1 Thời xưa, Thượng Đế đã dùng các nhà tiên tri dạy bảo tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách.
2 Nhưng trong những ngày cuối cùng nầy, Thượng Đế sai Con Ngài là Chúa Cứu Thế dạy dỗ chúng ta. Thượng Đế đã nhờ Con Ngài sáng tạo vũ trụ, cũng cho Con Ngài thừa kế quyền chủ tể vạn vật.
3 Chúa Cứu Thế là vinh quang rực rỡ của Thượng Đế, là hiện thân của bản thể Ngài. Chúa dùng lời quyền năng bảo tồn vạn vật. Sau khi hoàn thành việc tẩy sạch tội lỗi. Chúa ngồi bên phải Thượng Đế uy nghiêm trên Thiên đàng.
Chúa Cứu Thế lớn hơn Thiên sứ
4 Chúa Cứu Thế cao trọng hơn các thiên sứ nên danh vị Ngài cũng cao cả hơn.
5 Có khi nào Thượng Đế bảo một thiên sứ:
“Ngươi thật là Con Ta Ngày nay Ta đã sinh ngươi”
hoặc:
“Ta sẽ làm Cha ngươi và ngươi sẽ làm Con Ta?”
6 Hơn nữa, khi đưa Con trưởng của Ngài vào đời, Thượng Đế ra lệnh: “Tất cả thiên sứ của Thượng Đế phải thờ lạy Con!”.
7 Thượng Đế miêu tả thiên sứ:
“Ngài làm cho thiên sứ giống như gió Và tôi tớ Ngài như ngọn lửa”.
8 Nhưng Thượng Đế phán về Con Ngài:
“Ngai Thượng Đế sẽ trường tồn vĩnh cửu. Chúa dùng công lý cai trị nước Ngài.
9 Chúa yêu lẽ công chính, ghét điều gian ác. Nên Thượng Đế - cũng là Thượng Đế của Chúa - Ban cho Chúa sự vui mừng trổi hơn bạn hữu”.
10 Thượng Đế cũng gọi con Ngài là Chúa:
“Ban đầu Chúa sáng tạo địa cầu Các tầng trời cũng do tay Chúa dựng nên.
11 Trời đất sẽ tiêu tan nhưng Chúa hằng còn Vạn vật sẽ rách nát như áo cũ
12 Chúa sẽ cuốn chúng lại như áo dài Như chiếc áo tồi tàn, cũ mục. Nhưng Chúa vẫn còn nguyên Tuổi tác Chúa không hề cùng”.
13 Chẳng khi nào Thượng Đế bảo một thiên sứ:
“Hãy ngồi bên phải Ta cho đến chừng Ta đặt kẻ thù Con làm bệ chân Con”
14 Các thiên sứ chỉ là thần phục dịch được Chúa sai đi phục vụ những người hưởng ân cứu rỗi.
Sự cứu rỗi vĩ đại
1 Vậy, ta phải giữ vững những chân lý đã nghe để khỏi bị lôi cuốn, trôi giạt.
2 Nếu những lời thiên sứ rao truyền đã là những mệnh lệnh bắt buộc, mọi người vi phạm, bất tuân đều bị trừng phạt đích đáng thì
3 ta làm sao thoát khỏi hình phạt, một khi khước từ ân cứu rỗi lớn lao nầy? Chính Chúa đã công bố Tin Mừng cứu rỗi nầy trước hết, rồi các môn đệ Ngài truyền lại cho chúng ta.
4 Thượng Đế cũng đã xác nhận Tin Mừng bằng những dấu lạ, phép lạ và việc quyền năng, cùng ban các ân tứ Thánh Linh cho mỗi người tuỳ theo ý muốn Ngài.
Đấng dìu dắt loài người vào cuộc sống mới
5 Thượng Đế không đem thế giới tương lai đặt dưới quyền các thiên sứ,
6 vì sách Thi thiên chép:
“Loài người là gì mà Chúa nhớ đến: Con loài người là ai mà Chúa săn sóc?
7 Chúa đã đặt người thấp hơn các thiên sứ một bực Rồi cho đội vương miện vinh quang và danh dự
8 Bắt vạn vật phục dưới chân người”.
Khi bảo vạn vật phục con người, Thượng Đế chẳng miễn trừ một vật nào. Hiện nay ta chưa thấy vạn vật phục con người.
9 Tuy nhiên, đem lời ấy áp dụng cho Chúa Giê-xu thật đúng: Ngài đã chịu xuống thấp hơn các thiên sứ một bực, nhưng Ngài đã hy sinh, nên được đội vương miện vinh quang và danh dự. Do ân phúc của Thượng Đế, Chúa Giê-xu đã chịu chết để cứu rỗi mọi người.
10 Thượng Đế là Đấng sáng tạo và bảo tồn vạn vật đã khiến Chúa Giê-xu, Cứu Tinh của nhân loại, chịu khổ nạn để hoàn thành sự cứu rỗi. Điều đó thật hợp lý, vì nhờ đó Ngài dìu dắt nhiều người vào cuộc sống vinh quang.
11 Đấng thánh hoá loài người, và những người được thánh hoá đều là con một Cha. Nên Chúa Giê-xu không thẹn gọi họ là anh em,
12 như chép trong Thi thiên:
“Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho anh em tôi Và ca ngợi Ngài giữa hội chúng”.
13 Tôi sẽ tin cậy Ngài”
và:
“Nầy, tôi đây, cùng với các con cái Thượng Đế đã ban cho tôi”.
14 Vì con cái Thượng Đế là người bằng xương thịt, nên Chúa Giê-xu cũng đã nhập thể làm người. Ngài chịu chết để chiến thắng Sa-tan, vua sự chết.
15 Ngài cũng giải cứu những người vì sợ chết, buộc lòng làm nô lệ suốt đời.
16 Hiển nhiên Chúa Giê-xu không trở thành thiên sứ, nhưng Ngài đã thành người, làm hậu tự Áp-ra-ham.
17 Chúa trở nên giống như ta, là anh em Ngài, về mọi phương diện, để làm Thầy Tế Lễ tối cao, nhân từ, trung thực trước mặt Thượng Đế, chuộc tội cho mọi người.
18 Vì Chúa từng chịu khổ khi đương đầu với các cơn cám dỗ, nên Ngài có thể giải cứu những người đang bị màng lưới cám dỗ vây bọc.
Chúa Cứu Thế lớn hơn Mai-sen
1 Thưa anh em, là những người dự phần ân cứu rỗi, hãy tập trung tư tưởng vào Chúa Cứu Thế Giê-xu, là sứ giả của Thượng Đế và Thầy Tế Lễ tối cao mà ta tin cậy.
