Ngoài ra, chúng ta còn có vinh dự được tương giao khắng khít với Thượng Đế, do công lao Chúa Cứu Thế Giê-xu, vì nhờ Ngài, chúng ta được hoà thuận với Thượng Đế.
A-đam và Chúa Giê-xu
12 Vì A-đam, tội lỗi đã xâm nhập thế gian, đem theo sự chết. Do đó, mọi người đều phải chết, vì mọi người đều phạm tội.
13 Tội lỗi đã vào thế gian trước khi ban hành luật pháp Mai-sen, nhưng lúc ấy chẳng ai bị lên án vì chưa có luật pháp.
14 Tuy nhiên sự chết vẫn ngự trị loài người từ thời A-đam đến Mai-sen, kể cả những người không phạm tội như A-đam. A-đam tượng trưng cho Chúa Cứu Thế, báo trước sự xuất hiện của Ngài, nhưng mang một ý nghĩa khác hẳn,
15 chẳng khác nào sự phạm tội trái ngược sự tha tội. Vì một A-đam phạm tội mà bao nhiêu người phải chết, còn một người là Chúa Cứu Thế đem lại sự tha tội cho vô số người do ân khoan hồng của Thượng Đế.
16 Tội lỗi A-đam thật khác hẳn ân tha thứ của Thượng Đế. Do một tội của A-đam mà mọi người bị tuyên án: trái lại, dù phạm bao nhiêu tội con người cũng được Thượng Đế tha thứ và kể là công chính do Chúa Giê-xu.
17 Vì tội A-đam mà sự chết cầm quyền trên mọi người; trái lại do công Chúa Cứu Thế Giê-xu, những ai nhận ân phúc và sự tha tội dồi dào của Thượng Đế sẽ được quyền lớn lao hơn để sống thánh thiện và đắc thắng.
18 Do tội của A-đam, mọi người bị kết án; do việc công chính của Chúa Cứu Thế, mọi người được trắng án và được sống vĩnh cửu.
19 A-đam không vâng lời Thượng Đế, làm cho bao nhiêu người mắc tội; Chúa Cứu Thế vâng lời Thượng Đế nên vô số người sạch tội.
20 Luật pháp vạch trần quá nhiều tội lỗi, nhưng chúng ta càng nhận tội, ân tha thứ của Thượng Đế càng gia tăng.
21 Trước kia, tội lỗi hoành hành khiến loài người phải chết, nhưng ngày nay ân phúc Thượng Đế ngự trị, nên chúng ta sạch tội và được sự sống vĩnh cửu, nhờ công lao Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.
Lễ báp-tem: chết về tội lỗi và sống với Chúa Cứu Thế
1 Vậy, chúng ta còn tiếp tục phạm tội để Thượng Đế gia tăng ân phúc không?
2 Tuyệt đối không! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa!
3 Anh em không biết khi chúng ta chịu báp-tem trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, là chịu chết với Ngài sao?
4 Cũng do báp-tem ấy, chúng ta đã được chôn với Chúa Cứu Thế, để sống một cuộc đời mới cũng như Ngài đã nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết.
5 Đã liên hiệp với Chúa trong sự chết, chúng ta cũng liên hiệp với Ngài trong sự sống lại.
6 Biết rõ người cũ chúng ta đã bị đóng đinh trên cây thập tự với Chúa Cứu Thế, trụ sở tội lỗi đã bị tiêu diệt, nên chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa.
7 Vì ai đã chết đều được giải thoát khỏi tội lỗi.
8 Đã cùng chết với Chúa Cứu Thế, chắc chắn chúng ta sẽ cùng sống với Ngài.
9 Chúng ta biết Chúa Cứu Thế đã sống lại từ cõi chết, Ngài không bao giờ chết nữa, vì sự chết chẳng còn quyền lực gì trên Ngài,
10 Ngài đã chết để tiêu diệt tội lỗi một lần dứt khoát, và nay Ngài sống cho Thượng Đế.
11 Anh em cũng vậy, phải kể mình thật chết về tội lỗi và sống cho Thượng Đế, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Sự thánh hoá
12 Vậy, đừng để tội lỗi thống trị thể xác băng hoại của anh em, đừng chiều đãi những thèm muốn của thể xác.
13 Đừng để phần nào của thể xác anh em làm dụng cụ ô uế cho tội lỗi, nhưng hãy dâng trọn thể xác cho Thượng Đế như người từ cõi chết sống lại để làm dụng cụ tinh khiết cho Ngài.
14 Tội lỗi không thống trị anh em nữa, vì anh em không còn bị luật pháp trói buộc, nhưng được hưởng ân phúc của Thượng Đế.
15 Đã hưởng ân phúc Thượng Đế và thoát khỏi luật pháp, chúng ta còn phạm tội không? Tuyệt đối không!
16 Anh em không biết khi chịu làm nô lệ cho ai, là chỉ được phục dịch người chủ đó sao? Vậy anh em chỉ có thể chọn, hoặc làm nô lệ cho tội lỗi để rồi chết mất, hoặc tình nguyện vâng phục Thượng Đế để được tha tội và sống đời đời.
17 Tạ ân Thượng Đế, anh em trước kia vốn làm nô lệ cho tội lỗi, nhưng nay đã thành tâm vâng phục các lời giáo huấn của Chúa,
18 nên anh em được thoát ách nô lệ tội lỗi, để “làm nô lệ” lẽ công chính.
19 Tôi diễn tả theo lối nói thông thường để giúp anh em nhận thức dễ dàng. Trước kia anh em đem thân làm nô lệ cho tội lỗi ô uế, ngày nay hãy dâng thân ấy “làm nô lệ” cho lẽ công chính, thánh khiết.
20 Khi còn làm nô lệ cho tội lỗi, đối với lẽ công chính, anh em được tự do.
21 Như thế, anh em nhận được kết quả gì? Chỉ có những kết quả nhuốc nhơ mà ngày nay anh em còn hổ thẹn. Vì kết cuộc của mọi điều ấy chỉ là cái chết.
22 Nhưng ngày nay anh em được giải thoát khỏi tội lỗi, để “làm nô lệ” cho Thượng Đế, kết quả là được thánh hoá, và cuối cùng được sống vĩnh cửu.
23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Thượng Đế là đời sống vĩnh cửu trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.
Người tin Chúa được giải phóng khỏi luật pháp
1 Đã thông hiểu luật pháp, anh em thừa biết luật pháp chỉ có hiệu lực đối với con người khi còn sống.
2 Thí dụ người đàn bà có chồng, luật pháp ràng buộc nàng với chồng suốt thời gian chồng còn sống; nhưng theo luật, sau khi chồng chết, nàng không còn bị ràng buộc với chồng nữa.
3 Nếu lấy người khác khi chồng còn sống, là phạm tội ngoại tình; nhưng khi chồng chết, nàng có quyền lấy chồng khác; luật pháp không còn ràng buộc hay lên án.