2 Chúa Giê-xu trung thành với Thượng Đế như Mai-sen đã trung thành phục dịch trong Nhà Thượng Đế.
3 Chúa Giê-xu đáng được vinh dự hơn Mai-sen, chẳng khác nào người xây nhà được tôn trọng hơn ngôi nhà.
4 Con người xây cất nhà cửa, còn Đấng sáng tạo vạn vật chính là Thượng Đế.
5 Mai-sen trung thành phục dịch Nhà Chúa, trong cương vị người tôi tớ; ông nói trước về những điều Chúa sẽ dạy sau nầy.
6 Còn Chúa Cứu Thế là Con Thượng Đế, lãnh đạo mọi việc trong Nhà Chúa. Ta thuộc về Nhà Chúa - vì Chúa sống trong ta - nếu ta giữ vững lòng can đảm và niềm hy vọng trong Ngài.
Nơi an nghỉ diệu kỳ
7 Như Thánh Linh đã dạy:
“Ngày nay, nếu các con nghe tiếng Chúa
8 Đừng ngoan cố, cứng lòng như ngày nổi loạn Trong thời kỳ thử nghiệm giữa sa mạc.
9 Nơi ấy, tổ phụ các con thử nghiệm, thách thức Ta Mặc dù họ đã thấy công việc Ta suốt bốn mươi năm
10 Vì thế, Ta giận những người ấy, Và than rằng: lòng họ luôn lầm lạc, không chịu vâng lời
11 Trong cơn phẫn nộ, Ta quả quyết: Họ chẳng bao giờ được vào nơi an nghỉ Ta”.
12 Thưa anh em, hãy thận trọng để khỏi có ai sinh lòng gian ác, hoài nghi mà xây lưng khước từ Thượng Đế hằng sống.
13 Nhưng hằng ngày, hãy khích lệ nhau - trong thời gian gọi là “ngày nay” - để không ai bị tội lỗi quyến rũ mà ngoan cố, cứng lòng.
14 Nếu ta giữ vững niềm tin cậy từ ngày đầu theo Chúa, trung kiên đến cuối cùng, chắc chắn chúng ta sẽ dự phần cơ nghiệp với Chúa Cứu Thế.
15 Như Chúa đã kêu gọi:
“Ngày nay, nếu các con nghe tiếng Chúa Đừng ngoan cố, cứng lòng như ngày nổi loạn...”
16 Ai đã nghe tiếng Chúa rồi nổi loạn? Những người đã được Mai-sen hướng dẫn thoát ly khỏi ngục tù Ai-cập.
17 Ai đã chọc giận Thượng Đế suốt bốn mươi năm? Những người phạm tội nên phải phơi thây trong sa mạc.
18 Chúa đã quả quyết ai không bao giờ được vào nơi an nghỉ với Ngài? Những người không vâng lời Chúa.
19 Vì sao họ không được vào nơi an nghỉ? Chỉ vì họ hoài nghi.
1 Trong thời hạn Thượng Đế dành cho con người vào nơi an nghỉ, ta phải lo sợ giữ mình để khỏi một ai bị khai trừ.
2 Vì Phúc âm được truyền giảng cho chúng ta cũng như cho người thời Mai-sen, nhưng họ không được cứu, vì nghe mà không tin nhận.
3 Còn chúng ta đã tin nhận Chúa, nên được vào nơi an nghỉ của Ngài. Thượng Đế bảo:
“Trong cơn phẫn nộ, ta quả quyết: Họ chẳng bao giờ được vào nơi an nghỉ Ta”.
Dù Ngài đã hoàn tất mọi việc và chờ đợi họ từ khi sáng tạo vũ trụ.
4 Thật vậy, Thánh Kinh chép: “sau khi hoàn tất mọi việc, Thượng Đế an nghỉ vào ngày thứ bảy”.
5 Nhưng họ không được an nghỉ vì Thượng Đế tuyên bố: “Họ chẳng bao giờ được vào nơi an nghỉ Ta”.
6 Tuy nhiên, lời hứa của Thượng Đế vẫn còn hiệu lực, nên một số người được vào nơi an nghỉ. Còn những người trước kia đã nghe Phúc âm nhưng không tin nhận, đều không được vào.
7 Do đó Thượng Đế lại định một thời hạn khác gọi là “ngày nay” là thời hiện tại. Sau khi loài người thất bại một thời gian dài, Chúa dùng Đa-vít nhắc lại lời hứa trước kia:
“Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, Đừng ngoan cố, cứng lòng...”
8 Nếu Giô-suê thật sự đưa họ vào nơi an nghỉ, tất nhiên Thượng Đế chẳng cần ấn định thêm một thời hạn nữa.
9 Vậy, vẫn còn ngày an nghỉ cho dân Chúa.
10 Người nào vào nơi an nghỉ của Chúa cũng thôi làm việc riêng, như Chúa đã nghỉ công việc của Ngài.
11 Vậy ta hãy cố gắng vào nơi an nghỉ đó, để không một ai bị khai trừ vì theo gương những người ngoan cố không tin.
12 Lời Thượng Đế sống động và đầy năng lực, sắc hơn gươm hai lưỡi, mổ xẻ hồn linh, xương tủy, phân tích tư tưởng và ước vọng trong lòng.
13 Chẳng có vật gì che giấu được mắt Chúa, nhưng tất cả đều lột trần, phơi bày trước mặt Ngài vì ta phải tường trình mọi việc cho Ngài.
Chúa Cứu Thế và Thầy Tế lễ đời đời
14 Chúa Giê-xu, Con Thượng Đế, là Thầy Tế lễ tối cao đã từ trời giáng thế và trở về trời để cứu giúp ta, nên ta hãy giữ vững niềm tin nơi Ngài.
15 Thầy Tế lễ ấy cảm thông tất cả những yếu đuối của chúng ta, vì Ngài từng chịu đựng mọi cám dỗ như chúng ta, nhưng không bao giờ phạm tội.
16 Vậy, ta hãy vững lòng đến gần ngai Thượng Đế để nhận lãnh tình thương và ân phúc giúp ta khi cần thiết.
1 Các thầy Tế lễ tối cao đều là người được lựa chọn và bổ nhiệm thay mặt loài người phục vụ Thượng Đế, dâng hiến lễ vật và sinh tế chuộc tội.
2 Thầy Tế lễ tối cao cũng là người bất toàn, yếu đuối, nên có thể cảm thông với những người lầm lỗi.
3 Vì thế, ông phải dâng sinh tế chuộc tội, chẳng những cho nhân dân, mà cũng cho chính mình.
4 Không một người nào tự lập mình làm thầy Tế lễ tối cao, vì chức vụ nầy do Thượng Đế chọn lập, như trường hợp A-rôn.
5 Chúa Cứu Thế cũng không tự tôn mình làm Thầy Tế lễ tối cao, nhưng được Thượng Đế tấn phong. Thượng Đế phán:
“Ngươi là Con Ta Ngày nay Ta đã sinh ngươi”
6 Rồi Ngài xác nhận:
“Con làm Thầy Tế lễ đời đời
Theo cấp bậc Mên-chi-xê-đéc”.
7 Chúa Cứu Thế khi sắp hy sinh đã nài xin Thượng Đế, khóc lóc kêu cầu Đấng có quyền cứu Ngài khỏi chết. Vì lòng tôn kính nhiệt thành nên Ngài được Thượng Đế nhậm lời.
8 Dù là Con Thượng Đế, trong những ngày khổ nạn Ngài phải học tập phục tùng Thượng Đế.
9 Khi đã hoàn thành, Chúa làm Nguồn cứu rỗi đời đời cho những ai vâng phục Ngài.
10 Thượng Đế đã bổ nhiệm Ngài làm Thầy Tế lễ tối cao theo cấp bậc Mên-chi-xê-đéc.
11 Tôi định khai triển vấn đề nầy, nhưng vì anh em chậm hiểu nên rất khó giải thích.
12 Đáng lẽ ngày nay đã làm giáo sư, nhưng anh em vẫn còn ấu trĩ, phải học đi học lại những chân lý sơ đẳng của Đạo Chúa. Anh em vẫn cần uống sữa, chưa tiêu hoá nổi thức ăn của người lớn.
13 Kẻ sống nhờ sữa vẫn còn trẻ con, chưa biết phân biệt phải trái, chưa thể học hỏi về Đạo lý công chính của Chúa.
14 Thức ăn đặc dành cho người trưởng thành vì họ có kinh nghiệm, biết phân biệt thiện ác.
1 Trong lĩnh vực tri thức Đạo Chúa, ta nên vượt qua trình độ sơ đẳng để tiến đến giai đoạn trưởng thành. Ta không cần nhắc lại những kiến thức căn bản nữa, như “ăn năn tội để được cứu”, “đức tin nơi Thượng Đế”,
2 “bài học về lễ báp-tem”, “việc đặt tay cầu nguyện”, “sự sống lại của người chết” hay “sự phán xét sau cùng”.
3 Được Chúa cho phép, ta hãy tiến xa hơn.
4 Người đã được Chúa khai trí, từng nếm biết ân tứ thiên thượng, nhận lãnh Thánh Linh,
5 thực nghiêm Đạo tốt lành của Chúa và quyền năng phi thường của thế giới tương lai,
6 nếu lại vấp ngã lìa bỏ Chúa, tất nhiên không thể ăn năn lần nữa vì đã đóng đinh Con Thượng Đế lần thứ hai và công khai sỉ nhục Ngài.
7 Một thửa đất thấm nhuần mưa móc, sinh sản hoa mầu tốt đẹp cho nhà nông, hẳn đươc phúc lành của Thượng Đế.
8 Nếu đám đất đó chỉ sinh gai gốc, cỏ dại, tất sẽ bị bỏ hoang và cuối cùng bị đốt sạch.
9 Thưa anh em yêu quý, dù nói thế nhưng chúng tôi biết chắc anh em đã được cứu rỗi và có kết quả tốt đẹp.
10 Thượng Đế chẳng bao giờ bất công; Ngài không quên công tác của anh em và tình yêu thương anh em thể hiện vì danh Ngài: anh em đã liên tục giúp đỡ các tín hữu.
11 Chúng tôi ước mong mỗi người cứ sốt sắng như thế đến trọn đời để được Chúa ban thưởng.
12 Chúng tôi không muốn anh em chán nản, bỏ cuộc, nhưng cứ noi gương những người đã hưởng được điều Chúa hứa, nhờ đức tin và nhẫn nại.
Lời hứa chắc chắn
13 Như trường hợp Áp-ra-ham, khi Thượng Đế cam kết với ông, Ngài lấy danh mình mà thề (vì không có danh nào lớn hơn).
14 Chúa thề hứa: “Ta sẽ giáng phúc cho con và dòng dõi con sẽ vô cùng đông đảo”.
15 Áp-ra-ham kiên nhẫn đợi chờ và cuối cùng đã nhận được điều Chúa hứa.
16 Người ta thường lấy danh người lớn hơn mình mà thề. Lời thề xác nhận lời nói và chấm dứt mọi tranh chấp, cãi vã giữa đôi bên.
17 Thượng Đế muốn những người thừa hưởng lời hứa của Ngài biết chắc ý định Ngài không bao giờ thay đổi, nên Ngài dùng lời thề để xác nhận lời hứa.
18 Cả lời hứa, lời thề đều bất di bất dịch vì Thượng Đế chẳng bao giờ bội ước. Vậy, những người tìm đến Ngài để tiếp nhận ân cứu rỗi đều được niềm an ủi lớn lao và hy vọng chắc chắn trong Ngài.
19 Niềm hy vọng của chúng ta vừa vững chắc vừa an toàn, như chiếc neo của linh hồn giữ chặt chúng ta trong Thượng Đế; Ngài đang ngự sau bức màn, trong Nơi Chí Thánh trên trời.
20 Chúa Giê-xu đã vào đó trước chúng ta để cầu thay cho chúng ta, từ khi Ngài giữ chức Tế lễ tối cao đời đời theo cấp bậc Mên-chi-xê-đéc.
Thầy Tế lễ Mên-chi-xê-đéc
1 Mên-chi-xê-đéc làm vua nước Sa-lem, cũng là thầy tế lễ của Thượng Đế Tối cao. Vua đã tiếp đón Áp-ra-ham khi ông kéo quân khải hoàn để chúc phước lành cho ông.
2 Áp-ra-ham dâng lên vua một phần mười chiến lợi phẩm. Mên-chi-xê-đéc có nghĩa “Vua công chính”, lại làm vua của Sa-lem, nên cũng là “Vua hoà bình”.
3 Vua không có cha mẹ, không tổ tiên, cũng không có ngày sinh ngày mất, nên vua giống như Con Thượng Đế, làm Thầy Tế lễ đời đời.
4 Mên-chi-xê-đéc thật cao trọng, vì Áp-ra-ham đã dâng cho vua một phần mười chiến lợi phẩm.
5 Sau nầy, con cháu Lê-vi làm thầy tế lễ, chiếu theo luật pháp, được thu nhận phần mười sản vật của nhân dân. Nhân dân với thầy tế lễ đều là anh em, vì cùng một dòng họ Áp-ra-ham.
6 Nhưng Mên-chi-xê-đéc, dù không phải là con cháu Lê-vi, cũng nhận lễ vật phần mười của Áp-ra-ham và chúc phúc lành cho ông là người đã nhận lãnh lời hứa của Chúa.
7 Ai cũng biết người chúc phước bao giờ cũng lớn hơn người nhận lãnh.
8 Các thầy tế lễ dù không sống mãi, vẫn được thu lễ vật phần mười, huống chi Mên-chi-xê-đéc là người được xem là bất tử.
9 Ta có thể nói Lê-vi - tổ phụ các thầy tế lễ là những người được thu lễ vật - cũng đã hiệp với Áp-ra-ham dâng lễ vật cho Mên-chi-xê-đéc.
10 Vì khi Áp-ra-ham gặp Mên-chi-xê-đéc, Lê-vi còn ở trong lòng tổ phụ.
11 Nếu công việc của các thầy tế lễ dòng họ Lê-vi đã hoàn hảo và có thể cứu rỗi chúng ta, sao phải cần một thầy Tế lễ khác, theo dòng Mên-chi-xê-đéc chứ không theo lòng A-rôn, họ Lê-vi? Luật pháp ban hành cho dân Do-thái được xây dựng trên chức quyền của thầy tế lễ.