4 Thưa anh em, trường hợp anh em cũng thế. Đối với luật pháp, anh em đã chết trên cây thập tự với Chúa Cứu Thế. Ngày nay anh em thuộc về Chúa Phục sinh, nhờ đó, anh em kết quả tốt đẹp cho Thượng Đế.
5 Khi chúng ta còn sống theo bản tính cũ, những ham muốn tội lỗi do luật pháp khích động, đã hoành hành trong thể xác, kết quả là cái chết.
6 Ngày nay, chúng ta được giải thoát khỏi sự trói buộc của luật pháp, vì đối với luật pháp chúng ta đã chết, để được tự do phục vụ Thượng Đế theo cách mới của tâm linh, chứ không theo lối cũ của luật pháp.
Vai trò của luật pháp
7 Nói thế, có phải luật pháp là tội lỗi không? Tuyệt đối không! Luật pháp không phải là tội nhưng dạy tôi biết điều gì là tội. Tôi không biết tham muốn là tội, nếu luật pháp không dạy: “Con đừng tham muốn”.
8 Nhưng tội lỗi lợi dụng điều răn nầy để đánh thức mọi thứ tham muốn xấu xa dồn ép trong tôi. Vậy tội lỗi sẽ chết nếu không có luật pháp.
9 Khi chưa có luật pháp, tôi sống, nhưng khi có luật pháp rồi, tội lỗi vùng dậy giết tôi.
10 Tôi nhận thấy đáng lẽ điều răn chỉ dẫn con đường sống, lại đưa tôi vào cõi chết.
11 Vì tội lỗi đã lợi dụng điều răn để lừa dối tôi, và nhân đó giết tôi.
12 Vậy, luật pháp và điều răn đều là thánh, đúng và tốt.
13 Như thế, điều tốt lại giết chết tôi sao? Không bao giờ! Đó là tội lỗi đã để lộ thực chất của nó khi mượn điều tốt đưa tôi vào cõi chết. Lợi dụng điều răn của Thượng Đế, tội lỗi thật quỷ quyệt hiểm độc vô cùng.
Cuộc tranh chấp nội tâm
14 Chúng ta biết luật pháp vốn linh thiêng - còn chúng ta chỉ là người trần tục yếu đuối, làm nô lệ cho tội lỗi.
15 Tôi không hiểu nổi hành động của mình: tôi không làm điều mình muốn, nhưng làm điều mình không muốn.
16 Khi làm điều mình không muốn, trong thâm tâm tôi đồng ý với luật pháp, nhìn nhận luật pháp là đúng.
17 Như thế không phải chính tôi làm quấy, nhưng tội lỗi chủ động trong tôi.
18 Tôi biết chẳng có điều gì tốt trong tôi cả - tôi muốn nói về bản tính cũ của tôi. Dù tôi ước muốn làm điều tốt, nhưng không thể nào thực hiện.
19 Tôi chẳng làm điều tốt mình muốn, lại làm điều xấu mình không muốn.
20 Khi tôi làm điều mình không muốn, không phải chính tôi làm nữa, nhưng tội lỗi chủ động trong tôi.
21 Do đó, tôi khám phá ra luật nầy: Khi muốn làm điều tốt, tôi lại làm điều xấu.
22 Dù trong thâm tâm, tôi vẫn yêu thích luật Thượng Đế,
23-25 nhưng có một luật khác trong thể xác tranh đấu với luật trong tâm trí, buộc tôi phục tùng luật tội lỗi đang chi phối thể xác tôi; vì tâm trí tôi tuân theo luật Thượng Đế, còn thể xác tôi phục tùng luật tội lỗi. Thật bất hạnh cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát ách nô lệ của thể xác tội lỗi hư hoại nầy? Tạ ân Thượng Đế, tôi được giải cứu nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.
Nếp sống mới trong Thánh Linh
1 Vậy, người thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ không bị kết tội nữa.
2 Vì luật của Thánh Linh hằng sống trong Chúa Cứu Thế Giê-xu đã giải phóng tôi khỏi luật của tội lỗi và sự chết.
3 Thượng Đế đã hoàn thành mọi điều luật pháp không thực hiện nổi, chỉ vì xác thịt mà luật pháp trở nên bất lực. Thượng Đế sai chính Con Ngài mang lấy hình hài thể xác giống như thể xác tội lỗi của loài người để tiêu diệt tội lỗi nơi xác thịt.
4 Nhờ thế, chúng ta trở nên người công chính, vô tội đúng như luật pháp đòi hỏi, vì chúng ta không sống theo xác thịt, nhưng theo Thánh Linh.
5 Người sống theo xác thịt hướng lòng về những đòi hỏi của xác thịt; người sống theo Thánh Linh chú tâm đến điều Thánh Linh đẹp lòng.
6 Người chiều theo xác thịt sẽ chết nhưng người vâng theo Thánh Linh sẽ được sống bình an.
7 Vì chiều theo xác thịt là chống lại Thượng Đế. Xác thịt không chịu vâng phục và không thể vâng phục luật Thượng Đế.
8 Người sống theo xác thịt không thể nào làm Thượng Đế vui lòng.
9 Tuy nhiên, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo Thánh Linh vì Thánh Linh Thượng Đế đang ngự trong lòng anh em. Người không có Thánh Linh của Chúa Cứu Thế dĩ nhiên không thuộc về Chúa Cứu Thế.
10 Nếu Chúa Cứu Thế sống trong anh em, dù thân thể anh em phải chết vì tội lỗi, tâm linh anh em lại sống vì được tha tội.
11 Thượng Đế đã làm cho Chúa Giê-xu sống lại từ cõi chết, nên một khi Thánh Linh Ngài sống trong anh em, Thượng Đế cũng sẽ khiến thi thể của anh em sống lại, do quyền năng Thánh Linh.
12 Thưa anh em, chúng ta chẳng có bổn phận gì đối với xác thịt để sống cho xác thịt.
13 Nếu sống cho xác thịt, anh em sẽ chết, nhưng nếu nhờ Thánh Linh giết chết những hành vi xấu của thể xác, anh em sẽ sống.
14 Những người được Thánh Linh của Thượng Đế hướng dẫn đều là con cái Thượng Đế.
15 Thánh Linh ngự trong anh em không bao giờ đem anh em trở về vòng nô lệ khủng khiếp của ngày xưa, nhưng Ngài đưa anh em lên địa vị làm con trưởng thành, nhờ thế anh em được gọi Thượng Đế bằng Cha.
16 Chính Thánh Linh xác nhận với tâm linh chúng ta rằng chúng ta là con cái Thượng Đế.
17 Đã là con trưởng thành, chúng ta được thừa hưởng cơ nghiệp Thượng Đế, và đồng kế nghiệp với Chúa Cứu Thế. Nếu chúng ta dự phần khổ đau với Chúa Cứu Thế, hẳn cũng dự phần vinh quang với Ngài.
Vinh quang tương lai
18 Tôi nghĩ rằng khổ đau hiện tại thật quá nhỏ mọn và ngắn ngủi khi đem so sánh với vinh quang lớn lao đời đời của chúng ta trong tương lai.
19-21 Vạn vật buộc phải ở trong tình trạng băng hoại nên đều khắc khoải mong chờ ngày con cái Chúa sống lại, để được giải thoát khỏi hư hoại, diệt vong và cùng hưởng tự do vinh quang với con cái Thượng Đế. Vì vạn vật dù không muốn, cũng đã bị lên án huỷ diệt.
22 Mãi đến ngày nay, vạn vật đều rên rỉ quằn quại vì đau đớn quá đỗi.
23 Chẳng riêng gì vạn vật, chính chúng ta, những người nhận lãnh Thánh Linh - một bằng chứng về vinh quang tương lai - cũng phải âm thầm than thở đang khi thiết tha mong đợi ngày được hưởng trọn quyền làm con Thượng Đế; lúc ấy thân thể chúng ta cũng được cứu, không còn hư hoại nữa.
24 Linh hồn chúng ta đã được cứu với niềm hy vọng đó. Nếu đã có rồi đâu cần hy vọng nữa, vì chẳng ai hy vọng sẽ được điều mình đang có.
25 Nếu chúng ta hy vọng điều mình chưa có, hẳn chúng ta phải nhẫn nại chờ đợi.
26 Cũng do niềm hy vọng đó, Thánh Linh bổ khuyết các nhược điểm của chúng ta. Chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào, nhưng chính Thánh Linh cầu thay cho chúng ta với những lời than thở không diễn tả được bằng tiếng nói loài người.
27 Thượng Đế là Đấng thấu hiểu lòng người cũng biết rõ tâm trí Thánh Linh vì Thánh Linh cầu thay cho chúng ta đúng theo ý chỉ Thượng Đế.
Chiến thắng trong tình yêu Chúa
28 Chúng ta biết mọi việc đều hợp lại làm ích cho người yêu mến Chúa, tức là những người được lựa chọn theo ý định của Ngài.
29 Vì Thượng Đế đã biết trước những người thuộc về Ngài, nên cũng chỉ định cho họ trở nên giống như Con Ngài; như vậy Chúa Cứu Thế là Con Trưởng giữa nhiều anh em.
30 Chúa kêu gọi những người Ngài chỉ định. Khi chúng ta đáp ứng, Chúa tha thứ tội lỗi, nhìn nhận chúng ta là công chính. Người công chính được hưởng vinh quang đời đời.
31 Trước chương trình kỳ diệu ấy, chúng ta còn biết nói gì? Một khi Thượng Đế đứng với chúng ta, còn ai dám chống lại chúng ta?
32 Thượng Đế đã không tiếc chính Con Ngài, nhưng hy sinh Con để cứu chúng ta, hẳn Ngài cũng sẽ ban cho chúng ta mọi sự luôn với Con Ngài.
33 Ai dám kiện cáo chúng ta là người Thượng Đế lựa chọn? Vì Thượng Đế đã tha tội chúng ta.
34 Ai dám kết án chúng ta? Vì Chúa Cứu Thế Giê-xu đã chịu chết, sống lại và hiện nay ngồi bên phải Thượng Đế, đang cầu thay cho chúng ta.
35 Ai có thể phân cách chúng ta với tình yêu thương của Chúa Cứu Thế? Phải chăng hoạn nạn, gian khổ, khủng bố, đói khát, trần truồng, nguy hiểm hay chết chóc?
36 Như Thánh Kinh đã ghi:
“Vì Chúa, mạng sống chúng tôi bị đe doạ suốt ngày Chúng tôi chẳng khác gì bầy chiên tại lò thịt”.
37 Nhờ Chúa yêu thương, chúng ta thừa sức chiến thắng tất cả.
38 Tôi biết chắc chắn không một điều nào có thể ngăn cách chúng ta với tình yêu thương của Thượng Đế. Dù cái chết hay cuộc sống, dù thiên sứ hay ác quỷ, dù tình hình hiện tại hay biến chuyển tương lai, dù quyền lực uy vũ,
39 dù trời cao, vực thẳm, dù bất cứ vật gì trong vũ trụ - cũng chẳng bao giờ phân cách nổi chúng ta với tình yêu thương của Thượng Đế đã thể hiện nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.
Dân được tuyển chọn
1 Tôi xin chân thành bộc bạch, trong Chúa Cứu Thế tôi không dám nói ngoa, có Thánh Linh chứng giám và lương tâm tôi xác nhận:
2 vì dân tộc, tôi buồn rầu quá đỗi, lòng tôi đau xót đêm ngày.
3 Tôi sẵn lòng chịu Chúa Cứu Thế khai trừ và bị khổ hình vĩnh cửu miễn là cứu vớt được anh em đồng bào ruột thịt.
4 Họ là dân tộc được Thượng Đế nhận làm con cái, chia sẻ vinh quang, kết lời giao ước. Ngài dạy họ luật pháp, cách thờ phượng và hứa cho họ nhiều ân huệ.
5 Họ là dòng dõi các vĩ nhân. Về phương diện thể xác, Chúa Cứu Thế cũng thuộc dòng dõi ấy. Nhưng Ngài vốn là Đấng Chí Cao, là Chân Thần đáng được chúc tụng muôn đời.
6 Chúa không bãi bỏ lời hứa của Ngài, vì không phải tất cả dòng dõi Y-sơ-ra-ên đều là người Y-sơ-ra-ên thật,
7 cũng không phải tất cả dòng dõi Áp-ra-ham đều được Thượng Đế lựa chọn. Chỉ Y-sác và dòng dõi đức tin mới thật sự là con cháu Áp-ra-ham và được hưởng lời hứa.
8 Điều nầy có nghĩa: không phải con dòng cháu giống của Áp-ra-ham là con cái Thượng Đế, nhưng chỉ dòng dõi đức tin mới thật sự là con cái Ngài.
9 Thượng Đế đã hứa: “Năm tới vào lúc nầy Ta sẽ trở lại và Sa-ra sẽ có con trai”.
10 Hơn nữa, khi Rê-bê-ca, vợ Y-sác đang có thai,
11 lúc hai con chưa sinh ra, chưa biết làm điều tốt điều xấu, Thượng Đế đã chứng tỏ ý định lựa chọn của Ngài.
12 Ngài không lựa chọn theo công đức của hai người, nhưng theo ý muốn Ngài. Chúa bảo Rê-bê-ca: “Đứa lớn sẽ phục dịch đứa nhỏ”.
13 Như Thánh Kinh viết: “Ta yêu Gia-cốp, nhưng ghét Ê-sau”.
14 Vậy có phải Thượng Đế bất công không? Chẳng bao giờ!
15 Vì Ngài dạy Mai-sen:
“Ta sẽ nhân từ với kẻ Ta muốn nhân từ Và thương xót kẻ Ta muốn thương xót”.