12 Vậy, một khi thay đổi chức tế lễ, hẳn cũng phải thay đổi luật pháp.
13-14 Chúa Cứu Thế không thuộc dòng họ Lê-vi, như chúng ta đều biết; Ngài thuộc dòng họ Giu-đa, dù chẳng có người Giu-đa nào được phục vụ nơi bàn thờ và Mai-sen cũng không giao việc tế lễ gì cho dòng họ ấy.
Chúa Cứu Thế giống Mên-chi-xê-đéc
15 Sự thay đổi càng nổi bật khi một thầy Tế lễ khác xuất hiện, giống như Mên-chi-xê-đéc.
16 Thầy Tế lễ nầy được tấn phong không theo luật lệ cổ truyền, nhưng do quyền năng của Nguồn Sống bất diệt.
17 Vì Thánh Kinh chép:
“Con làm Thầy Tế lễ đời đời
Theo cấp bậc Mên-chi-xê-đéc”.
18 Luật lệ cổ truyền về chức tế lễ đã bị bãi bỏ vì suy yếu và vô hiệu.
19 Luật pháp Mai-sen cũng chẳng đem lại điều gì hoàn hảo. Nhưng hiện nay, chúng ta có niềm hy vọng cao cả hơn, nhờ đó chúng ta được đến gần Thượng Đế.
20-21 Hơn nữa, còn có lời thề của Thượng Đế. Khi Chúa Cứu Thế nhận chức tế lễ, Thượng Đế tuyên bố:
“Ta đã thề, chẳng bao giờ đổi thay
Con làm Thầy Tế lễ đời đời...”
Suốt cả lịch sử, không một thầy tế lễ nào được Thượng Đế thề hứa như thế.
22 Do đó, Chúa Giê-xu đủ điều kiện bảo đảm chắc chắn cho giao ước tốt đẹp hơn.
23 Trước kia phải có nhiều thầy tế lễ, cha truyền con nối, để tiếp tục nhiệm vụ.
24 Nhưng Chúa Giê-xu sống vĩnh cửu nên giữ chức tế lễ đời đời chẳng cần đổi thay.
25 Do đó, Chúa có thể cứu rỗi hoàn toàn những người nhờ Ngài mà đến gần Thượng Đế, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho họ.
26 Chúa Giê-xu là Thầy Tế lễ tối cao duy nhất đáp ứng được tất cả nhu cầu của chúng ta. Ngài thánh khiết, vô tội, trong sạch, tách biệt khỏi người tội lỗi, vượt cao hơn các tầng trời.
27 Ngài không giống các thầy Tế lễ tối cao Do-thái phải dâng sinh tế hằng ngày, trước vì tội họ, sau vì tội dân. Nhưng Ngài hiến thân làm sinh tế chuộc tội, một lần là đủ.
28 Trước kia, luật pháp Mai-sen bổ nhiệm những người bất toàn giữ chức Tế lễ tối cao. Nhưng sau nầy, Thượng Đế dùng lời thề bổ nhiệm Con Ngài, là Đấng trọn vẹn đời đời.
Thầy Tế lễ tối cao đời đời
1 Chủ điểm của đề tài đang trình bày là chúng ta có Thầy Tế lễ vô cùng cao quý, tức Chúa Cứu Thế đang ngồi bên phải ngai Thượng Đế uy nghiêm trên Thiên đàng.
2 Ngài thi hành chức tế lễ tại Nơi Chí Thánh trong Đền Thờ thật, do chính Chúa dựng nên, không do loài người xây cất.
3 Nhiệm vụ các Thầy Tế lễ tối cao là hiến dâng lễ vật và sinh tế lên Thượng Đế, nên Chúa Cứu Thế cũng đã hiến dâng sinh tế.
4 Nếu Chúa Cứu Thế còn ở trần gian, Ngài không thể nào giữ chức tế lễ ấy, vì tại đây đã có các thầy tế lễ được bổ nhiệm theo luật pháp Mai-sen.
5 Họ chỉ phục vụ tại Đền Thờ trần gian, là mô hình của Đền Thờ thật trên trời. Vì khi Mai-sen sắp dựng Đền Tạm, Thượng Đế đã căn dặn: “Phải cẩn thận làm đúng kiểu mẫu Đền Thờ mà con nhìn thấy lúc ở trên núi!”.
6 Chức vụ tế lễ của Chúa Giê-xu cao cả hơn chức vụ các thầy tế lễ kia vô cùng, chẳng khác nào Giao ước thứ hai tốt đẹp hơn Giao ước thứ nhất, vì được thiết lập trên những lời hứa vô cùng quý báu hơn và được chính Chúa Giê-xu làm trung gian giữa hai bên kết ước.
7 Nếu Giao ước thứ nhất đã hoàn hảo, hẳn không cần Giao ước thưa hai.
8 Nhưng Thượng Đế đã khiển trách dân Y-sơ-ra-ên:
“Trong thời đại tương lai, Ta sẽ lập một Giao ước Với dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa
9 Khác hẳn giao ước Ta đã lập với tổ tiên họ Khi Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi Ai-cập Vì họ bội ước Ta nên Ta lìa bỏ họ”
10 Nhưng Thượng Đế hứa tiếp: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với dân Ta Sau những ngày đó, Ta sẽ ghi luật Ta trong trí Và khắc vào tâm khảm họ Ta sẽ làm Thượng Đế của họ Và họ sẽ làm dân Ta.
11 Chẳng cần có ai bảo bạn hữu Hoặc kêu gọi anh em: Hãy nhận biết Chúa! Vì mọi người từ trẻ đến già Đều sẽ nhận biết Ta.
12 Ta sẽ tha thứ mọi gian ác của họ Chẳng còn ghi nhớ tội lỗi nữa”.
13 Giao ước nầy được Thượng Đế gọi là “Giao ước mới” như thế, Giao ước thứ nhất đã cũ rồi. Điều gì cũ kỹ, lỗi thời đều phải bị đào thải.
Hai lối thờ phượng
1 Giao ước thứ nhất đã được thiết lập giữa Thượng Đế và dân Ngài để quy định cách thờ phượng và xây dựng một Đền Thánh trên mặt đất.
2 Sau đó, Đền Tạm được dựng lên, gồm hai phần. Phần thứ nhất gọi là Nơi Thánh có đặt giá đèn và bàn để bánh trần thiết.
3 Phần thứ hai, bên trong bức màn, gọi là nơi Chí Thánh.
4 Nơi đây có bàn thờ xông hương bằng vàng và rương giao ước bọc vàng. Trong rương giao ước, có chiếc bình vàng đựng ma-na, cây gậy A-rôn đã nứt lộc và hai bảng đá khắc mười điều răn.
5 Trên rương giao ước, có hai chê-ru-bim rực rỡ hào quang, cánh xoè ra che phủ nắp rương. Nhưng ở đây chúng ta không cần đi sâu vào chi tiết.