16 Như thế, việc lựa chọn của Thượng Đế không tuỳ thuộc ý muốn hay sức cố gắng của con người, nhưng do lòng nhân từ Ngài.
17 Thánh Kinh cũng ghi chép trường hợp một vua Ai-cập: “Ta cất nhắc ngươi lên ngai để chứng tỏ quyền năng của Ta đối với ngươi, và nhân đó, Danh Ta được truyền ra khắp đất”.
18 Vậy, Thượng Đế tỏ lòng nhân từ đối với người nầy hoặc làm cứng lòng kẻ khác tuỳ ý Ngài.
19 Có người sẽ hỏi: “Đã thế, sao Thượng Đế còn khiển trách, vì ai chống cự được ý Ngài?”
20 Nầy, bạn là ai mà dám chất vấn Thượng Đế? Lẽ nào một chiếc bình bằng đất dám hỏi người thợ gốm: “Sao ông nặn ra tôi thế nầy?”
21 Người thợ gốm chẳng có quyền dùng một miếng đất sét nặn ra chiếc bình nầy dùng vào việc sang trọng, và chiếc bình kia dùng vào việc tầm thường sao?
22 Cũng thế, lẽ nào Thượng Đế chẳng có quyền biểu lộ cơn phẫn nộ, chứng tỏ uy quyền của Ngài đối với những kẻ tội lỗi đáng huỷ diệt, mà Ngài đã kiên tâm chịu đựng sao?
23 Chúa không có quyền bày tỏ vinh quang rực rỡ của Ngài cho những người đáng thương xót được chuẩn bị từ trước để hưởng vinh quang với Ngài sao?
24 Chính chúng ta là những người được Chúa lựa chọn, bao gồm cả người Do-thái lẫn các dân tộc.
25 Đúng như lời Ngài dạy trong sách tiên tri Ô-sê:
“Ta sẽ gọi họ là “dân Ta” dù họ chẳng phải dân Ta Ta sẽ gọi họ là “người yêu dấu” dù họ chẳng từng được yêu dấu”.
26 và:
“Đáng lẽ phải nói với họ: Các ngươi chẳng phải dân Ta, Thì Ta sẽ gọi họ là con cái Thượng Đế Hằng sống”.
27 Tiên tri Ê-sa đã than thở về dân Y-sơ-ra-ên:
“Dù dòng dõi Y-sơ-ra-ên đông như cát bờ biển, chỉ một số ít người được cứu.
28 Vì Chúa sẽ nhanh chóng thi hành án phạt khắp thế giới”.
29 Ê-sa cũng đã nói:
“Nếu Chúa Toàn Năng không chừa lại cho chúng ta một vài hậu tự,
Hẳn chúng ta đã bị tuyệt diệt như Sô-đôm và Gô-mô“.
Dân Y-sơ-ra-ên đối với Phúc âm
30 Vậy, chúng ta sẽ nói thế nào? Trong khi các dân tộc khác không tìm cầu lẽ công chính, thì Thượng Đế cho họ cơ hội đạt tới bậc công chính nhờ đức tin.
31 Còn dân Y-sơ-ra-ên cố gắng vâng giữ luật pháp để được nhìn nhận là người công chính, lại không đạt được.
32 Tại sao? Vì họ cậy công đức theo luật pháp, chứ không nhờ đức tin nên họ vấp phải hòn đá chướng ngại.
33 Thượng Đế đã cảnh cáo họ trong Thánh Kinh:
“Nầy, Ta đặt tại Si-ôn một Hòn Đá chướng ngại, một Tảng Đá khiến nhiều người vấp ngã. Nhưng ai tin Ngài sẽ không thất vọng”.
1 Thưa anh em, lòng tôi hằng ao ước và tôi luôn cầu xin Thượng Đế cứu dân Y-sơ-ra-ên.
2 Tôi xin xác nhận, tuy họ có nhiệt tâm với Thượng Đế, nhưng nhiệt tâm đó dựa trên hiểu biết sai lầm.
3 Họ không biết đường lối Thượng Đế vạch sẵn cho con người đến bậc công chính, lại cố gắng lập công đức theo luật pháp chứ không theo đường lối Ngài.
4 Vì Chúa Cứu Thế đã xuống đời để chấm dứt thời kỳ luật pháp, từ đây ai tin nhận Ngài, đều được kể là công chính.
Sự cứu rỗi dành cho mọi người
5 Mai-sen đã viết về sự công chính do luật pháp: “Người nào làm theo mọi điều luật pháp dạy bảo, sẽ nhờ đó được sống”
6 Nhưng sự công chính do đức tin bao hàm ý nghĩa khác: “Đừng tưởng con phải lên trời đem Chúa Cứu Thế xuống,
7 cũng đừng nghĩ con phải xuống Âm phủ rước Chúa Cứu Thế lên”
8 Bởi vì “Đạo rất gần con. Đạo ở ngay trong miệng, trong lòng con”. Đó là Đạo đức tin chúng tôi hằng công bố: Nếu miệng anh em xưng nhận Giê-xu là Chúa, và lòng anh em tin Thượng Đế đã khiến Ngài sống lại thì anh em được cứu rỗi.
10 Vì do lòng tin, anh em được kể là người công chính, và do miệng xưng nhận Ngài, anh em được cứu rỗi.
11 Thánh Kinh đã viết: “Ai tin Ngài sẽ không thất vọng”,
12 không phân biệt người Do-thái hay người nước ngoài, vì chỉ có một Chúa chung cho mọi người. Chúa giáng phúc dồi dào cho người cầu xin Ngài.
13 Vì “tất cả những người kêu cầu danh Chúa đều được cứu rỗi”.
14 Nhưng nếu họ chưa tin Chúa thì kêu cầu Ngài sao được? Nếu chưa nghe nói về Ngài, làm sao biết mà tin? Nếu không có người truyền giảng thì nghe cách nào?
15 Nếu không được sai phái thì ai đi truyền giảng? Nên Thánh Kinh ghi nhận: “Bàn chân người đi truyền giảng Phúc âm thật xinh đẹp biết bao!”
16 Tuy nhiên, chẳng phải mọi người nghe Phúc âm đều tin nhận, như Ê-sa đã nói: “Thưa Chúa, ai chịu tin lời giảng của chúng con?”
17 Cho nên, người ta tin Chúa nhờ nghe giảng và họ nghe khi Đạo Chúa được công bố.
18 Tôi xin hỏi: Họ chưa nghe Đạo Chúa sao? Thưa, họ nghe rồi, như Thánh Kinh viết:
“Đạo Chúa được công bố khắp nơi Truyền đến mọi dân tộc khắp đất”
19 Tôi xin hỏi tiếp: Người Y-sơ-ra-ên chưa hiểu biết sao? Trước hết, Mai-sen xác nhận:
“Ta sẽ làm cho họ ghen tức với những người không đáng gọi là dân tộc Họ sẽ giận dữ vì các dân dại dột, kém cỏi”
20 Ê-sa cũng đã quả quyết:
“Kẻ chẳng tìm kiếm, Chúa cho họ gặp Ngài, Kẻ chẳng hỏi han, Chúa cho họ biết Ngài”
21 Còn về dân Y-sơ-ra-ên, ông viết:
“Suốt ngày Chúa vẫn đưa tay chờ đợi dân tộc phản nghịch, ngoan cố ấy”.
Số người Y-sơ-ra-ên được cứu
1 Vậy, Thượng Đế đã hoàn toàn từ bỏ dân Ngài sao? Chẳng bao giờ! Chính tôi cũng là người Y-sơ-ra-ên, dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc đại tộc Bên-gia-min.
2 Thượng Đế chẳng từ bỏ dân tộc Ngài đã lựa chọn từ trước. Anh em còn nhớ trong Thánh Kinh, tiên tri Ê-li than phiền với Chúa về dân Y-sơ-ra-ên:
3 "Thưa Chúa, họ đã giết các tiên tri Ngài, phá đổ bàn thờ Ngài. Chỉ còn một mình con trốn thoát, họ cũng đang tìm giết con”.
4 Thượng Đế đáp: “Ta đã dành sẵn cho Ta bảy ngàn người không chịu quỳ lạy Ba-anh”.
5 Ngày nay cũng thế, vẫn có một số ít người Do-thái được Thượng Đế lựa chọn, do ân phúc của Ngài.
6 Đã gọi là “ân,” tất nhiên không do việc làm hay công đức của họ, vì nếu thế, đâu còn là “ân” nữa.
7 Vậy, hầu hết dân Y-sơ-ra-ên không đạt được điều họ tìm kiếm, chỉ một thiểu số do Thượng Đế lựa chọn đạt đến mà thôi; số còn lại, lòng cứng cỏi, chai đá,
8 như Thánh Kinh đã chép:
“Thượng Đế làm cho tâm trí họ tối tăm, mắt không thấy, tai không nghe” cho đến ngày nay.
9 Vua Đa-vít cũng nói:
“Nguyện yến tiệc của họ biến thành lưới bẫy, nơi họ sa chân vấp ngã và bị hình phạt!
10 Nguyện mắt họ bị mờ tối chẳng nhìn thấy gì, và lưng họ còng xuống mãi!”
11 Tôi xin hỏi tiếp: Người Y-sơ-ra-ên có vấp ngã nặng đến mức bị Thượng Đế hoàn toàn loại bỏ không? Thưa không! Nhưng vì họ vấp phạm, Thượng Đế đem ân cứu rỗi cho các dân tộc khác, để khích động lòng ganh đua của họ.
12 Nếu lỗi lầm của họ đem hạnh phúc cho nhân loại và khuyết điểm của họ giúp các dân tộc hưởng ân cứu rỗi, thì khi họ quay về với Chúa, ân phúc mọi người hưởng được sẽ dồi dào biết bao!
Các dân tộc được cứu
13 Tôi xin ngỏ lời cùng anh em ngoại quốc, vì chính tôi là sứ đồ của các dân tộc nước ngoài - tôi thật vinh dự với chức vụ nầy -
14 tôi ước mong công tác tôi giữa anh em sẽ kích thích lòng ganh đua của dân tộc tôi, nhân đó một số đồng bào tôi được cứu.
15 Nếu việc họ bị Thượng Đế tạm thời loại bỏ giúp cho nhân loại được hoà thuận với Ngài, thì khi họ được Ngài tiếp nhận, hậu quả sẽ diệu kỳ chẳng khác gì người chết sống lại.
16 Nếu trái đầu mùa là thánh, cả mùa cũng thánh, nếu rễ cây là thánh, cành cây cũng thánh.
17 Một số cành cây ô-liu trong vườn đã bị cắt bỏ, để cho anh em là cây ô-liu hoang được tháp vào, và được rễ cây hút mầu mỡ nuôi dưỡng.
18 Anh em đừng vội tự hào vì được thay thế các cành kia, hãy nhớ luôn anh em chỉ là cành, phải nhờ rễ nuôi dưỡng.
19 Anh em nói: Các cành kia bị cắt đi cốt để tôi được tháp vào.
20 Phải, họ bị loại bỏ vì không tin còn anh em tồn tại nhờ đức tin. Chớ tự kiêu nhưng hãy kinh sợ.
21 Nếu Thượng Đế đã không tiếc các cành nguyên trong cây, Ngài cũng không tiếc cành tháp.
22 Hãy ghi nhớ, Thượng Đế nhân từ nhưng nghiêm minh. Chúa nghiêm minh với người vấp ngã nhưng nhân từ với anh em, khi anh em biết cẩn trọng giữ mình trong sự nhân từ của Ngài, nếu không anh em cũng bị cắt bỏ.
23 Còn họ, nếu từ bỏ lòng cứng cỏi, tin nhận Chúa Cứu Thế, Ngài sẽ tháp họ vào chỗ cũ, vì Thượng Đế thừa khả năng làm việc đó.
24 Nếu anh em, theo bản chất chỉ là cành ô-liu hoang, còn được cắt và tháp vào cây ô-liu vườn trái hẳn bản chất mình, huống chi họ đúng bản chất là ô-liu vườn, sao lại không được tháp vào gốc cũ?
Lòng thương của Thượng Đế bao gồm tất cả các dân tộc
25 Thưa anh em, tôi muốn anh em biết rõ huyền nhiệm nầy, để anh em khỏi tự phụ: Một thành phần dân Y-sơ-ra-ên cứng lòng không tin cho đến chừng các dân tộc khác gia nhập vào đủ số.
26 Vậy cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, như Thánh Kinh chép:
“Vị Cứu Tinh sẽ đến từ Si-ôn. Loại bỏ những điều vô đạo ra khỏi nhà Gia-cốp”
27 “Và đây là giao ước Ta lập với họ, Tội lỗi họ sẽ được Ta tha thứ”.
28 Xét theo phương diện Phúc âm, họ là kẻ thù của Phúc âm, nên anh em được cứu rỗi, nhưng xét theo khía cạnh tuyển chọn, họ là người yêu dấu của Thượng Đế, vì Ngài lựa chọn tổ phụ họ.
29 Vì sự ban tặng và kêu gọi của Thượng Đế chẳng hề thay đổi.
30 Như anh em trước kia không vâng phục Thượng Đế, mà nay được ân khoan hồng, nhờ họ không vâng phục Ngài.
31 Cũng thế, ngày nay họ không vâng phục Thượng Đế, nhưng nhờ anh em nhận ân khoan hồng mà họ cũng được khoan hồng.
32 Vì Thượng Đế đã đặt mọi người vào địa vị không vâng phục, để tỏ ân khoan hồng cho cả nhân loại.
Ca ngợi Thượng Đế
33 Ôi, tri thức và khôn ngoan của Thượng Đế thật phong phú, sâu xa vô tận! Cách Ngài phán đoán chẳng ai dò biết được, Đường lối Ngài chẳng ai tìm hiểu được.