6 Khi mọi sự đã an bài, các thầy tế lễ có thể thường xuyên vào Nơi Thánh để thi hành nhiệm vụ.
7 Nhưng chỉ có Thầy Tế lễ tối cao mới được vào Nơi Chí Thánh mỗi năm một lần, và phải đem huyết dâng lên Thượng Đế vì tội lầm lỡ của chính mình và của cả nhân dân.
8 Thánh Linh dùng những điều nầy để dạy chúng ta: nếu Giao ước cũ vẫn còn thì nhân dân chưa được vào Nơi Chí Thánh.
9 Điều nầy chứng tỏ lễ vật và sinh tế không thể hoàn toàn tẩy sạch lương tâm loài người.
10 Vì Giao ước cũ chỉ định các thức ăn uống, cách tẩy uế, nghi lễ, luật lệ phải thi hành cho đến kỳ Thượng Đế cải cách toàn diện.
11 Chúa Cứu Thế đã đến, giữ chức Tế lễ tối cao của thời kỳ tốt đẹp hiện nay. Chúa đã vào Đền Thờ vĩ đại và toàn hảo trên trời, không do tay người xây cất vì không thuộc trần gian.
12 Ngài không mang huyết của dê đực, bò con, nhưng dâng chính huyết Ngài trong Nơi Chí Thánh, để đem lại sự cứu rỗi đời đời cho chúng ta.
13 Huyết của dê đực, bò đực và tro bò cái tơ rảy trên những người ô uế còn có thể thánh hoá, tẩy sạch thân thể họ,
14 huống chi huyết của Chúa Cứu Thế lại càng có năng lực tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi hành vi tội lỗi, để chúng ta phụng sự Thượng Đế hằng sống cách trong sạch. Vì Chúa Cứu Thế đã nhờ Thánh Linh hiến dâng thân Ngài làm sinh tế hoàn toàn cho Thượng Đế.
15 Do đó, Chúa Cứu Thế làm Đấng trung gian của Giao ước mới; Ngài đã chịu chết để cứu chuộc loài người khỏi mọi vi phạm chiếu theo Giao ước cũ. Nhờ Ngài, những ai được Thượng Đế mời gọi đều tiếp nhận hạnh phúc vĩnh cửu như Thượng Đế đã hứa.
16 Người ta không thể thi hành một chúc thư khi chưa có bằng chứng người viết chúc thư đã chết,
17 vì chúc thư chỉ có hiệu lực khi người ấy qua đời. Nếu người ấy còn sống, chúc thư chưa có hiệu lực.
18 Vì thế, Giao ước cũ cần được huyết ấn chứng mới có hiệu lực.
19 Sau khi công bố các điều khoản luật pháp cho nhân dân. Mai-sen lấy huyết bò con và huyết dê đực cùng với nước, dùng lông chiên đỏ tươi và cành phương thảo rảy huyết trên sách luật và nhân dân.
20 Ông tuyênbố: “Đây là huyết của Giao ước Thượng Đế thiết lập và bảo đồng bào vâng giữ”.
21 Mai-sen cũng rảy huyết trên Đền Tạm và mỗi dụng cụ thờ phựợng.
22 Vậy, theo luật pháp, huyết tẩy sạch hầu hết mọi vật: Nếu không đổ huyết, tội lỗi chẳng bao giờ được tha thứ.
Chúa hy sinh tiêu diệt tội lỗi
23 Nếu các vật dưới đất - là mô hình của các vật trên trời - được tẩy sạch nhờ huyết sinh tế, thì các vật thật trên trời phải dùng huyết sinh tế có giá trị hơn muôn phần.
24 Chúa Cứu Thế không vào Đền Thánh dưới đất do con người xây cất, mô phỏng theo Đền Thánh thật. Nhưng Ngài đã vào Đền Thánh trên trời, và đang thay mặt chúng ta đến gặp Thượng Đế.
25 Chúa cũng không dâng thân Ngài nhiều lần, như các thầy Tế lễ tối cao Do-thái mỗi năm phải đem huyết sinh tế vào Nơi Chí Thánh.
26 Không lẽ từ khi sáng tạo vũ trụ đến nay, Ngài đã phải chịu chết nhiều lần sao? Không, Chúa Cứu Thế chỉ xuất hiện một lần vào cuối các thời đại, dâng thân Ngài làm sinh tế để xoá sạch tất cả tội lỗi chúng ta.
27 Theo thông lệ, mỗi người chỉ chết một lần rồi bị Chúa xét xử.
28 Cũng thế, Chúa Cứu Thế chỉ hy sinh tính mạng một lần là đủ gánh thay tội lỗi loài người. Ngài sẽ trở lại, không phải gánh tội lỗi nữa, nhưng để cứu rỗi những người trông đợi Ngài.
1 Luật pháp Do-thái thời xưa chỉ là hình ảnh lu mờ của những việc tốt đẹp trong thời đại cứu rỗi. Sinh tế dâng lên hằng năm vẫn không thể khiến người dâng tế lễ trở nên hoàn hảo được.
2 Nếu được, sao họ không chấm dứt việc dâng sinh tế? Vì nếu đã được sạch tội, lương tâm họ tất nhiên không còn cáo trách tội lỗi nữa.
3 Trái lại, tội lỗi của họ vẫn được nhắc nhở hằng năm mỗi khi dâng tế lễ,
4 vì huyết của bò đực và dê đực không bao giờ loại trừ tội lỗi được.
5 Bởi thế, khi xuống trần gian, Chúa Cứu Thế đã tuyên bố:
“Thượng Đế chẳng muốn sinh tế hay lễ vật Nên Ngài chuẩn bị một thân thể cho tôi
6 Ngài cũng không hài lòng tế lễ thiêu và chuộc tội
Nên tôi nói: Thưa Thượng Đế, Nầy tôi đến để thi hành ý muốn Chúa Đúng theo mọi điều Thánh kinh đã chép về tôi”.
8 Trước hết, Chúa Cứu Thế xác nhận: “Thượng Đế chẳng muốn, cũng chẳng hài lòng sinh tế hay lễ vật, tế lễ thiêu hay chuộc tội” mặc dù luật pháp cũ đã quy định rõ ràng.
9 Sau đó, Chúa tiếp: “Nầy, tôi đến để thi hành ý muốn Chúa”. Vậy Chúa Cứu Thế đã bãi bỏ lệ dâng hiến cũ để lập thể thức dâng hiến mới.
10 Theo ý muốn Thượng Đế, Ngài đã dâng hiến bản thân làm sinh tế chuộc tội một lần là đủ tẩy sạch tội lỗi chúng ta.
11 Các thầy tế lễ Do-thái mỗi ngày cứ dâng đi dâng lại những sinh tế không thể nào loại trừ tội lỗi.
12 Còn Chúa Cứu Thế chỉ dâng sinh tế chuộc tội một lần, nhưng có hiệu lực vĩnh viễn, rồi lên ngồi bên phải Thượng Đế,
13 đợi chờ các kẻ chống nghịch đầu hàng dưới chân Ngài.