34 Nào ai biết được ý tưởng Chúa. Ai có thể làm cố vấn cho Ngài?
35 Ai dâng hiến cho Chúa trước Để để về sau được Ngài đền báo ?
36 Vì muôn vật do Chúa sáng tạo, đều tồn tại nhờ Ngài và vì Ngài. Nguyện vinh quang vĩnh viễn thuộc về Ngài! Thành tâm sở nguyện!
Sinh tế sống
1 Do lòng thương xót của Thượng Đế, tôi nài khuyên anh em dâng thân thể mình cho Thượng Đế như một sinh tế sống và thánh, đẹp lòng Ngài. Đó là cách thờ phượng đích thực của người theo Chúa.
2 Đừng đồng hoá với người đời, nhưng hãy để Chúa đổi mới tâm trí mình; nhờ đó anh em có thể tìm biết ý muốn của Thượng Đế, và hiểu rõ điều gì tốt đẹp, trọn vẹn, hài lòng Ngài.
3 Do ân phúc Thượng Đế ban, tôi khuyên anh em đừng có những ý nghĩ quá cao về mình, nhưng mỗi người phải khiêm tốn tự xét đúng theo mức độ đức tin Thượng Đế ban cho mình.
4 Thân thể chúng ta có nhiều chi thể, mỗi chi thể giữ một chức phận khác nhau.
5 Cũng thế, trong Chúa Cứu Thế tất cả chúng ta hợp làm một thân thể, và các chi thể đều tuỳ thuộc lẫn nhau.
6 Thượng Đế ban ân tứ cho chúng ta mỗi người một khác. Người có ân tứ nói tiên tri, hãy nói theo đức tin mình;
7 ai phục dịch hãy hăng hái phục dịch, ai dạy dỗ hãy chuyên tâm dạy dỗ;
8 ai khích lệ hãy tận tình khích lệ; ai cứu tế hãy dâng hiến rộng rãi; ai lãnh đạo hãy tận tâm lãnh đạo, ai an ủi người đau khổ, hãy hết lòng an ủi.
Yêu thương
9 Tình yêu thương phải chân thành. Phải ghét bỏ điều ác và gắn bó điều thiện.
10 Hãy yêu thương nhau tha thiết như anh em ruột thịt; phải kính trọng nhau.
11 Phải siêng năng làm việc, đừng biếng nhác; phải hầu việc Chúa với tinh thần hăng hái.
12 Hãy vui mừng trong niềm hi vọng, nhẫn nại lúc gặp hoạn nạn và bền lòng cầu nguyện.
13 Hãy chia cơm sẻ áo cho các tín hữu, hãy tiếp đãi tân khách.
14 Hãy cầu phúc cho những người bức hại anh em, chớ nguyền rủa họ.
15 Hãy vui với người đang vui, khóc với người đang khóc.
16 Hãy đối xử với mọi người như nhau. Chớ có tư tưởng kiêu kỳ, nhưng phải khiêm tốn hoà mình với những người tầm thường. Đừng cho mình là khôn ngoan.
17 Đừng lấy ác báo ác. Hãy thực hành điều thiện trước mặt mọi người.
18 Phải cố sức sống hoà bình với mọi người.
19 Anh em yêu dấu, đừng báo thù nhưng cứ để cho Thượng Đế báo ứng, vì Thánh Kinh đã ghi: “Chúa dạy: Báo ứng là việc của Ta, Ta sẽ thưởng phạt”.
20 Nhưng: “Nếu kẻ thù con có đói, nên mời ăn, có khát, hãy cho uống; làm như thế chẳng khác gì con lấy than hồng chất lên đầu họ”.
21 Đừng để điều ác khắc phục mình, nhưng phải lấy điều thiện thắng điều ác.
Vâng phục chính quyền
1 Mọi người phải vâng phục chính quyền vì chẳng có chính quyền nào không do Thượng Đế thiết lập.
2 Vậy ai chống chính quyền là chống lại mệnh lệnh Thượng Đế và sẽ bị hình phạt.
3 Nhà cầm quyền không khiến cho người lương thiện kinh hãi, nhưng người gian ác phải lo sợ. Muốn khỏi sợ hãi nhà cầm quyền, anh em cứ làm điều ngay thẳng, thì họ sẽ khen ngợi anh em.
4 Họ là những người Thượng Đế sai phái để giúp anh em làm điều thiện; nhưng nếu anh em làm điều ác, hãy lo sợ, vì không thể trốn tránh hình phạt. Thượng Đế dùng họ để phạt kẻ làm ác.
5 Vậy, phải vâng phục chính quyền, chẳng những để khỏi bị hình phạt nhưng cũng vì lương tâm.
6 Do đó, anh em nộp thuế, vì nhà cầm quyền phục dịch Thượng Đế khi họ thi hành nhiệm vụ.
7 Phải trả hết mọi thứ nợ: trả thuế cho nhân viên thuế vụ, nộp quan thuế cho nhân viên quan thuế, kính sợ người đáng kính sợ, tôn trọng người đáng tôn trọng.
Yêu thương và luật pháp
8 Đừng mắc nợ ai gì hết, trừ món nợ yêu thương. Vì yêu thương nhau là giữ trọn luật pháp.
9 Các điều răn: Chớ gian dâm, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ tham muốn...và tất cả những điều răn khác đều tóm tắt trong câu: “Hãy yêu người đồng loại như chính bản thân”.
10 Tình yêu thương chẳng làm hại đồng loại, vậy yêu thương là giữ trọn luật pháp.
Thức canh chờ Chúa đến
11 Hơn nữa, đã đến lúc anh em phải thức tỉnh, vì ngày hoàn thành sự cứu rỗi gần đến, gần hơn lúc ta mới tin Chúa.
12 Đêm sắp qua, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy từ bỏ việc xấu xa trong đêm tối để làm việc công chính dưới ánh sáng.
13 Phải ăn ở xứng đáng như sinh hoạt giữa ban ngày. Đừng chè chén say sưa, truỵ lạc phóng đãng; đừng tranh giành, ganh ghét.
14 Hãy để Chúa Cứu Thế Giê-xu bảo bọc anh em như áo giáp. Đừng chiều theo các ham muốn của xác thịt.
Người mạnh và người yếu
1 Anh em hãy tiếp nhận các tín hữu còn yếu đức tin, đừng chỉ trích họ.
2 Có người tin mình ăn được mọi thức ăn; có người yếu đức tin chỉ ăn rau mà thôi.
3 Người ăn được mọi món đừng khinh bỉ người không ăn, và người không ăn cũng đừng lên án người ăn, vì Thượng Đế đã nhận họ làm con cái Ngài.
4 Anh em là ai mà phê phán các tôi tớ của Chúa? Họ làm đúng hay sai, thành công hay thất bại đều thuộc thẩm quyền của Chúa. Nhưng nhờ Chúa giúp đỡ, họ sẽ thành công.
5 Có người muốn giữ các ngày lễ theo luật pháp Mai-sen, người khác xem mọi ngày như nhau, vì đều là ngày của Chúa. Điều nầy mỗi người nên tự mình thẩm định.
6 Người giữ lễ nhằm mục đích thờ phượng Chúa. Người ăn muốn tôn vinh Chúa, vì tạ ân Ngài cho thức ăn. Người không ăn, cũng nhằm mục đích tôn vinh Chúa và tạ ân Ngài.
7 Vì người tin Chúa không ai còn sống cho mình, hoặc chết cho mình cả.
8 Chúng ta sống cho Chúa; nếu được chết, cũng chết cho Chúa. Vậy, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa.
9 Vì Chúa Cứu Thế đã chết và sống lại để tể trị, sử dụng đoán mọi người, dù còn sống hay đã chết.
10 Tại sao còn dám chỉ trích hoặc khinh bỉ anh em mình? Đừng quên tất cả chúng ta đều sẽ bị xét xử trước Toà án của Thượng Đế.
11 Thánh Kinh chép:
“Chúa phán: Ta hằng sống,
Mọi đầu gối sẽ quỳ xuống trước mặt Ta,
Và mọi lưỡi sẽ ca tụng Thượng Đế”.
12 Như thế, mỗi chúng ta đều sẽ khai trình mọi việc trong đời mình cho Thượng Đế.
13 Vậy, anh em nên chấm dứt việc chỉ trích phê phán nhau, nhưng hãy quyết định không tạo chướng ngại cho anh em mình vấp ngã.
14 Nhờ Chúa Giê-xu chỉ dạy, tôi biết chắc không một thức ăn nào có bản chất ô uế, nhưng nếu có người cho là ô uế, thì chỉ ô uế đối với người đó.
15 Nếu thức ăn của anh em làm cho một tín hữu bị tổn thương, anh em không hành động theo tình yêu thương nữa. Đừng để thức ăn của anh em huỷ diệt người được Chúa Cứu Thế chịu chết thay.
16 Đừng để việc tốt của anh em làm cớ cho người ta chỉ trích.
17 Điều thiết yếu trong Nước của Thượng Đế không phải là ăn uống, nhưng là sống công chính, bình an và vui vẻ trong Thánh Linh.
18 Người nào phục vụ Chúa Cứu Thế theo tinh thần đó, sẽ được Thượng Đế hài lòng và người ta tán thưởng.
19 Vậy, chúng ta hãy cố gắng thực hiện sự hoà hợp trong Hội thánh, và gây dựng lẫn nhau.
20 Đừng để thức ăn làm hỏng việc của Thượng Đế. Mọi thức ăn đều tinh khiết, nhưng ăn uống mà gây cho người khác vấp phạm thì thật xấu.
21 Tốt hơn là đừng ăn thịt, uống rượu hoặc làm gì cho anh em mình vấp phạm.
22 Điều gì anh em tin là đúng, hãy giữ cho mình; Thượng Đế chấp thuận là đủ. Phúc cho người không bị lương tâm lên án khi làm điều mình biết là phải.
23 Còn những người đã nghi điều gì quấy mà vẫn làm, là có tội: vì đối với họ, đó là điều sai lầm. Mọi việc, nếu không tin là đúng mà vẫn làm, là có tội.
Lòng ưu ái với anh em tín hữu
1 Dù có lòng tin vững mạnh, chúng ta cũng không nên làm thoả lòng mình, nhưng phải lưu tâm nâng đỡ người kém đức tin.
2 Mỗi chúng ta phải làm vui lòng anh em mình, để giúp ích và xây dựng cho họ.
3 Chính Chúa Cứu Thế cũng không làm thoả lòng mình như Thánh Kinh đã viết: “Tôi hứng chịu mọi lời sỉ nhục của kẻ thù nghịch Chúa”.
4 Tất cả những lời ghi chép trong Thánh Kinh cốt để dạy dỗ an ủi chúng ta, rèn luyện tính kiên nhẫn và đem lại cho chúng ta niềm hy vọng tràn đầy.
5 Cầu xin Thượng Đế Kiên nhẫn và An ủi ban cho anh em tinh thần hợp nhất theo gương Chúa Cứu Thế Giê-xu,
6 để anh em một lòng một miệng ca ngợi Thượng Đế là Cha Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.
Phúc âm cho tất cả các dân tộc
7 Vậy, anh em hãy tiếp nhận nhau như Chúa Cứu Thế đã tiếp nhận chúng ta, để Thượng Đế được tôn vinh.
8 Tôi xin thưa, Chúa Cứu Thế đã đến phục vụ giữa người Do-thái để chứng tỏ đức chân thật của Thượng Đế:thực hiện lời hứa với tổ phụ họ.
9 Chúa cũng cứu rỗi các dân tộc khác để họ ca ngợi Thượng Đế vì tình thương của Ngài, như Thánh Kinh đã ghi:
“Vì thế, tôi sẽ tôn vinh Chúa giữa các nước, Và ca ngợi Danh Ngài”
10 “Các nước hãy chung vui với dân Chúa”.
11 Và “Tất cả các nước, hãy tôn vinh Chúa Tất cả các dân tộc, hãy ca tụng Ngài”
12 Tiên tri Ê-sa cũng đã nói:
“Hậu tự nhà Gie-sê sẽ xuất hiện để cai trị các dân tộc, Và họ sẽ đặt hy vọng nơi Ngài”.
13 Cầu xin Thượng Đế Hy vọng cho anh em tràn ngập vui mừng và bình an khi anh em tin cậy Ngài, nhờ đó lòng anh em chứa chan hy vọng do quyền năng của Chúa Thánh Linh.
Sứ đồ của các dân tộc
14 Thưa anh em, tôi biết chắc anh em thừa hảo tâm và kiến thức, nên có thể tự khuyên bảo lẫn nhau.
15 Tuy nhiên, viết cho anh em, tôi nhấn mạnh một vài điều chỉ để nhắc nhở anh em. Bởi ân phúc Thượng Đế đã dành cho tôi,
16 tôi được chọn làm sứ giả của Chúa Cứu Thế giữa các dân tộc để công bố Phúc âm của Thượng Đế. Nhờ đó, các dân tộc ấy được dâng lên cho Thượng Đế như một lễ vật đẹp lòng Ngài do Thánh Linh thánh hoá.
17 Vì thế, tôi lấy làm vinh dự được phục vụ Thượng Đế, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu.
18 Tôi chẳng dám nói điều gì ngoài việc Chúa Cứu Thế đã dùng tôi dìu dắt người nước ngoài trở về đầu phục Thượng Đế. Chúa dùng lời giảng, việc làm của tôi,
19 dùng quyền năng các dấu lạ và phép lạ; tất cả đều do quyền năng Thánh Linh thực hiện. Nhờ thế, tôi đã chu toàn nhiệm vụ truyền bá Phúc âm của Chúa Cứu Thế từ Giê-ru-sa-lem cho đến Nam-tư.