14 Nhờ dâng tế lễ chỉ một lần, Chúa làm cho những người sạch tội được hoàn hảo đời đời.
15 Chúa Thánh Linh cũng xác nhận với chúng ta điều ấy:
“Đây là Giao ước Ta sẽ lập với họ
16 Sau những ngày đó, Ta sẽ ghi luật Ta trong trí Và khắc vào tâm khảm họ”.
17 Ngài lại hứa:
“Ta sẽ tha thứ các gian ác của họ Chẳng còn ghi nhớ tội lỗi nữa”.
18 Một khi tội lỗi đã được tha thứ, việc dâng tế lễ chuộc tội không cần thiết nữa.
Đặc quyền đến gần Chúa
19 Do đó, thưa anh em, chúng ta được quyền vào Nơi Chí Thánh nhờ máu Chúa Giê-xu,
20 vì Ngài đã mở cho ta con đường sống mới mẻ xuyên qua bức màn, tức là thân xác Ngài.
21 Ta đã có thầy Tế lễ tối cao quản trị cả nhà Thượng Đế.
22 Vậy, với tấm lòng thành và niềm tin vững chắc, ta hãy bước đến gần Thượng Đế, vì tâm hồn được tẩy sạch khỏi lương tâm xấu và thân thể được tắm bằng nước tinh khiết.
23 Chúng ta hy vọng chắc chắn nơi lời hứa của Chúa, vì Ngài luôn luôn thành tín.
24 Cũng hãy lưu ý khích lệ nhau trong việc yêu thương, tương trợ và làm đủ các việc lành.
25 Đừng xao lãng việc nhóm họp như một số người thường làm, nhưng hãy khuyến khích nhau, nhất là lúc này, vì Chúa gần trở lại.
26 Một khi đã biết rõ chân lý, nếu chúng ta còn cố ý phạm tội sẽ chẳng còn sinh tế nào chuộc tội được nữa,
27 nhưng phải khủng khiếp đợi chờ Chúa xử đoán và lửa hừng sẽ thiêu đốt kẻ phản nghịch.
28 Ngừơi phạm luật Mai-sen phải bị xử tử không thương xót, nếu có hai, ba nhân chứng xác nhận.
29 Vậy, hãy nghĩ xem, có hình phạt thảm khốc nào tương xứng với kẻ giày đạp Con Thượng Đế, coi thương huyết giao ước đã tẩy sạch tội mình và sỉ nhục Thánh Linh hằng ban ân cho con cái Ngài?
30 Vì ta biết Chúa dạy: “Xét xử là phần việc Ta, Ta sẽ báo ứng” và “Chúa sẽ xét xử dân Ngài”.
31 Sa vào tay Thượng Đế hằng sống thật là kinh khiếp!
32 Hãy nhớ lại ngày trước, lúc anh em mới tiếp nhận ánh sáng Chúa, dù gặp nhiều gian khổ anh em vẫn kiên tâm chiến đấu.
33 Có lúc anh em công khai chịu sỉ nhục, hoạn nạn; đến khi người khác phải chịu, anh em cũng vui lòng chia sẻ.
34 Anh em cùng chịu gian khổ với người bị lao tù, vui lòng bị tước đoạt của cải, vì biết mình còn của cải vĩnh viễn tốt đẹp hơn.
35 Đừng mất can đảm, vì nhờ đó anh em sẽ được phần thưởng lớn.
36 Anh em phải kiên nhẫn làm trọn ý muốn của Thượng Đế, rồi Ngài sẽ ban cho anh em mọi điều Ngài hứa.
37 Chẳng còn bao lâu nữa,
“Đấng ta chờ mong sẽ trở lại Ngài không chậm trễ đâu
38 Người công chính sẽ sống bởi đức tin. Nếu ta rút lui, Chúa chẳng hài lòng”
39 Nhưng ta chẳng bao giờ rút lui, bỏ cuộc, để rồi bị huỷ diệt. Trái lại, ta giữ vững đức tin để linh hồn được cứu rỗi.
Đức tin
1 Đức tin là thực thể của những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những việc ta chưa thấy.
2 Nhờ đức tin, nhiều người xưa đã được khen ngợi, tuyên dương.
3 Bởi đức tin, chúng ta biết vũ trụ được sáng tạo bởi lời Thượng Đế và nguồn gốc của vạn vật không phải là những vật hữu hình.
4 Bởi đức tin, A-bên dâng lên Thượng Đế một sinh tế tốt hơn của Ca-in, nhờ đó ông được Thượng Đế tha tội và chứng nhận là người công chính, vì Ngài đã nhậm lễ vật ấy. Cho nên, dù đã khuất, A-bên vẫn còn dạy cho hậu thế bài học đức tin.
5 Bởi đức tin, Hê-nóc được tiếp đón về Thiên đàng, không phải vào cõi chết. Người ta không tìm thấy ông đâu cả vì Thượng Đế đã cất ông lên trời. Trước khi được cất lên, ông đã được chứng nhận là người làm hài lòng Thượng Đế.
6 Người không có đức tin không thể nào làm hài lòng Thượng Đế vì người đến gần Thượng Đế phải tin Ngài có thật, và Ngài luôn luôn tưởng thưởng xứng đáng cho người tìm cầu Ngài.
7 Bởi đức tin và lòng kính sợ Chúa. Nô-ê đóng một chiếc tàu để cứu gia đình khi nghe Ngài báo trước những việc tương lai. Do đó, ông kết tội thế gian và hưởng mọi hạnh phúc, đặc quyền của người tin cậy Chúa.
8 Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, lên đường đến xứ mình sẽ nhận làm sản nghiệp. Ông ra đi nhưng chẳng biết sẽ về đâu.
9 Bởi đức tin, ông kiều ngụ trên Đất hứa như trên đất nước người, sống tạm trong các lều trại với Y-sác và Gia-cốp, là những người thừa kế cùng hưởng lời hứa với ông.
10 Vì ông trông đợi một thành phố xây dựng trên nền móng vững chắc do Thượng Đế vẽ kiểu và xây cất.
11 Bởi đức tin, Sa-ra trong lúc già nua tuổi tác bỗng có sức sinh sản vì bà tin cậy lòng thành tín của Chúa.
12 Vì thế chỉ một người, một phụ nữ già yếu gần qua đời, đã sinh ra muôn triệu con cháu đông như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được.
13 Tất cả những người ấy đã sống bởi đức tin cho đến ngày qua đời, dù chưa nhận được điều Chúa hứa. Nhưng họ đã thấy trước và chào đón những điều ấy từ xa, tự xưng là kiều dân và lữ khách trên mặt đất.
14 Lời xác nhận ấy chứng tỏ họ đang đi tìm quê hương.
15 Vì nếu họ nhớ tiếc miền quê cũ, tất đã có ngày trở về.
16 Trái lại, họ tha thiết mong mỏi một quê hương tốt đẹp hơn là quê hương trên trời. Do đó Thượng Đế không thẹn tự xưng là Thượng Đế của họ, vì Ngài đã chuẩn bị cho họ một thành phố vĩnh cửu.