20 Vì ước nguyện của tôi là công bố Phúc âm tại những miền chưa nghe Danh Chúa Cứu Thế, để khỏi xây dựng trên nền tảng của người khác.
21 Như Thánh Kinh dạy:
“Người chưa được thông báo về Chúa sẽ thấy Ngài Và người chưa nghe sẽ hiểu Ngài”.
Dự định qua thủ đô La-mã
22 Cũng vì lý do ấy, tôi bị ngăn trở nhiều lần, chưa đến thăm anh em.
23 Nhưng hiện nay, công tác tại miền nầy đã xong. Theo lòng mong mỏi đến thăm anh em từ nhiều năm nay,
24 tôi hy vọng trong chuyến đi Tây-ban-nha, sẽ ghé thăm anh em cho thoả lòng mong ước, rồi anh em lại tiễn tôi lên đường.
25 Nay tôi đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem để trao tặng phẩm cho các tín hữu.
26 Vì Hội thánh ở Ma-xê-đoan và Hy-lạp đã vui lòng quyên trợ các tín hữu túng thiếu tại Giê-ru-sa-lem.
27 Họ vui vẻ đóng góp vì tự biết mình mắc nợ tinh thần. Được tín hữu Giê-ru-sa-lem chia sẻ hạnh phúc tâm linh, người nước ngoài tự thấy có bổn phận chia sớt lại của cải vật chất.
28 Sau khi hoàn thành công tác, trao xong mọi phẩm vật quyên trợ, tôi sẽ lên đường đến thăm anh em trong chuyến đi Tây-ban-nha.
29 Chắc chắn tôi sẽ đem phúc lành dồi dào của Chúa Cứu Thế đến cho anh em.
30 Thưa anh em, tôi nài khuyên anh em, do Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta và do tình yêu thương trong Thánh Linh, hãy cùng tôi hết sức khẩn nguyện Thượng Đế,
31 xin Ngài cho tôi tránh thoát cạm bẫy hãm hại của người không tin Chúa Cứu Thế ở xứ Giu-đê, cho công việc tôi tại Giê-ru-sa-lem được anh em tín hữu vui lòng chấp nhận,
32 và đẹp ý Chúa, cho tôi đến thăm anh em cách vui vẻ, và chúng ta cùng được phấn khởi.
33 Cầu xin Thượng Đế Bình an ở với tất cả anh em.
Lời chào thân ái
1 Tôi xin giới thiệu chị Phê-bê, nữ chấp sự Hội thánh Sơn-khê.
2 Xin anh em đón tiếp chị trong tình yêu thương của Chúa, nồng nhiệt hoan nghênh một chị em trong Chúa, sẵn sàng giúp chị mọi điều, vì chị đã giúp đỡ nhiều người, kể cả tôi nữa.
3 Tôi xin kính chào chị Bích-xinh-la và A-qui-la, bạn đồng sự của tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.
4 Họ đã liều mạng sống vì tôi; chẳng những riêng tôi, mà tất cả Hội thánh các nước ngoài đều tri ân.
5 Cũng xin kính lời thăm Hội thánh nhóm họp tại nhà họ. Xin gửi lời thăm Ê-ba-ni, bạn yêu dấu của tôi, và là người tin Chúa đầu tiên tại Tiểu Á.
6 Kính chào Ma-ri, người có nhiều công khó với anh em.
7 Kính chào Anh-đô-ni và Giu-ni, bà con của tôi, cũng là bạn tù với tôi. Họ tin Chúa trước tôi và từng được các sứ đồ khen ngợi.
8 Kính chào Am-phi-a, bạn yêu dấu của tôi trong Chúa.
9 Kính chào U-ra-ban, bạn đồng sự với chúng tôi trong Chúa Cứu Thế, và Ê-ta-chu, bạn yêu dấu của tôi.
10 Kính chào A-bên-lơ, người được Chúa Cứu Thế chấp thuận. Kính chào gia đình A-ri-bu.
11 Kính chào Hê-rơ-đôn, bà con của tôi, và các tín hữu trong gia đình Na-xy.
12 Kính chào Tri-pha-na và Tri-phô-sa, hai người có công khó phục vụ Chúa. Kính chào Bạch-xích, bạn yêu dấu, đã dày công phục vụ Chúa.
13 Kính chào Lư-phúc, người được Chúa lựa chọn, và mẹ Lư-phúc, cũng là mẹ tôi.
14 Kính chào A-thanh-thi, Pha-lê-ga, Hao-my, Ba-thu-ba, Hạc-ma và các anh em ở với họ.
15 Kính chào Phiên-lơ, Giu-li, Nê-rơ, chị của Nê-rơ, Ô-lâm và tất cả tín hữu ở với họ.
16 Hãy chào nhau bằng cái siết tay thân mật. Tất cả các Hội thánh của Chúa Cứu Thế gửi lời chào anh em.
17 Xin anh em đề phòng những người gây chia rẽ, hoang mang và chống nghịch chân lý anh em đã học. Hãy xa lánh họ.
18 Những người ấy không phục vụ Chúa Cứu Thế chúng ta, nhưng chỉ tìm tư lợi. Họ dùng những lời nói ngọt ngào tâng bốc để đánh lừa người nhẹ dạ.
19 Mọi người đều biết lòng tin kính vâng phục của anh em nên tôi rất mừng. Tôi muốn anh em khôn ngoan về điều thiện, nhưng ngây thơ về điều ác.
20 Thượng Đế Bình an sẽ sớm chà nát Sa-tan dưới chân anh em. Cầu chúc anh em hằng hưởng được ân phúc của Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.
21 Ti-mộ-thư, bạn đồng sự với tôi, và Lưu-xi, Gia-sơn, Sô-bá-thơ, bà con của tôi, đều gửi lời thăm anh em.
22 Tôi là Tạc-thu, người chép bức thư nầy xin kính chào anh em trong Chúa.
23 Gai-út, người tiếp đãi tôi và cả Hội thánh, gửi lời thăm anh em.
Ê-rát, thủ quỹ thành phố và tín hữu Quách-ra cũng gửi lời thăm anh em.
24 Cầu chúc tất cả anh em hằng hưởng được ân phúc của Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.
Lời ca tụng Chúa
25 Tôn vinh Thượng Đế, là Đấng có quyền cho anh em sống vững mạnh bởi Phúc âm tôi truyền giảng, là sứ điệp về Chúa Cứu Thế Giê-xu, đúng theo huyền nhiệm được giữ kín suốt các thời đại trước.
26 Ngày nay, huyền nhiệm ấy được hiển lộ và công bố cho tất cả các dân tộc theo lệnh Thượng Đế hằng sống, như Thánh Kinh đã báo trước, để loài người tin nhận và vâng phục Chúa.
27 Nguyền vinh quang vĩnh cửu quy về Thượng Đế khôn ngoan duy nhất, do công lao Chúa Cứu Thế Giê-xu!
Thành tâm sở nguyện!
Thân kính,
Phao-lô