17 Bởi đức tin, Áp-ra-ham dâng con là Y-sác làm sinh tế khi được Thượng Đế thử nghiệm. Ông sẵn sàng dâng hiến đứa con một,
18 dù Thượng Đế đã hứa: “Nhờ Y-sác mà dòng dõi con sẽ sinh nôi nẩy nở.
19 Áp-ra-ham nhìn nhận Thượng Đế có quyền khiến người chết sống lại, nên ông đã được lại đứa con, như người sống lại từ cõi chết.
20 Bởi đức tin, Y-sác chúc phúc lành cho Gia-cốp và Ê-sau trong cuộc sống tương lai.
21 Bởi đức tin, lúc gần qua đời Gia-cốp chúc phúc lành cho hai con trai Giô-sép và tựa đầu vào cây gậy thờ phượng Chúa.
22 Bởi đức tin, trong giờ hấp hối, Giô-sép nói trước về cuộc di cư của dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập và dặn bảo về việc cải táng xác mình.
23 Bởi đức tin, khi mới sinh Mai-sen, cha mẹ đem giấu đi ba tháng vì thấy đứa con kháu khỉnh khác thường, không sợ lệnh cấm của nhà vua.
24 Bởi đức tin, khi đã khôn lớn, Mai-sen từ bỏ địa vị hoàng tử Ai-cập,
25 tình nguyện cùng chịu áp bức với dân Chúa hơn là hưởng thụ cảnh giàu sang tội lỗi.
26 Mai-sen xem sự sỉ nhục vì Chúa Cứu Thế quý hơn châu ngọc Ai-cập, vì ông trông đợi Chúa ban thưởng.
27 Bởi đức tin, Mai-sen bỏ nước Ai-cập ra đi, không sợ nhà vua thù hận, vì ông đứng vững như thấy Chúa vô hình.
28 Bởi đức tin, Mai-sen giữ lễ Vượt qua và rảy huyết sinh tế để Thiên sứ Huỷ diệt không giết hại các con trai đầu lòng của dân tộc.
29 Bởi đức tin, dân Chúa qua Hồng Hải như đi trên đất liền, còn người Ai-cập bắt chước đi theo liền bị nước biển chôn vùi.
30 Bởi đức tin, các thành lũy Giê-ri-cô sụp đổ sau khi dân Chúa đi vòng quanh bảy ngày.
31 Bởi đức tin, kỹ nữ Ra-háp khỏi chết chung với người vô tín, vì cô niềm nở đón tiếp các nhà trinh thám Y-sơ-ra-ên.
32 Tôi còn phải kể những ai nữa? Nếu nhắc đến từng người như Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên và các nhà tiên tri thì phải mất nhiều thì giờ.
33 Bởi đức tin, họ đã khắc phục nhiều nước, cầm cân công lý, hưởng được lời hứa, khoá hàm sư tử,
34 tắt đám lửa hừng, thoát lưỡi gươm địch, chuyển bại thành thắng, anh dũng chiến đấu, quét sạch quân thù.
35 Một số phụ nữ có thân nhân đã chết được sống lại. Nhiều người bị cực hình tra khảo đã quyết định thà chết còn hơn chối Chúa để được phóng thích, vì họ chọn sự sống lại tốt hơn.
36 Có người chịu sỉ nhục đòn vọt. Có người bị xiềng xích, lao tù.
37 Người bị ném đá, người bị cưa sẻ, kẻ chịu đâm chém, người mặc da chiên, da dê. Họ chịu gian khổ cùng cực, bị bức hại, bạc đãi đủ điều.
38 Xã hội loài người không còn dung họ nữa nên họ phải lang thang ngoài sa mạc, lưu lạc trên đồi núi, chui rúc dưới hang sâu hầm tối.
39 Tất cả những người ấy dù được ca ngợi vì đức tin, vẫn chưa ai nhận được điều Chúa hứa.
40 Thượng Đế đã dành cho chúng ta điều tốt đẹp hơn, vì nếu không có chúng ta, họ vẫn chưa được hoàn toàn.
Quyền sửa dạy của Cha Thiên thượng
1 Như thế, vì chung quanh ta có những rừng người chứng kiến, ta hãy kiên nhẫn chạy xong cuộc đua đang tham dự, sau khi cất bỏ các chướng ngại và tội lỗi dễ vướng chân.
2 Ta cứ nhìn chăm Chúa Giê-xu, là căn nguyên và cứu cánh của đức tin. Nhằm vào niềm vui tối hậu, Chúa đã kiên nhẫn vác cây thập tự, xem thường sỉ nhục và hiện nay ngồi trên ngai uy quyền tuyệt đối, bên phải ngai Thượng Đế.
3 Anh em hãy ghi nhớ gương kiên nhẫn của Chúa trước những cuộc tiến công vũ bão của bọn người tội lỗi, để khỏi nản lòng.
4 Anh em chiến đấu với tội ác dù gian khổ đến đâu cũng chưa phải đổ huyết như Ngài.
5 Anh em đã quên lời khuyên nhủ của Chúa, chẳng khác lời cha khuyên con:
“Con ơi, đừng xem thường sự sửa dạy của Chúa Khi Chúa quở trách, con đừng chán nản!
6 Vì Chúa sửa dạy người Ngài yêu thương Dùng roi vọt sửa trị con ruột”.
7 Anh em được sửa dạy vì Thượng Đế coi anh em là con ruột. Có người con nào mà cha không sửa dạy?
8 Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả con cái Chúa thì chưa phải con thật của Ngài.
9 Cha thể xác sửa dạy vẫn được ta tôn kính. Ta lại càng nên vâng phục Cha tâm linh để được sức sống dồi dào.
10 Cha thể xác sửa dạy một thời gian ngắn, cố gắng giúp ích ta. Nhưng Cha tâm linh sửa dạy vì lợi ích đời đời, để ta trở nên thánh khiết như Ngài.
11 Người bị sửa trị lúc đầu chỉ thấy đau buồn chứ chẳng vui sướng gì; nhưng về sau mới thấy kết quả tốt đẹp là tâm hồn bình an và tâm tính thánh thiện, công chính ngày càng tăng trưởng.
Lời kêu gọi và cảnh cáo
12 Vậy anh em hãy duỗi thẳng bàn tay mỏi mệt và đầu gối tê liệt.
13 Hãy làm đường thẳng cho chân anh em đi để người què khỏi lạc đường, lại còn được chữa lành.
14 Hãy cố gắng sống hoà hảo với mọi người và đeo đuổi con đường thánh hoá vì nếu không thánh hoá không ai được thấy Thượng Đế.
15 Hãy đề cao cảnh giác, để khỏi trật phần ân phúc của Thượng Đế. Đừng để điều cay đắng đâm rễ trong anh em, gây trở ngại và làm hoen ố nhiều người.
16 Đừng ai gian dâm, hoặc phàm tục như Ê-sau, người đã bán quyền trưởng nam chỉ vì miếng ăn.
17 Như anh em đã biết, về sau Ê-sau muốn hưởng phúc lành nhưng bị khước từ, dù khóc lóc van xin cũng không thể làm cha mình đổi ý.
18 Anh em không phải đến gần núi Si-nai đang cháy rực, hoặc đến chốn tối tăm, nơi tử địa hay chỗ gió gào.
19 Anh em cũng không nghe tiếng loa vang hay tiếng nói kinh khiếp đến nỗi ai nghe cũng xin đừng nói nữa.
20 Vì dân Y-sơ-ra-ên không chịu đựng nổi lời cảnh cáo: “Dù thú vật đụng đến núi nầy cũng bị ném đá”.
21 Quang cảnh trên núi ấy rùng rợn đến nỗi Mai-sen phải nhìn nhận: “Tôi đã khiếp sợ và run cầm cập”.
22 Nhưng anh em đã đến gần núi Si-ôn, gần thành phố của Thượng Đế hằng sống, gần thủ đô Thiên quốc, gần hàng triệu thiên sứ,
23 gần đoàn thể và Giáo hội của các con trưởng được ghi danh vào sổ trên trời, gần Thượng Đế là thẩm phán Tối cao của nhân loại, gần linh hồn các người công chính được hoàn toàn,
24 gần Chúa Giê-xu là Đấng Hoà giải của Giao ước mới và gần máu rưới ra, là máu có năng lực cứu người và biện hộ hùng hồn hơn máu của A-bên.
25 Anh em hãy giữ mình, đừng từ khước tiếng gọi của Chúa. Nếu người xưa khước từ lời cảnh cáo dưới đất, còn không thoát khỏi trừng phạt, ta chạy đâu cho thoát một khi khước từ tiếng cảnh cáo từ trời?
26 Lúc ấy, tiếng Chúa đã làm rúng chuyển cả mặt đất. Ngày nay, Chúa lại hứa: “Lần sau, Ta sẽ làm rúng chuyển cả đất lẫn trời”.
27 Câu ấy xác nhận những gì hay rúng chuyển sẽ bị đào thải, và những gì không rúng chuyển sẽ tồn tại.
28 Đã thuộc về một nước bền vững, tồn tại đời đời, ta hãy ghi ân, phục vụ Chúa với lòng nhiệt thành, kính sợ để Chúa vui lòng.
29 Vì Thượng Đế chúng ta là một ngọn lửa thiêu đốt.
Làm đẹp lòng Chúa
1 Hãy yêu thương nhau như anh em ruột thịt.
2 Đừng quên tiếp đãi tân khách, có người vì hiếu khách đã tiếp rước thiên sứ mà không biết.
3 Anh em hãy nhớ những người bị lao tù và chia sẻ nỗi khổ đau của họ. Hãy gánh bớt đau buồn cho những người bị bạc đãi, như người cùng cảnh ngộ.
4 Hãy tôn trọng hôn nhân, giữ lòng chung thủy và thánh sạch, vì Thượng Đế sẽ đoán phạt người gian dâm, ngoại tình.
5 Đừng tham tiền, có được bao nhiêu cũng nên thoả lòng vì Chúa đã dạy: “Ta không bao giờ bỏ con, chẳng khi nào quên con”.
6 Vì thế, ta vững lòng xác nhận:
“Chúa luôn luôn cứu giúp tôi; Khi loài người làm hại Tôi chẳng lo sợ gì”.
7 Anh em hãy nhớ đến những người dìu dắt và truyền dạy lời Chúa cho mình. Hãy nghĩ đến kết quả tốt đẹp của đời sống họ và học tập lòng tin Chúa của họ.
8 Hôm qua, ngày nay và cho đến muôn đời, Chúa Cứu Thế Giê-xu không bao giờ thay đổi.
9 Đừng để các tư tưởng mới lạ lôi cuốn anh em. Tinh thần ta vững mạnh là nhờ ân Chúa chứ không do các quy luật về thức ăn, tế lễ. Các quy luật ấy chẳng giúp gì cho người vâng giữ.
10 Ta đã có Bàn Thờ - là nơi Chúa Giê-xu hy sinh trên cây thập tự - nên người nào tiếp tục vâng giữ luật pháp Do-thái sẽ chẳng hưởng được gì tại Bàn Thờ ấy.
11 Theo luật pháp Do-thái, Thầy Tế lễ tối cao đem huyết con sinh tế vào Nơi Chí Thánh để làm lễ chuộc tội, còn xác nó phải đốt bên ngoài thành phố.
12 Chúa Giê-xu cũng đã chịu khổ và hy sinh bên ngoài thành phố, lấy máu Ngài rửa sạch tội lỗi chúng ta.
13 Vậy hãy ra ngoài vách thành với Chúa (tức là ra ngoài vòng danh lợi của thế gian nầy) để chia sẻ khổ nhục với Ngài.
14 Vì thế giới nầy chỉ là nơi tạm trú, nên ta tìm về quê hương vĩnh cửu trên trời.
15 Vậy nhờ Chúa Giê-xu, ta hãy liên tục dâng “tế lễ ca ngợi” Thượng Đế bằng cách nói cho người khác biết vinh quang Danh Ngài.
16 Đừng quên làm việc thiện và chia sớt của cải cho người nghèo khổ, đó là những tế lễ đẹp lòng Thượng Đế.
17 Hãy vâng lời những người dìu dắt anh em và theo đúng lời hướng dẫn của họ, vì họ coi sóc linh hồn anh em và chịu trách nhiệm trước mặt Chúa. Hãy vâng phục họ để họ vui vẻ thi hành nhiệm vụ. Nếu họ phiền muộn, chính anh em cũng chịu thiệt thòi.
18 Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, vì chúng tôi tin tưởng mình có lương tâm trong sạch, chỉ muốn sống cách tốt đẹp hoàn toàn.
19 Tôi thiết tha nài xin anh em cầu nguyện để Chúa cho tôi sớm trở về với anh em.
Lời cầu nguyện
20-21 Cầu xin Thượng Đế Hoà bình - Đấng đã cho Chúa Giê-xu sống lại - trang bị cho anh em mọi điều cần thiết để thi hành ý chỉ của Ngài. Cầu xin Đấng chăn chiên lớn chăm sóc anh em, đúng theo Giao ước đời đời ấn chứng bằng máu Ngài. Cầu xin Thượng Đế thực hiện trong anh em những việc đẹp ý Ngài do quyền năng của Chúa Cứu Thế! Vinh quang muôn đời đều quy về Ngài! Thành tâm sở nguyện!
Lời dặn cuối cùng
22 Anh em hãy kiên nhẫn nghe lời khuyên bảo trong thư, vì tôi chỉ viết vắn tắt đôi lời.
23 Tôi xin báo tin mừng: anh Ti-mộ-thư đã được trả tự do. Nếu đến đây kịp, anh sẽ cùng tôi đi thăm anh em.
24 Xin kính chào các nhà lãnh đạo Hội Thánh cùng tất cả anh em tín hữu. Các tín hữu Ý-đại-lợi kính chào anh em.
25 Cầu Chúa ban ân phúc cho tất cả anh em!
Thân kính,